Chiêm Ngắm Huyền Nhiệm Tình Yêu


1. Tình yêu, nguyên lý của sự sống đích thực

1. Con người và hạt nhân ý nghĩa

Muốn củng cố sức mạnh của một con người, người ta có thể trao cho người ấy một thứ vũ khí mạnh để có thể trấn áp người khác; hoặc trao cho người khác đồng tiền để có thể mua chuộc mọi thứ; hoặc trao cho người khác những mối liên hệ thuận lợi theo kiểu “nhất thân nhì thế”… Nhưng có lẽ điều ta có thể làm cho một người nào đó có được sức mạnh vô địch, nói một cách triết lý, đó là trao cho con người một ý nghĩa. Hai người cùng thể trạng, cùng đạp xe đạp trên một quãng đường bằng nhau, nhưng một người đạp xe bất đắc dĩ, còn một người tha thiết muốn tập để trở thành một tay đua xe… thì chắc chắn người tìm thấy được ý nghĩa cho công việc làm của mình sẽ là người tiến bộ nhanh hơn, đạp mau hơn rất nhiều. Ngược lại, người không tìm được ý nghĩa cho việc làm của mình sẽ tự làm yếu nhược chính sức sống của mình bằng thái độ tiêu cực. Đó chính là bi kịch Sysiphe được diễn tả trong thần thoại Hy lạp; bi kịch của một kẻ chịu hình phạt nặng nề nhất của kiếp người, đó là làm một công việc vô nghĩa : lăn tảng đá lên đỉnh núi, rồi thả cho nó lăn xuống, và lại tiếp tục xuống núi để lăn nó lên. Hành trình của kẻ không ý nghĩa có thể bị sụp đổ có khi chỉ vì một trục trặc nhỏ trên đường đời. Ta có thể thấy cùng một nguyên tắc đó trên tất cả mọi lãnh vực của cuộc đời con người, đặc biệt trong những lãnh vực dài hơi.

Con người mạnh hơn con vật, dĩ nhiên không phải là bằng bắp thịt, mà có lẽ cũng không phải chỉ bằng trí khôn. Trong bản năng, sức lực của con vật có được một sự thống nhất vì một mục đích duy nhất, đó là bảo vệ sự sống của mình bằng bất cứ giá nào. Trong khi đó, con người, nhiều khi vì biết nên không còn đủ can đảm, vì sợ mà trở nên hèn nhát. Nhưng trí khôn con người và cả thể xác con người, chỉ có thể được thống nhất, được quy tụ và phát huy toàn bộ nang lực trong một ý nghĩa của cuộc đời. Tìm thấy ý nghĩa duy nhất của cuộc đời, con người tìm thấy được sức mạnh của toàn thể, sức mạnh của những tiềm lực có thể bị dấu kín trong nhiều tầng sâu của bản thân. Ý nghĩa đời người, đó là một “hạt nhân” có khả năng tập trung, thống nhất con người, và cung cấp sức mạnh thật sự cho hành trình phức tạp của đời sống con người.

2. Sự sống toàn diện

Khi ta ra đường, gặp những tình huống khó chịu ở nơi công cộng, đụng chạm và tranh cãi, … ta về nhà, buồn giận, càu nhàu, bực tức, và nhiều khi “giận cá chém thớt”… Đó cũng là sống, nhưng là một sự sống vụn vặt, rời rạc. Sự sống ấy không có một mạch sống liên tục, sự sống ấy không có đủ sức mạnh để vươn lên và tuôn trào, sự sống ấy quá mềm yếu mà một chút chuyện ngoài đường cũng có thể xâu xé được.

Có khi ta xem phim, gặp thấy những con người “trợ lý giám đốc”, xum xoe trước mặt giám đốc, dạ dạ vâng vâng, xoa tay xoa chân,… mà không có một bản lãnh hay một lập trường độc lập nào. Người ta gọi đó là những kẻ “bợ đít”. Đó cũng là hình tượng của những quan thái giám ngày xưa trong cung đình. Sự sống ấy là sự sống không có “xương”, không có đủ “gân cốt” để đứng trên đôi chân của mình; đó là sự sống “bị thiến”, sự sống “công công”.

Có khi ta thấy những bạn trẻ, hùa nhau để ăn chơi, hùa nhau để đua xe, hùa nhau để phá làng phá xóm… Nhưng thật ra, trong cả nhóm chỉ có một anh mạnh miệng, chỉ có một anh nắm đầu và lôi kéo tất cả… Ta thấy nơi đó cả một đám đông đoàn lũ, sống theo đuôi người khác. Đây lại là thứ sự sống dựa dẫm, không dám quyết định và bày tỏ chính cảm nhận, chính suy nghĩ của mình; những người ấy chỉ biết nói theo, làm theo, ăn theo, chơi theo những kẻ mạnh miệng.

Có khi ta thấy những con người luôn sống trong nỗi sợ, những nỗi sợ vụn vặt, sợ đủ mọi thứ chuyện : sợ người này giận, sợ người kia la mắng, sợ buổi lễ không đúng ý người khác, sợ bị hiểu lầm… Đó cũng là sự sống, nhưng là sự sống yếu ớt, èo uột, biểu lộ một nhân cách dúm dó.

Có khi ta thấy một người đàn ông thành công trong nhiều việc, có công danh, có sự nghiệp, có khi lại còn đầy uy tín ngời xã hội… nhưng lại có một sự tỷ mỷ đáng thương, khiến cho những người trong gia đình không thể chịu nổi; ông ta xăm soi từng việc tỷ mỷ, nhớ dai từng lỗi lầm, trì chiết từng khuyết điểm nhỏ… Đó cũng là sự sống, nhưng là một sự sống nghèo nàn, khô héo…

Tất cả mọi hình thức của sự sống ấy đều như hướng tới một cách giải quyết một vài vấn đề nào đó xẩy ra trong cuộc đời; và có vẻ những cách giải quyết ấy cũng có được một sự thành công nào đó : bảo vệ được “cái ghế” của mình, khỏi bị rắc rối trong mối tương quan với bạn bè, bảo vệ cho đời sống được ổn thoả trong từng chi tiết… Nhưng những hình thức sống ấy lại bộc lộ một khiếm khuyết nào đó, bộc lộ một sự méo mó lệch lạc trong nhân cách. Đó chính là sự méo mó của một đời người thiếu ý nghĩa chân chính đích thực. Đó là một sự sống chỉ mới tìm thấy khả năng thích nghi để tồn tại, chứ không phải là một sự sống triển nở phong phú và trổ sinh hoa trái của một nhân cách sung mãn.

Con người là một thực tại hết sức phức tạp, không chỉ phức tạp trong cơ thể, nhưng trên hết là một sự phức tạp do tinh thần; đến độ khi ta trao cho con người bất cứ điều gì, tốt hay xấu, thì đều có thể đưa đến những kết quả “bất ngờ”; nghĩa là có thể  đưa đến những kết quả tốt mà cũng hoàn toàn có thể đưa đến kết quả xấu. Đồng tiền, ngôi nhà, tình bạn, tài năng… đều có thể hoặc tốt hoặc xấu; tốt cho người này mà lại xấu cho người khác, tốt trong hoàn cảnh này, nhưng lại xấu trong hoàn cảnh khác… Do đó, ta có thể nói thách đố chính yếu của cuộc sống con người chính là thách đố của sự hàm hồ. Hoặc nói cách khác, trách nhiệm lớn nhất của con người là tìm được một ý nghĩa chân chính, ý nghĩa duy nhất cho trọn cuộc đời mình. Con người cần một sự sống toàn diện, nghĩa là cần một nguyên lý sống chân thật có khả năng thống nhất và làm phong phú trọn vẹn cuộc sống của mình.oặc nối

Nguyên lý sống ấy có thể tìm thấy ở đâu ?

3. Tình yêu, nguyên lý của sự sống đích thực

Nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề kỹ lưỡng hơn một chút : con người cũng có thể có nhiều loại ý nghĩa trong cuộc đời : ý nghĩa một việc làm, ý nghĩa một ơn gọi, ý nghĩa một sáng tác nghệ thuật…; thế thì đâu là ý nghĩa thật sự mạnh hơn cả trong con người ? Chúng ta có thể trả lời rằng chính tình yêu là loại ý nghĩa sâu xa và mạnh mẽ hơn tất cả. Tình yêu là một nguồn mạch sức sống phong phú vô tận; tình yêu là nguồn mạch của nghệ thuật, của giá trị nhân văn, nguồn mạch của biết bao hoạt động kinh tế… trong cuộc sống. Tình yêu là ý nghĩa có thể thống nhất tất cả mọi ý nghĩa khác của đời sống con người. Thi sĩ Virgile[1], trong tập Bucolica nói rằng : “Omnia vincit amor” (tình yêu vượt thắng tất cả); và ông còn thêm : “Et nos cedamus amori” (và cả chúng ta hãy khuất phục trước tình yêu).

Trong sách Diễm Ca, chúng ta đọc được một lời ca tụng sức mạnh của tình yêu :

     “Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể.” (Dc 8,6-7)

Như thế, chúng ta hiểu được ý nghĩa của khẳng định nhân học căn bản trong Kinh Thánh : Con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa; chúng ta hiểu được tại sao Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta không bằng sức mạnh nào khác hơn sức mạnh của một tình yêu lớn nhất : "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình". (Ga 15,13); và hiểu được đời sống đức tin cũng có thể được gồm tóm lại trong ý nghĩa của tình yêu : "Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại ; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy".(Rm 13,10).


1. Ý nghĩa cuộc đời

Sức mạnh của con vật được thống nhất trong bản năng bảo vệ sự sống, đó là bản năng sinh tồn của con vật. Chính bản năng sinh tồn là sự thống nhất làm nên tất cả sức mạnh của con vật, và mục đích của bản năng ấy là để bảo vệ sự sống cho bản thân nó.

Cũng vậy, tình yêu nơi con người mới có khả năng thống nhất tất cả cuộc sống và làm nên sức mạnh lớn lao nhất của một con người. Tuy nhiên, tình yêu nơi con người lại là một sự thống nhất bản thân để hướng tới ai khác. Sống là sống vì ai khác, đó là khác biệt lớn nhất giữa con người với con vật; hoặc ta cũng có thể nói đó là khác biệt căn bản giữa sự sống con người với sự sống con vật, sự khác biệt nằm ở phẩm chất của tình yêu. Tình yêu mang lại ý nghĩa căn bản cho một đời người, và ý nghĩa cuộc đời con người, một thứ mà chỉ con người có tự do và tình yêu mới có thể có được, làm cho con người có thể ra khỏi bản thân mình chứ không nhốt kín bản thân trong sự sống của chính mình. Khi yêu và yêu chân chính, người ta được thôi thúc, để gom góp toàn vẹn bản thân mình mà trao ban trọn vẹn cho ai khác.

Trong ý nghĩa ấy, ta mới thấy được tình yêu không phải là một chút trang trí hoa lá cành cho cuộc sống, yêu không phải là món đồ chơi xa xỉ của đời sống con người; nhưng yêu là khả năng nối kết mọi thành phần của con người phức tạp để làm nên một ý nghĩa thống nhất xứng tầm của con người, và ý nghĩa đó chính là sự trao tặng chính bản thân mình cho người mình yêu. Yêu không phải là điều gì thêm vào cho cuộc sống có thêm một chút hương vị, nhưng yêu là chính ý nghĩa của sống con người; sống trọn vẹn là sống bằng tình yêu. Yêu là sự sống đích thực, sung mãn nhất của mức độ con người, vì chỉ khi biết cho đi chính bản thân mình trong tình yêu, con người mới thực sự tìm gặp lại được chính mình. Công Đồng Vatican II nói :

"…Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thật hiến thân” (MV 24)

2. Tình yêu giúp con người đạt đến biên giới của tuyệt đối

Chỉ tình yêu mới có thể giúp con người thực hiện được khát vọng tuyệt đối sâu xa trong con người. Tình yêu chính là nguyên lý làm cho đời sống con người được thống nhất và phát triển, cũng như đáp ứng được khát vọng sâu xa nhất của con người. Bởi vì cái gì là cứu cánh thì cũng là nguyên lý; và cái gì là nguyên lý thì cũng là cứu cánh. Nếu con người khao khát tình yêu như cứu cánh của đời mình, thì nguyên lý giúp con người đi đến cứu cánh đó cũng phải là sức mạnh của tình yêu; và nếu ta xác tín tình yêu là sức mạnh chính yếu của con người thì điều đó cũng mở ra chân trời của cứu cánh đời người, tức là một thế giới yêu thương đang chờ đợi. Không ra khỏi con người của mình, dù con người có đạt đến mức độ thành công lớn lao đến đâu, thì tất cả cũng sẽ tiêu tan trước giới hạn căn bản của cái chết. Nhưng tình yêu lại có khả năng giúp con người có thể ra khỏi bản thân, nghĩa là sống vì ai khác để cuối cùng có thể trao ban chính bản thân mình vì sự thành đạt của ai khác. Cái chết, bình thường, là một sự phát hủy tất cả mọi thành quả mà người ta gom góp được trên đường đời; nhưng một người chết vì tình yêu thì lại thể hiện ý nghĩa một kẻ dám vét hết cuộc đời mình để cho đi, để dâng tặng cho người mình yêu thương. Đó mới là tuyệt đỉnh của phẩm giá con người.

“Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.(Ga 15,12-13)

Chính vì thế, tình yêu có giá trị như cửa ngõ mở ra trước siêu việt, đụng đến biên giới của tuyệt đối. Chẳng hạn người ta có thể thấy được một số chuyện “động trời”, theo nghĩa là đụng chạm đến được biên giới của tuyệt đối trong đời sống con người, do sức mạnh của tình yêu : chẳng hạn người mẹ dùng chính máu của mình để nuôi con trong khi bị chôn vùi trong đống đá của một cơn động đất; chẳng hạn một người cha bỏ việc làm ở đồng quê để lên thành phố làm nghề đạp xích lô để có tiền cho con ăn học, chẳng hạn một người mẹ đóng từng viên gạch đất để có thể xây nhà cho con …

3. Nhờ Tình yêu của Chúa để sống trọn tình yêu

Thiên Chúa đã sáng tạo con người con người giống hình ảnh Ngài, đó là khẳng định căn bản của khoa nhân học Kitô giáo:

“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1, 27)

Nền tảng nhân học ấy không chỉ có nghĩa là một sự “giống nhau” trong so sánh. Khái niệm “giống như” trong tinh thần của người Do Thái diễn tả một sự gắn bó trong nguồn mạch, là mối liên hệ của một nguồn sự sống. Ý nghĩa trọn vẹn nhất của khẳng định ấy là : con người chỉ có thể sống trọn vẹn bản chất của mình khi được sống với Thiên Chúa; đó là mối tương quan sinh tử của con người. Chính vì thế, khi từ chối sống một cuộc đời trong mối tương quan thân tình với Chúa, khi chọn giải pháp tự giải quyết đời mình bằng một kỹ thuật sống để nên như thần thánh, con người sa vào bẫy của mưu chước satan :

“Con rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4)

Hậu quả của tội tổ tông là con người không còn đủ năng lực để sống trọn ý nghĩa yêu thương thôi thúc sâu xa trong tâm hồn. Vận mạng con người đi vào con đường cụt, con đường của sự chết : thù hằn, giết chóc, bất hòa, …. (Xc. St 3 - 11)

Do Thái Kitô giáo không phải là một tôn giáo ở bên ngoài, bên trên cuộc sống đời thường, nhưng là nẻo đường sinh tử của vận mạng con người. Tất cả lịch sử ơn cứu độ không là gì khác hơn việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ con người bằng việc nối lại mạch sống yêu thương cho con người, nhờ vào một nhân vật : Dòng Dõi Người Nữ (Xc St 3,15). Đức Benedicto XVI mở đầu thông điệp “Tình Yêu Thiên Chúa” bằng những lời trích trong thư Gioan I : “Thiên Chúa là tình yêu; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16); rồi ngài giải thích rằng điều thánh Gioan diễn tả “làm nên trọng tâm đức tin Kitô giáo… (…). Thêm nữa, cũng ngay trong câu đó, thánh Gioan đưa ra cho chúng ta một công thức tóm tắt đời sống Kitô hữu  : “Chúng ta đã nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta” (số 1).

“…nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta”, đó không là gì khác hơn nhận biết và tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã yêu thương chúng ta, đã chịu chết cho chúng ta, và đã thông chia sự sống yêu thương của Ngài cho chúng ta :

      “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.(Ga 15,12-13)

Quả thật, nếu không nối lại được mạch sống yêu thương của Thiên Chúa, con người luôn khát vọng yêu thương, những cũng luôn luôn bị lôi kéo sống trong ích kỷ; con người có thể yêu thương người này hết mình, nhưng lại ghét người khác; con người nhiều khi sống tình yêu, nhưng lại luôn thể hiện bằng những phương cách lệch lạc như ghen tuông, như chiếm hữu, như thống trị; con người đôi khi có thể sống tình yêu thương “động trời”, nhưng lại chấm dứt đời mình trong sự phi lý của cái chết.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đưa nẻo đường yêu thương của con người đến đích, chỉ Thiên Chúa mở cánh cửa yêu thương của con người hướng về khát vọng tuyệt đối.

3. Tình yêu, đơn giản và toàn vẹn

1. Tình yêu và tội lỗi, đơn giản và phức tạp

Mặc khải Thánh Kinh cho chúng ta biết tất cả vạn mạng của cuộc sống con người đều nằm trong câu chuyện về tình yêu, tình yêu giữa Thiên Chúa với con người và tình yêu giữa con người với nhau. Tất cả nguồn ơn phúc của con người là được sáng tạo giống hình ảnh Thiên Chúa, để sống trong mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa và nhờ đó mà có thể yêu thương nhau. Đó là điều thật “đơn giản” trong bản chất con người. Mặt khác, tất cả mọi tai họa của cuộc sống con người, giết chóc, chia rẽ, hận thù, bất công,… cũng đều xuất phát từ lựa chọn đi ra ngoài nẻo đường của tình yêu. Đi ra ngoài con đường “đơn giản” ấy, con người bước vào một thế giới quá “phức tạp”. Quả thật, cuộc đời con người đơn giản quá nhưng cũng phức tạp quá. Cái đơn giản của bản chất và cái phức tạp của hiện tượng. Theo Kinh Thánh, cái đơn giản đó chính là tình yêu thương và cái phức tạp đó chính là hậu quả của tội lỗi. Trong thế giới của tội lỗi, cái phức tạp che mờ cái đơn giản.

Trong cuộc sống trần gian hiện nay, chúng ta đối diện với một thế giới hết sức phức tạp. Cái phức tạp của cuộc sống biểu lộ trong biết bao nhiêu học thuyết triết học và tôn giáo mong ước tìm con đường giải thoát khác nhau cho con người : siêu thoát, giác ngộ, khôn ngoan, đức độ… Cũng thế, chắc chắn là mỗi con người, trong cuộc vật lộn sống còn với cuộc đời, cũng đã tự hình thành cho mình một phương trình giải quyết, một cách minh nhiên hay mặc nhiên, theo nhiều đường hướng khác nhau : tôi phải có tiền, tôi phải khôn ngoan, tôi phải có uy tín trong dịa vị hoặc trong đức độ… Quả thật tội tổ tông, làm nên một thế giới phức tạp che mờ cái đơn giản, chưa bao giờ vắng mặt trong cuộc sống con người và trong hành trình của mỗi người.

Những con đường của sự “phức tạp” thường tỏ ra có những hiệu quả rõ ràng, mong chóng và hợp lý, chúng giống như những cánh cửa mở ra ngay đến bờ bến của thiên đường. Trong khi đó, nẻo đường “đơn giản” thì lại mờ mờ ảo ảo, chất chứa đầy những nguy cơ trước mắt, và có vẻ như đằng sau cánh cửa nó còn cả một con đường dài, vòng vèo, đầy chướng ngại.

Con đường của sự “phức tạp” lại có vẻ như rất đơn giản. Con đường của sự “đơn giản” lại xuất hiện trong bộ mặt quá phức tạp. Cái nào là thật ? Cái nào là quảng cáo ? Có phải “văn minh quảng cáo” là một thứ văn minh có nguồn gốc từ bản chất người và có dính dáng đến vận mạng sống còn của con người ? Điều mà Satan nói với bà Evà chẳng phải là một thứ quảng cáo sao !

“Con rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4)

2. Tình yêu, đơn giản và toàn vẹn

Kitô giáo chọn con đường của tình yêu, con đường đơn giản, mặc dù nó dẫn đưa qua những nẻo đường phức tạp. Con đường yêu thương là liên lụy, là hy sinh, là phải chết, “chết trong lòng một tý” hoặc nhiều khi là chết cả một cuộc đời. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói : “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, đó là một điều quá đơn giản. Nhưng cái hay nhất của tấm lòng đơn giản ấy lại là “để làm gì em biết không, để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Để gió cuốn đi thì phức tạp lắm, vì đó là một cuộc phiêu lưu mà ta không nắm được đàng chuôi bao giờ. À thì ra cái đơn giản của tình yêu là sự đơn giản của đôi cánh, đôi cánh bay vào bầu trời bao la kỳ diệu và đầy phức tạp, chứ không phải đơn giản của cục sắt hay cục vàng được cất kỹ trong ngăn tủ. Cái đơn giản của sự phong phú khác xa với cái đơn giản của sự nghèo nàn.

Tiêu chuẩn của cái đơn giản đích thực phải là tính cách bao dung và phong phú. Cái đơn giản đích thực phải gồm gói được tất cả mọi thực trạng của đời sống con người và làm tăng triển mọi năng lực tích cực của bản chất người. Đơn giản nhưng phải toàn vẹn, chứ không phải cái đơn giản do lấy một thành phần nào đó, đề cao nó lên, loại trừ những điều khác một cách khiên cưỡng.

Mặc dù trọng tâm của Kitô giáo chỉ hết sức đơn giản là yêu thương, nhưng tất cả lịch sử Giáo Hội vẫn không ngừng tìm cách thông hiểu mỗi ngày mỗi trọn vẹn hơn mà chẳng bao giờ có thể thấu được trọn vẹn. Giới luật yêu thương đơn giản như thế, nhưng lại bao hàm tất cả mọi chi tiết phức tạp của cuộc sống con người. Thánh Phaolô cho chúng ta một bài ca Đức Mến tuyệt diệu, diễn tả được sự đơn giản của tình yêu :

     “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.

   Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (…).

Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. (1 Cr 12,31-13,1-3.13)

Thế nhưng, dù bản chất của đức Mến thì đơn giản, những vận hành của nó lại không đơn giản chút nào. Đức Mến tuy dễ mà khó, và tuy khó mà dễ. “Dễ” vì tự đáy lòng con người, ai cũng khao khát yêu thương, nhưng “khó” vì con người chẳng đủ sức đi trọn hành trình yêu thương, vì con người vẫn bị cám dỗ do một thứ “dễ dãi” giả tạo, do những thứ “có vẻ đơn giản” bày ra cho mình. Thánh Phaolô cho thấy đức Mến những hoa trái của đức Mến được diễn tả trong nhiều khía cạnh của cuộc sống :

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. (1 Cr 13, 4-8).

  Giáo Hội vẫn hiểu trọng tâm của đời sống đức Tin là đức Mến, nhưng trong lịch sử, đời sống của Giáo Hội vẫn không ngừng giao động giữa “trọng tâm” và “ngoại biên”, nghĩa là lúc thì giữ đức Mến, nhưng lại không diễn tả được trọn vẹn trong đời sống; và có lúc thì tìm ra nhiều cách diễn tả đức Mến nhưng lại không còn bóng dáng thực sự của đức Mến.

3. Sống tình yêu bằng niềm tin

Thật ra, trong Kitô giáo, chính Thiên Chúa đã “giải quyết” cái khó của con người, khi Ngài ban cho chúng ta chính tình yêu của Ngài trong Đức Giêsu, tình yêu lớn hơn mọi tình yêu. Cái “khó” đã trở nên cái “dễ”. Dĩ nhiên, cái “dễ” này lại cũng không phải là “dễ dãi”, vì nó luôn thôi thúc con người hy sinh chính bản thân mình theo như tình yêu của Chúa…

Chính niềm Tin là cây cầu nối kết giữa cái đơn giản và cái toàn vẹn. Niềm tin như là sự gắn bó bản thân mình với tình yêu lớn lao của Thiên Chúa trong Đức Kitô sẽ mở ra lộ trình của đức Cậy, giúp người tín hữu có thể hành trình trên nẻo đường yêu thương trọn vẹn, dù vẫn nhận ra sự phức tạp, nhận ra nẻo đường tình yêu còn dài hun hút. Trong niềm Tin, hành trình đức Mến lúc nào cũng ở trạng thái vừa “đang đi” vừa “đã đến”; đã “đến” rồi nhưng vẫn cứ phải tiếp tục “đi”. Tâm trạng của người sống đức Mến lúc nào cũng vừa bình an, vừa khao khát; bởi vì hơn hết mọi lãnh vực khác, chính nơi đức Mến, con người thể hiện trọn vẹn nhất bản chất của đời người như là một cuộc lữ hành..

4. Tình yêu : “Ở trong nhau”

1. “Ở trong” và “ở ngoài”

Hình như vật gì ở trần gian này cũng có cái ở trong và cái ở ngoài, có mặt trái và mặt phải, có hình thức và nội dung… Và hình như ở trần gian “giả trá” này, vẫn thường có một sự đối nghịch giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Cũng có đôi khi ta thấy cuộc đời diễn ra theo một qui luật thuận “con lợn có béo thì lòng mới con”; nhưng thường hơn ta sự thật cuộc đời là một qui luật nghịch : “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “chiếc áo không làm nên thầy tu”, “ngọt mật chểt ruồi”…

*”Cái bên ngoài”

Cái bên ngoài là cái ta có thể nhìn thấy, đụng chạm đến cách trực tiếp. Cái bên ngoài thường là cái rõ ràng, sáng sủa; nó lù lù ra đấy như một sự vật chiếm hết cái nhìn của ta, nó lồ lộ ra đấy như một cuộc biểu diễn thu hút hết sự chú ý của ta. Cái bên ngoài có vẻ như muốn áp đặt giá trị của nó trên nhận định của ta. Cái bên ngoài cũng là cái dễ thay đổi, có thể đổi trắng thay đen, trôi nổi theo dòng đời. Nó là sự thật không có chân, không có rễ, không gắn vào sự sống đích thực. Nó thường là lớp áo che đậy nhiều hơn là tỏ lộ thật sự. Do đó, cái bên ngoài thường là một thứ vinh quang được nhìn nhận từ những người khác. Cái bên ngoài thường làm nên danh giá, địa vị, …

Cuộc sống xã hội thường là những tương giao dựa trên cái bên ngoài. Có rất nhiều cuộc gặp gỡ, một công trình hợp tác, nhiều đoàn hội… ra vẻ như một sự gắn bó bền chặt, nhưng thật ra chỉ là những tương giao “bên ngoài” với nhau.

* “Cái ở trong”

“Cái ở trong” là điều ta thường không thấy rõ, không thấy ngay, không thấy lồ lộ ra đấy. Cái bên trong gắn liền với giá trị thật của chính mình nên nó thường vững bền, là căn cốt cho cái bên ngoài. Cái bên trong thường được dùng để diễn tả thực chất của một con người hay một sự vật nào đó. Muốn hiểu được cái bên trong, người ta phải có một độ “sâu sắc” nào đó, vì thế cái bên trong thường chỉ được một số ít người thấu triệt.

Đối với các sự vật khác, với một chút chú tâm, người ta có thể xác định được đâu là cái bên ngoài, đâu là cái bên trong. Đối với con người, ta đứng trước một sự biến ảo kỳ lạ, khó có thể biết chắc được đâu là cái bên ngoài, đâu là cái bên trong. Việc thiết lập mối tương giao giữa con người với nhau một cách trọn vẹn phải đến được tới “cái bên trong” của con người, nhưng đó là điều không phải dễ dàng.

2. Tình yêu đi vào “cái bên trong”

Thật ra, để đến với người khác một cách trọn vẹn, con người phải ra khỏi bản thân mình, nghĩa là không còn lấy mình làm trọng tâm, không còn sống theo kiểu kinh doanh lợi lộc cho bản thân mình bằng những mối tương giao với người khác, không còn cho sự thành đạt của mình là trên hết. Người cha/mẹ, khi nào nhận ra đời mình chẳng ra sao cũng được, miễn là con mình được nên người, thì khi ấy mới sống hết phẩm chất yêu thương của một người cha/mẹ thực sự. Như thế, “ngõ ra” khỏi bản thân không ở đâu khác mà chính là con tim. Cần phải đi từ trái tim để đi vào “cái ở trong” của ai khác.

* Đến với cái bên trong nhờ “có cảm tình”

Người ta kể tiểu sử một con người, người ta thường ghi dấu những chặng đường bằng những xác định không gian và thời gian : sinh ra ngày nào, ở đâu, thi đậu ngày nào, và lên chức gì… Đó là những ghi nhận “khách quan” về một con người. Nhưng ghi nhận ấy có vẻ như cho người ta biết rõ về một con người. Nhưng thật ra, bình thường, những ghi nhận ấy chỉ là những lớp vỏ bên ngoài, không cho thấy được mạch sống của một con người. Chỉ người nào đã được đón nhận lời chia sẻ thân tình, chỉ người nào cùng trăn trở với anh ta trong công việc, chỉ người nào cảm được nỗi lòng của anh ta,… thì mới có thể thực sự “hiểu” được hành trình anh ta đã đi. Đây là lối hiểu tận bên trong.

* Ở trong nhau là đón nhận những những biến chuyển nhỏ của nhau

Một người mẹ, khoe với hàng xóm rằng đứa con của mình mọc hai cái răng. Người hàng xóm dửng dưng, với sự kiện đó, vì mọc hai cái răng có gì quan trọng đâu. Người hàng xóm không cùng sống, cùng chia sẻ từng bước phát triển của một đứa bé, đứa bé đó không phải là con của mình. Chỉ người mẹ, nâng niu bú mớm cho con từng ngày, mới có thể vui được vì con mọc răng. … Ta có thể nói được rằng sự hiệp thông được thể hiện rõ nhất khi người ta hiệp thông được trong những điều nhỏ nhất của người khác.

* Ở trong nhau nhờ quá trình lịch sử

“Ở trong nhau”, bình thường điều đó được thành hình nhờ một quá trình. Khi người ta cùng chia sẻ với nhau một ưu tư, cùng liên lụy với nhau trong một hành trình gian khó, cùng đón nhận những thành công hay thất bại như một kết quả chung,… khi đó, dần dần, như hai sợi giây bện vào nhau, tâm tình của hai người có thể trở thành một. Yêu thương là đón nhận được những điều bé nhỏ của nhau. Điều đó chỉ có được khi người ta “ở trong” nhau, nghĩa là liên lụy với nhau trong một quá trình lịch sử. Cùng đồng hành trong một quá trình lịch sử người ta mới có thể đón nhận được những thành quả của nhau và chia sẻ những khó khăn của nhau.

* Ở lại trong nhau là đón nhận huyền nhiệm cuộc đời của nhau

Khi ta đứng ngoài ta thường rơi vào cám dỗ giải thích cuộc đời của người khác một cách minh bạch, hợp lý; nhưng đó là cách nhìn không chính đáng, vì cuộc đời của một con người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm không phải là điều có thể giải thích rõ ràng, nhất là không bao giờ có thể được giải quyết như một vấn đề. Chỉ có sự tôn trọng tha nhân như một huyền nhiệm ta mới có thể nhận ra được những điều kì diệu trong một con người và trong một cuộc đời. Khi chiêm ngắm tha nhân như một huyền nhiệm, ta có thể khám phá ra muôn vàn điều kỳ diệu hơn ta tưởng. Như thế, cuộc đời con người mới thực sự được đối xử xứng đáng với phẩm giá một con người thực sự.

Như thế, khi ở trong nhau, người ta đón nhận tha nhân như một ngôi vị chứ không phải như một sự vật hay như một bài toán. Thấm nhập vào huyền nhiệm, đó là một sự trân trọng huyền nhiệm một cuộc đời. Chỉ có tình yêu trân trọng như thế mới xứng đáng để đến với tha nhân..

3. Ở lại trong tình thương của Thầy…

Chúa Giêsu, trong Tin Mừng Gioan, nhiều lần nói đến việc “ở trong”, hay “ở lại trong”. Chúa Giêsu cho thấy nguồn mạch của sự hiệp nhất là sự kiện chính Ngài ở lại trong tình thương của Chúa Cha; để rồi Ngài cũng mời gọi các tông đồ ở lại trong tình thương của Ngài :

“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. (Ga 15,9; Xc. Ga 6,56; 8,31; 15, 4-7.10…)

Từ ngữ của thánh Gioan có phần của một kinh nghiệm riêng, kinh nghiệm thần bí khó có thể thấu triệt; nhưng dù sao, Tin Mừng vẫn luôn là một lời loan báo Tin Mừng, nghĩa là một lời mời gọi chúng ta, bằng sự dấn thân vào mối tương quan thân tình với Chúa Giêsu, để dần dần khám phá ra huyền nhiệm sâu xa của tình yêu, huyền nhiệm ở trong Chúa. Thánh Phaolô cũng sống kinh nghiệm ấy khi nói :

"Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.(Gl 2,20)

Có nhiều người Kitô hữu sống với Chúa nơi “cái ở ngoài”. Đó là thứ “đạo sinh hoạt”, đạo chỉ là tham dự những sinh hoạt đạo được tổ chức. Đức Giêsu mời gọi chúng ta “ra khỏi bản thân”, sống bí tích Rửa tội, nghĩa là chết cho con người cũ; để sống một cuộc sống mới, trong đó, chính đức Kitô sống trong tôi. Con đường ấy phải khởi đi vào lộ trình của tình yêu, của Đức Mến.

5. Tình yêu tự hủy

1. “Sức nặng” của tình yêu

*  Cái “nặng” và cái “nhẹ”

Cái nặng là cục sắt; cục sắt nặng nên nằm yên một chỗ và không dễ gì di chuyển nó được. Cái nặng là cục vàng; cục vàng thì cũng nằm yên một chỗ; cục vàng còn được người ta cất kín trong két sắt và chẳng mấy khi được chu du giữa trời đất mênh mông. Cái nặng lúc nào cũng có tình trạng “an vị”, tự tại với chính mình và đòi cái gì khác phải đến với nó chứ nó không tự đến với cái khác được. Người “nặng ký” thì cũng vậy, người nặng ký thì được bảo vệ kỹ lưỡng, trong vòng an ninh chặt chẽ, vòng trong vòng ngoài… Người “nặng ký” chẳng dễ gì có thể đến được những nơi vùng sâu vùng xa, chẳng dễ gì gặp được những người “đầu đường xó chợ”, chẳng dễ gì thông cảm hay chia sẻ được với những phận người đau khổ. Lâu lâu người nặng ký làm một cuộc xuất du thì cuộc xuất du ấy cũng được dàn dựng với tất cả sự cồng kềnh của một bộ máy an ninh và “điếu đóm”. Cái nặng thì đầy oai phong và luôn giương oai với cái khác, nhưng cái oai phong ấy lại làm cho nó khó gắn với cái khác. Cái nặng luôn có khuynh hướng đơn độc một mình, oai phong một mình, mình với mình mà thôi. . .

Cái nhẹ là cục bông gòn, bay theo làn gió nhẹ, bồng bềnh lên xuống theo cơn gió. Cái nhẹ là hạt bụi, hạt bụi bị xua đuổi khỏi những nơi sang trọng, bị tống khứ ra những nơi tồi tệ và bẩn thỉu nhất. Cái nhẹ thì không có gì để an vị, tự tại với chính mình cả. Cái nhẹ suốt đời là kẻ viếng thăm cái khác mà lại chẳng mấy khi được cái khác viếng thăm. Cái nhẹ luôn khao khát đáp xuống một cái gì đó, luôn cần gắn với một cái khác, nhưng lại chẳng được những nơi sang trọng đón nhận. Người nhẹ “tép riu” cũng giống như cục bông gòn, giống như hạt bụi, họ có thể phiêu lưu như kẻ không nhà. Họ không có hành lý cồng kềnh, họ không có sự an toàn bao bọc, họ không có những vật quí giá cần phải bảo vệ, họ không sợ bị xầy xước khi giao tiếp, …Họ nhẹ bồng trên đường phiêu lưu và có thể đến được với ai khác, nhất là những nơi cùng khổ.

Tình yêu thương thường không phải là “cái nặng” nhưng chính là “cái nhẹ”; người biết yêu thương cũng thường là những con người “nhẹ ký”, không quá quan tâm bảo vệ cái tôi sang trọng của mình và như thế nên có thể đến được với người khác. Người ta thường thích nổi tiếng, thường thích trở nên quí giá, thường thích là nhân vật quan trọng, thường thích được người khác chú ý đến mình… những cái thích như thế không mở đường đi vào tình yêu được, nhưng chúng là những tảng đá ngăn chận nẻo đường tình yêu. Thứ yêu thương của những người như thế là những bước đi khệnh khạng, những “đám rước” rầm rộ, những biểu ngữ huyênh hoang, những thứ trình diễn tình yêu mà rất khó đi vào sự thân mật.

*  Cái “thấm nhập” và cái “cưỡng bức”

Cái nặng thì “cưỡng bức”, nó đè bẹp, trấn áp, xô đẩy từ bên ngoài; cái cưỡng bức thì có sức mạnh để có thể bắt cái khác phải ở đúng vị trí mình muốn, vận hành theo đúng cách thức mình muốn. Cái cưỡng bức làm chủ được thân thể của cái khác, những lại không tạo được một sự hòa hợp sâu xa. Cái cưỡng bức thường làm nên một trật tự bên ngoài, nó có khả năng uốn nắn cái khác theo ý mình, sắp xếp để mọi sự ăn khớp với nhau theo một quy hoạch tổng thể … Nhưng cái cưỡng bức không thể làm nên được cái “duyên” nội tại, cái “hòa” một cách kỳ lạ và cái kỳ diệu một cách sáng tạo. Cái cưỡng bức thường làm nổi bật cái tổng thể, nhưng lại làm chìm mất cái cá biệt độc đáo. Con người có khả năng cưỡng bức là một kẻ độc tài, là người thống trị người khác bằng sức mạnh của cơ bắp, hoặc quyền bính, tạo nên nơi người khác một nỗi sợ; là người chinh phục người khác bằng tại năng làm cho người khác phải lép vế và rơi vào tình trạng khúm núm, e dè; là người “loé sáng” bằng đức độ khiến người khác phải chói mắt, lùi xa như một thứ “kính nhi viễn chi”, và mất tự tin để có thể tự mình sống cuộc đời của mình.   

Cái “thấm nhập” thì thường là cái nhẹ nhàng, nó “chinh phục” không phải bằng một sự cưỡng bức bên ngoài, nhưng là một sự hòa hợp từ bên trong. Cái thâm nhập không phải là một dị vật trong cơ cấu hữu cơ của điều nó thâm nhập, nhưng tan biến và trở nên một với cái nó thâm nhập. Cái thâm nhập thì không còn giữ nguyên hình dáng của mình, nhưng biến hóa để thấm nhập và cấu tạo nên một cơ cấu hữu cơ với cái khác. Người có khả năng “thấm nhập” là người được người khác đón nhận một cách tự nguyện, được yêu bằng chính ý muốn tự do của người khác. Người thấm nhập là người để lại một chút vấn vương, một chút thi vị, một chút thăng hoa trong tâm tình của người khác.

Cái cưỡng bức không thể mang lại tình yêu được. Cái cưỡng bức chỉ có thể làm nên tình trạng  “đồng nhi bất hòa”. Ngược lại, tình yêu thì phải được thấm nhập, một cách nhẹ nhàng, một cách thi vị, một cách an hòa. Tình yêu làm nên một nét duyên riêng của cấu trúc “hòa nhi bất đồng”.

*  Cái “hiệp lực” và cái “đối lực”

Cái cưỡng bức thì phải mạnh để có thể đàn áp. Cái cưỡng bức thì coi sức mạnh của cái khác như một đối lực. Cái khác mạnh thì có nguy cơ làm cái cưỡng bức bị suy yếu, nên cần phải tiêu diệt sức mạnh của cái khác bằng tất cả mọi biện pháp cưỡng bức. Cái khác ấy là một “đối lực” làm trì trệ vận hành của cái cưỡng bức. Cái cưỡng bức luôn có khuynh hướng nghi ngờ, luôn tăng gia biện pháp đề phòng, luôn đặt ra thật nhiều đòi hỏi, đòi hỏi của luật lệ chi ly, đòi hỏi của phép tắc khó khăn, đòi hỏi cứ càng ngày càng gia tăng thêm nhiều quy định.

Cái “hiệp lực” thì lại đón nhận được sức mạnh của cái khác, sức mạnh được gia tăng trong sự hiệp thông, tình nghĩa được bền chặt trong mối giây tình nghĩa. Cái hiệp lực cần nhờ đến nhau như sức hút của nam châm khác cực, nghĩa là có khả năng đón nhận, có khả năng thấm nhập, có khả năng hiệp nhất sức mạnh của hai bên.

Người sống với người khác như một đối lực là người có khuynh hướng trở thành bạo chúa, luôn có những người để mình loại trừ, luôn bắt người khác làm theo ý mình, luôn đề cao trật tự bên ngoài, luôn coi sự phát triển của người khác là mối đe dọa cho chính mình. Ngược lại, người sống trong tinh thần “hiệp lực” thì lại có thể nhờ đến người khác; coi sự phát triển của người khác là điều tốt đẹp cho chính mình.

2.  Huyền nhiệm tình yêu nơi Chúa Giêsu

Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài giống như ”cái nhẹ”. Giống như hạt bụi để cho ngọn gió của quyền lực thổi tung :

“Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ…". (Lc 2,1-7; x. Mt 4, 12-16).

Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài từ chối sức mạnh cưỡng bức để chinh phục người khác. Chúa Giêsu từ chối mọi cám dỗ của Satan để thi hành được lối cứu độ bằng bánh mì, bằng sự lạ và bằng quyền bính (x. Trình thuật Cám dỗ).

“Đức Giêsu bảo người ấy : "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52)

Ngài chọn con đường của Chúa Cha, con đường hy sinh mạng sống cho bạn hữu. Chúa Cha luôn xác nhận “nẻo được thấm nhập” nơi hành trình của Đức Giêsu; mỗi khi Chúa Giêsu đi theo lộ trình thấm nhập như thế, thì lại có tiếng của Chúa Cha “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng”. Ngài trở nên tấm bánh và ly rượu để thấm nhập trọn vẹn vào người môn đệ…

Nhìn vào Chúa Giêsu, ta thấy Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài tha thứ tội lỗi, Ngài đón nhận được những người bị loại trừ, Ngài sống trọn vẹn như một người “mang Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Tin Mừng của Ngài không làm cho cuộc sống con người sợ hãi và dúm dó, nhưng mở đường cho các môn đệ được lớn lên, được vững mạnh. Lời Thánh Irênê diễn tả thật tuyệt nét “hợp lực” của  tình yêu ấy “vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”.

“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. (Ga 10,10)

Thiên Chúa là Tình yêu, và tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu được thể hiện trong tất cả những đường nét huyền nhiệm mà ta không thể thấy được nơi đâu khác. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu “hóa ra không” :

“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang…” (Pl 2,6-7)

6. Tình Yêu, đó là Đức Giêsu Kitô

1. Tình yêu của con người

Tình yêu làm nên cuộc sống con người. Nhưng tình yêu cũng làm ra bao nhiêu tội ác trong cuộc sống con người. Đó chẳng phải chỉ là những là những thứ tình yêu ghen tuông, tình yêu mù quáng; nhưng đó còn là biết bao tội tham nhũng, bất công, gian tham… mà trong thâm sâu chúng cũng có phần dính dáng đến một thứ tình yêu nào đó. Tình yêu làm nên cuộc sống con người, nhưng con người thường chỉ đạt được một thứ tình yêu “nửa chừng xuân”, tình yêu vụn vặt và què quặt, khiến cho cuộc sống con ngươi cứ mãi loay hoay; khổ vì yêu mà không yêu cũng khổ; yêu để sống nhưng nhiều khi vì yêu mà không còn muốn sống….

Thật ra con người khao khát yêu thương, nhưng lại không có đủ phẩm cách xứng tầm của tình yêu. Thế rồi, trong mức độ giới hạn của mình, người ta  vẫn cứ yêu, yêu một cách méo mó, lệch lạc. Cái nguy lớn là những thứ tình yêu méo mó ấy ru ngủ, hoặc trói chặt con người. Con người tưởng rằng mình cũng biết yêu, để lâng lâng ca tụng tình yêu. Con người lao vào tình yêu méo mó, nhưng lại không đủ khả năng ra khỏi hoặc vươn lên trên tình yêu ấy…. Quả thật, trong cuộc sống hằng ngày, có quá nhiều thứ tình yêu bị biến chất làm cho con người bị lạc hướng trong khu rừng của tình yêu; và người ta có thể nói về tình yêu rằng : “rượu càng ngon thì dấm càng chua”; nghĩa là sự biến chất của một điều càng cao qúi bao nhiêu thì lại càng trở nên tệ hại bất nhiêu.

* Tình yêu, xa và gần

Chúng ta thử tiếp cận tình yêu dưới khía cạnh đối tượng của tình yêu. Vấn đề dặt ra là : Tình yêu đi từ cái chung đến cái riêng hay đi từ cái riêng đến cái chung ? Đó là một vấn đề rất thực tế mà cũng rất nan giải của cuộc sống hằng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể thấy, người ta luôn luôn sa vào một lựa chọn để loại trừ. Khi tình yêu “gần” thì không thể “xa”, và ngược lại. Khi người ta yêu người thân của mình và không còn đủ năng lực để có thể cống hiến đúng mực cho những người ngoài vòng yêu thương của mình. Khi người ta muốn giang rộng đôi tay yêu hết mọi người, thì người ta lại không bao giờ có thể yêu hết mình một ai cả. Cái tình cảm tréo ngoe đó làm cho tình yêu của con người luôn luôn hé lộ một khiếm khuyết không thể vượt qua.

* Tình yêu, lý trí và tình cảm

Ta thử tiếp cận một khía cạnh năng lực của chủ thể trong hành trình đi đến tình yêu. Ở đây, người ta thấy rằng cái tình cảm thì bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, không thể có cái tình cảm của một tình yêu chung chung, phổ quát. Ngược lại, cái nhận thức của lý trí thì, bình thường, lại nhằm tới đối tượng là sự phổ quát. Như thế, Khi người ta bị lôi cuốn bởi cái eros như một cơn “đam mê xuất thần”, thì thứ tình yêu ấy bất cần mọi sự, nhiều khi bất cần cả luân thường đạo lý. Nhưng nếu người ta quá thiên về lý trí, yêu như là một thứ Philein, thì chính thứ tình yêu ấy lại chống đối lại tình yêu hy sinh mạng sống cho bạn hữu; và chính vì thế mà người Hy Lạp coi thập giá là một sự điên rồ : “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ”. (1 Cr 1,22-23)

* Tình yêu, phong phú và triệt để

Ta thử tiếp cận một khía cạnh phẩm chất của tình yêu con người, khía cạnh phong phú và triệt để, nghĩa là xét đến khía cạnh tình cảm, đến chính con tim của chủ thể yêu. Hai tính chất phong phú và triệt để là những tiêu chuẩn căn bản của tình yêu chân chính, nhưng hai tính chất ấy lại luôn đi ngược chiều nhau. Chúng ta có thể thấy là tình yêu thì luôn phải phong phú, tuôn trào, rộng mở. Bởi vì giới hạn của tình yêu là tình yêu không giới hạn; bởi vì tình yêu mà lại chấp nhận loại trừ một phần nào đó, loại trừ một ai đó, thì đó đã là điều gì có nguy cơ phản lại chính tình yêu. Tính chất phong phú của tình yêu có nghĩa là tình yêu càng cho đi thì càng mạnh mẽ; tình yêu càng chia sẻ cho nhiều người thì lại càng sung mãn và mãnh liệt.

Tính cách triệt để của tình yêu có nghĩa là tình yêu thôi thúc ta dâng trọn vẹn cả bản thân mình cho người mình yêu; tình yêu không phải là một sự tính toán chia phần con tim, để yêu người này một chút, yêu người kia một chút. Tình yêu của hai người với nhau, để đạt đến mức triệt để, cần phải thể hiện như sự dâng trọn vẹn bản thân cho nhau, trong suốt cuộc hành trình cuộc đời …

Làm sao để có được tính chất “triệt để -  phổ quát” nơi tình yêu con người ? Đó là một nan đề mà con người không dễ giải quyết được.

2. Mạc khải của Thánh Kinh

Trong cách nhìn của Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận biết rằng, với tội lỗi, con người không còn có thể sống trọn vẹn “hình ảnh Thiên Chúa” nơi bản thân của mình được nữa. Con người được sáng tạo nên giống Thiên Chúa, nghĩa là con người được mời gọi để sống với Chúa. Nhưng khi không sống được trọn khao khát yêu thương khi sống với Chúa, con người ta bộc lộ khao khát yêu thương của mình thành những phản ứng nổi loạn. Cách sống tình yêu của con người, trong hiện trạng, giống giống như là :

- Giống như một người nhận tiền để mua nhà, nhưng vì chưa mua được nhà, nên tiêu xài vụn vặt hết tiền; cũng thế, vì con người không tìm thấy được một tình yêu chân thật, nên người ta sử dụng tình yêu vào những chuyện vớ vẩn, như yêu sự vật thay vì là yêu ai khác…

- Giống như một người nhận được một cây gậy để hái quả ngọt trên cây, nhưng vì không hái được quả, nên người đó dùng gậy đập phá lung tung; cũng thế, vì con người không tìm thấy được tình yêu chân thật, nên người ta “trả thù đời” bằng ghen tương, bằng lợi dụng, lừa đảo trong tình yêu…

- Giống như một người con, nhận được những món quà của mẹ như một bằng chứng về tình yêu, tình yêu dâng trọn bản thân cho đứa con, nhưng đứa con lại quá ham mê những món quà, quá ham mê hưởng thụ cho mình mà quên mất tình nghĩa, nên đòi hỏi thứ này điều kia; cũng thế, con người đón nhận được tình yêu để đi đến với tình yêu thương của ai khác, nhưng vì ham hưởng thụ, vì quá hời hợt, nên đứa con chỉ biết tìm cho mình những đồ vật.

*** Thật ra con người không thể tự mình đi trọn được con đường yêu thương. Tình yêu thôi thúc con người, như sóng dạt dào, nhưng là những ngọn sống “không có chân”, không có nền, nên cứ ào ạt rồi lịm tắt, cứ mãnh liệt nhưng rồi lại đuối sức để rồi chìm lắng….

3. Tình yêu chân chính, đó là Đức Giêsu Kitô

Thật ra, con người được Chúa dựng nên có thể xác, nên tình yêu của con người phải bắt đầu từ con người cụ thể. Thiên Chúa cũng bắt đầu chọn cho Ngài một Dân riêng, và Chúa Giêsu cũng chọn cho Ngài các tông đồ, trong đó, còn có vị tông đồ “được Chúa thương mến”. Thế nhưng không bao giờ một Dân riêng hay người môn đệ yêu quí có thể dừng lại ở mối tình riêng để hủ hỉ với Chúa, nhưng luôn được mời gọi để trở thành sứ giả mang Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Đó là cách diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Ngược lại, con người chỉ có thể hoàn thành ước vọng yêu thương của mình bằng cuộc gặp gỡ yêu thương với nhân vật trọng tâm của ơn cứu độ, Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là một con người cụ thể, một nhân vật lịch sử, nhưng Ngài lại cũng là Đức Kitô, Đấng cứu độ muôn người. Chỉ trong cuộc gặp gỡ ấy, con người mới có được một khởi đầu cụ thể của tình yêu, khởi đầu ấy lại mở ra không cùng trên con đường yêu thương tron vẹn đối với muôn người. Ơn cứu độ chính là yêu mến đức Giêsu và để cho Ngài dẫn dắt mỗi người chúng ta trên hành trình yêu thương trọn vẹn. Chính vì thế mà mỗi người phải tự trả lại câu hỏi căn bản của niềm tin : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (Mt 16,15).

1. Tình yêu mở đường đến sám hối đích thực


1. Những kiểu sám hối không trọn vẹn

Nhiều người Kitô hữu chỉ đi xưng tội như là một cuộc tẩy rửa định kỳ, giống như người ta tắm rửa mỗi ngày một lần, hớt tóc mỗi tháng một lần, hoặc rửa xe hai tháng một lần. Sám hối chỉ như một cuộc tẩy rửa định kỳ như thế có thể làm cho người ta được bớt “cáu ghét”, bớt được tình trạng bết bùn trong tâm hồn, nhưng chắc chắn chưa phải là sám hối đích thực theo tinh thần Kitô giáo. Sám hối như thế chỉ là một thứ tẩy rửa bên ngoài chứ chưa phải là thay đổi bên trong. Nói cách khác, việc sám hối như thế chỉ mới là “xé áo” chứ chưa phải là “xé lòng” theo lời kêu gọi của ngôn sứ Giô-en (x. Ge 2,13).

Một cách tốt đẹp hơn, sám hối chân thật bao hàm một sự thay đổi lối sống, nghĩa là không chỉ dừng lại hành vi ”định kỳ”, không chỉ gói gọn ý nghĩa sám hối trong một thời khắc nào đó (lúc xưng tội), trong một hành vi thêm vào lối sống cũ (đi xưng tội)… nhưng là thay đổi chính lối sống của thói quen cũ, là biến cải chính lối sống quen thuộc hằng ngày để bước vào một hành trình mới. Việc sám hối này làm cho cuộc sống thoát khỏi những “dịp tội” thường gặp trên đường đời; đồng thời cũng gia tăng sức sống của niềm tin nhờ năng tham dự những sinh hoạt đạo đức… Chính quyết tâm thay đổi lối sống cho thấy một mức độ sâu xa hơn của lòng sám hối, một cung cách triệt để hơn trong việc dấn thân vào một nẻo được mới. Hành vi sám hối như thế có phần thực sự dính dáng đến chính bản thân của người sám hối chứ không phải chỉ là một hành vi phụ thêm của cuộc sống.

Tuy vậy, việc sám hối như một sự thay đổi lối sống thường vẫn chưa phải là một sự sám hối hoàn toàn của tinh thần Kitô giáo. Hành vi thay đổi đời sống của người kitô hữu nhiều khi vẫn không phải là một nhân đức đúng nghĩa, hay nói cách khác, vẫn chỉ là sống “nhân đức chịu vậy”; nghĩa là chấp nhận thay đổi đời sống một cách bất đắc dĩ, chấp nhận vì một sự ép buộc bên ngoài mà chính mình không ưa thích. Khi người ta không cảm được cái hay cái đẹp của nếp sống mới mà vẫn phải chấp nhận vì sợ, vì một sự ép buộc bên ngoài nào đó; khi người ta không tìm được một lòng thuận thảo với Nước Trời như chính giá trị thân thương của tâm hồn, thì việc thay đổi nếp sống vẫn chỉ là một dị vật trong đời sống tâm linh và không trổ sinh hoa trái phong phú được.

2. Lối sống so đo tính toán

Nhìn sâu hơn vào đời sống Kitô hữu, có lẽ chúng ta có thể hiểu ra nguyên nhân sâu xa của một tình trạng không trổ sinh hoa trái phong phú của đời sống đức tin chính là do thái độ sống so đo tính toán. Nhiều người Kitô hữu sống trong thời đại Tân Ước nhưng vẫn theo tinh thần của Cựu Ước, nghĩa là chỉ so chiếu đời mình với một bộ luật "ghi trên đá". Người Dân Is-ra-en đã không đón nhận được lề luật của giao ước trong nghĩa tình, nhưng chỉ là một phương cách để tìm lợi ích cho chính mình; chính vì thế mà giao ước đã thường xuyên bị vi phạm. Chính vì thế mà các ngôn sứ đã phải nói tới một giao ước mới, giao ước thân tình như đời sống yêu thương vợ chồng (Xc. Hs 2,21-24), giao ước thân mật được ghi khắc trong tim (Xc. Gr 31-34), giao ước trong Thần Khí của Thiên Chúa (Xc Ed 36, 26-34) :

* "Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới,  không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập ; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta." (Gr 31, 31-33)

* "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành." (Ed 36, 26-27)

Khi sống đời sống luân lý dựa theo một bộ luật, người ta không có được sức sống của tình yêu, nhưng chỉ là một sự so đo tính toán, theo lối sống quanh quẩn trên dưới chung quanh mức trung bình cộng. Không có tình yêu, người ta không có đủ sức hút để đi vào nẻo đường vươn lên đến một sự sống phong phú, vì nẻo đường ấy luôn kèm theo những hy sinh vất vả trong bình diện cuộc sống trần gian. Không có tình yêu, người ta chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, chỉ nhằm vượt qua mức trung bình cộng để khỏi bị phạt.

3. Yêu nhiều vì đã được tha thứ nhiều

Thực ra Mười Điều Răn mới chỉ là bộ luật của Cựu Ước. Lối sống dựa theo Mười Điều Răn không thể làm cho con người được sống phong phú nếu như không hướng tới Điều Răn Mới của Chúa Giêsu :

"Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (Ga 15,12-15)

Với việc tẩy rửa định kỳ, hoặc thay đổi lối sống, người Kitô hữu vẫn chưa có được một sự sám hối vì lòng mến, mà chỉ có sám hối vì sợ; và vì thế, vẫn chưa thể là “sám hối vì Nước Trời”. Điều kiện để bước vào Vương Quốc của Thiên Chúa là : "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." (Mt 3,2). Sám hối ở đây là một cuộc đảo ngược tinh thần, là một sự thay đổi tinh thần, thay đổi não trạng. Đó là một đời sống mới từ trong “nguyên lý” chứ không phải chỉ ở mức độ sửa đổi thích nghi. Đó là một cuộc sám hối bằng sức mạnh của Thần Khí Chúa, để được biến đổi từ chính “tinh thần” hay thần trí của con người. Nguyên lý mới này bắt nguồn từ chính tình yêu lớn hơn mọi tình yêu của Chúa Giêsu.

Do đó, lối sống của người Kitô hữu không thể chỉ là lối sống quẩn quanh mức trung bình cộng của Mười Điều Răn, nhưng phải là một hành trình không ngừng vươn lên mãi hước đến mức độ Điều Răn Mới của Đức Giêsu. Trong nhiệm cục Tân Ước, tất cả mọi khía cạnh nhân sinh được diễn tả trong Mười Điều Răn đều trở nên những nẻo đường "dọc" hướng lên, chứ không phải là những đường "ngang" của một sự so đo tính toán theo mức trung bình cộng. Trong chiều hướng ơn cứu độ trong Đức Giêsu, mọi nhân đức, cũng như mọi lỗi lầm của đời sống con người đều có thể biến đổi ý nghĩa một cách căn bản :

"Vì thế, tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." (Lc 7,47)

Trong Chúa Giêsu, điều quan trọng nhất của một con người không còn là so chiếu với một bộ luật khách quan, nhưng nằm trong vận hành của nẻo đường hướng tới tình yêu lớn lao của Chúa Giêsu. Vận mạng của con người, của mỗi con người không còn tự mình bươn chải để leo lên trên mức trung bình cộng, nhưng là nối kết vào mạch sống yêu thương của Chúa Giêsu; trong vận hành đó, nhiều khi chính tội lỗi lại có thể khai lối cho nẻo đường của tình yêu. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, người Kitô hữu được kêu gọi để sám hối không ngừng, nhưng đó là sám hối vì nhận ra mình không xứng đáng với tình yêu của Chúa. Sám hối vì tình yêu thì không phải là sự cay đắng vì bản thân mình, nhưng mang "mùi vị" ngọt ngào vì tình yêu của Chúa. Sám hối "cay đắng" khi so chiếu đời mình với một bộ luật thì làm cho ta nhụt chí; sám hối "ngọt ngào" khi đối diện với tình yêu Chúa thì giúp ta tăng thêm lòng trông cậy để tiến bước trên hành trình cuộc đời.

2. Tình yêu khai mở chân trời tâm linh Kitô giáo


1. Chiều kích tâm linh trong đời sống con người

Chiều kích tâm linh là chân trời rộng mở cho mọi điều thiện hảo trong cuộc sống con người. Cuộc sống thực tế của con người luôn bị trói buộc trong những "giới hạn căn bản" của bản chất người. Con người là "nhân vô thập toàn", con người là "sinh lão bệnh tử", con người là "sinh vật có bệnh", con người là "hữu thể tương đối"….; những giới hạn căn bản như thế không phải chỉ là những khẳng định lý thuyết của các triết gia hay thần học gia, nhưng là những chuyện đời thường mà mỗi người đều cảm nhận thấy, đặc biệt là khi người ta bước qua tuổi mộng mơ để trở nên một con người trưởng thành. Như thế, cứ theo lẽ thường, để trưởng thành, người ta cần chấp nhận thực tế để sống "khôn ngoan" để tính toán cuộc đời, để biết dè dặt trong những mối tương quan tình nghĩa, để biết "liệu cơm gắp mắm" trong cách đối xử ở đời… Thế nhưng, trong thực tế, ta lại luôn thấy những mảnh đời đẹp của một lý tưởng dâng hiến trọn vẹn, của một sự phục vụ không tính toán, của một thứ tình yêu vượt qua mọi giới hạn… Đó chính là sự so le của thực tế đời thường và khát vọng tuyệt đối trong đời sống con người. Khát vọng tuyệt đối được biểu lộ trong các tôn giáo, và các tôn giáo đáp ứng khát vọng ấy khi khai mở chiều kích tâm linh của con người. Không có chiều kích tâm linh, người ta không thể tha thứ mãi, không thể bác ái trọn vẹn, không thể yêu thương vô điều kiện, không thể phục vụ vô vị lợi, không thể tìm thấy một tiêu chuẩn vững bền cho mệnh lệnh luân lý, không thể sống trọn niềm tin vào con người…

Thực tế so le đó cho thấy chiều kích tâm linh là điều không thể thiếu đối với đời sống của mỗi cá nhân con người cũng như đối với toàn thể một xã hội. Con người vừa là "nhân sinh sơ tính bản thiện", nhưng lại cũng vừa là "nhân chi sơ tính bản ác"; con người tự nhiên vừa khát khao sự thiện, nhưng lại luôn bị cám dỗ làm điều ác. Hơn nữa, ranh giới của cám dỗ làm sự ác là vô bờ bến và niềm khát khao sự thiện cũng vô bờ bến. Nếu lòng khao khát sự thiện bị biến thành một hệ thống luân lý hợp lý, chiều kích tâm linh sẽ bị tiêu diệt, cuộc sống xã hội sẽ trở nên mất quân bình vì sự hoành hành của sự ác. Một xã hội vô thần sẽ không thể có đủ lực trong cuộc chiến đấu chống sự ác.

Chúng ta cũng có thể tìm thấy một nguyên tắc trong đời sống con người : muốn vượt lên khỏi cái xấu thì không thể chỉ dừng lại ở cái không xấu không tốt. Lựa chọn như thế sẽ làm cho con người “rớt lại” trong thế giới của cái xấu; vì bản thân của con người đã mang sẵn mầm mống của tội. Muốn diệt cỏ dại trên một mảnh đất, thì không thể dừng lại ở việc làm cỏ, nhưng phải trồng hoa trên mảnh đất ấy.

2. Tình tự của ơn cứu độ Kitô giáo

* “Cái ác” trở thành ”tội lỗi”

Kinh Thánh thì cho thấy cái ác nằm trong bản chất của con người, cái ác là tội tổ tông đè nặng trên dòng dõi Adam. Kinh Thánh cho thấy tội lỗi chính là một đường nét quan trọng trong tình tự ơn cứu độ Kitô giáo. Trong hoàn cảnh thực tế của con người có tội, thì chính tội lỗi lại có thể là khung cửa để con người nhận ra mối tương quan với Thiên Chúa. Theo nhãn quan Kinh Thánh, cái ác không phải chỉ là một sự bất toàn mà mình “có gan chơi” thì “có gan chịu”, nhưng cái ác đặt con người đối diện với Chúa và với tha nhân. Như thế, cái ác trở thành tội lỗi, vì tội lỗi không phải chỉ là chuyện giữa ta với sự vật, những là chuyện giữa ta với ai khác. Cái ác không còn chỉ là vô minh, không còn chỉ là ngu dốt, không còn chỉ là lầm lẫn, nhưng là một thái độ bất trung. Chính vì thế, tội lỗi hé lộ cho con người nẻo đường đi vào ơn cứu độ, nghĩa là mời gọi con người tìm lại tương quan với Chúa.

* Tội lỗi và ơn cứu độ

Chính từ nẻo đường của mối tương quan ngôi vị do tội lỗi đặt ra mà người Kitô hữu được mời gọi để đi vào ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô. Chính người tội lỗi lại là những người có nhiều cơ may nhất để nhận ra trách nhiệm của mình với Chúa và nhận ra mình cần tới Chúa. Nhận ra mức độ trầm trọng của tội lỗi để có thể nhận ra lòng khao khát ơn cứu độ; nhận ra sự bất trung để nhận ra nẻo đường của ơn cứu độ bằng tình yêu thương. Đó là một trong muôn vàn nét “đảo ngược” kỳ lạ của Tin Mừng Đức Giêsu Kitô :

“Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói với họ : "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mc 2,17).

“Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. (Lc 15,7).

* Cứu độ và nên thánh

Các môn đệ của Chúa Giêsu không phải là những con người ưu tuyển, cả về phương diện trí thức cũng như về phương diện đời sống luân lý; các thính giả của Chúa Giêsu cũng không phải là những người có văn hóa cao hoặc là những người lành thánh nào cả. Ngược lại, những người chung quanh Chúa, hầu hết là những con người bình thường, hoặc có thể nói là tầm thường, hoặc rất tầm thường nữa. Dĩ nhiên, với những người như thế, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, với những hình ảnh và những chuyện đời thường để tỏ bầy những chân lý cao siêu; và dĩ nhiên Chúa Giêsu cũng không thể một lúc trình bày được hết những mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa. Thế nhưng, về phương diện đạo đức, Chúa lại không ngần ngại đặt ra những lý tưởng cao vời của đời sống luân lý. Chúa không giảm nhẹ chút nào đòi hỏi của lý tưởng Tin Mừng. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong toàn bộ giáo huấn luân lý của Chúa Giêsu, đặc biệt trong bài giảng trên núi :

“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48)

Nẻo đường mà Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ bước vào là một nẻo đường mà ngay cả những bậc thánh hiền cao cả nhất của nhân loại cũng không dám nghĩ đến :

"Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó”. (Mt 7,12).

Điều mình không muốn người khác làm cho mình, như đức Khổng Tử dạy, thì chỉ giới hạn trong một số điều thôi; nhưng điều mình muốn người khác làm cho mình thì lại vô cùng, không có giới hạn, đó mới chính là điều đức Giêsu dạy.

Chúng ta có thể thấy rõ, nẻo đường đi vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu không phải là bình bình, vừa vừa phai phải, nhưng là một bước nhẩy trọn vẹn và quyết liệt vào con đường nên thánh, vào con đường hun hút đến trời mà tự thân nhân loại không dám bước vào. Con đường ấy dĩ nhiên chỉ khả thi trong ơn cứu độ của Đức Giêsu, chỉ khả thi khi người Kitô hữu nhẩy vào thế giới của Nước Trời và đón nhận được sự sống mới trong ơn sủng của Chúa Thánh Thần.

Quả thật tình tự của ơn cứu độ Kitô giáo chỉ có thể hình thành được từ con đường của tình yêu; từ sự nhận ra những giới hạn của cuộc sống, nhận ra cái ác như là một sự từ chối tình yêu; đồng thời khai mở hành trình của tình yêu như nẻo đường khả dĩ để vươn lên đến tuyệt đối. Thiếu vắng tình yêu, đời sống con người chỉ còn là những tính toán hợp lý; thiếu vắng tình yêu Thiên Chúa, con đường tâm linh của con người vẫn chỉ là những nỗ lực giới hạn của sức người và con đường ấy đương nhiên loại trừ những người bé mọn.

Tình yêu Thiên Chúa chính là chân trời mở rộng cho đời sống con người, đồng thời cũng chính là động lực căn bản cho hành trình tâm linh của nhân loại.

3. Tình yêu mời gọi dấn thân


1. Không chỉ là tình cảm lãng mạn

Người ta thường hay nói "hôn nhân giết chết tình yêu". Tình yêu của hai người khi chưa đi đến hôn nhân là một tình yêu nồng nàn, cháy bỏng, lãng mạn, thương thương nhớ nhớ… Nhưng khi đã đi vào thực tế của đời sống hôn nhân, thì tất cả những thứ thương thương nhơ nhớ sẽ phai lạt dần; thay vào đó là cảm nhận có trách nhiệm, là sự thúc bách liên lụy với nhau trên hành trình cuộc đời.

Tuy nhiên, tình yêu chân chính và trọn vẹn thì không phải chỉ là một thứ tình cảm cháy bỏng. Tiếng gọi của tình yêu chân chính bao giờ cũng thôi thúc con người đến một cách sống yêu thương trọn vẹn, triệt để, yêu thương đến cùng. Hành trình của tình yêu chân chính không phải nhằm đạt đến một sự an hòa cho bản thân, nhưng là vượt quá bản năng bảo vệ bản thân. Đó luôn luôn là một cuộc “vượt qua”. Đi vào nhịp bước tình nghĩa, người ta được mời gọi  ra khỏi bản thân, dấn thân vì tha nhân và dấn thân cho đến cùng. Tình yêu thương, trong khía cạnh dính dáng đến vận mạng con người, không thể được giải quyết bằng thái độ “đi giầy cao gót”, thái độ “đi cà khêu” trong cuộc đời. Để đến với ai khác trong tình yêu, ai khác như một bản thân có giá trị tuyệt đối, ai khác như vận mạng một đời người, ai khác với tất cả sự phức tạp của cuộc đời, thì người ta cũng cần phải hy sinh cả một đời.

Những người làm cha làm mẹ, những người có kinh nghiệm “cưu mang” một cuộc đời, “mang vác” một phận người,… có lẽ dễ hiểu được điều đó. Mang vác một cuộc đời là cả một hành trình gian nan, khốn cực, mà người nào nhát đảm, an thân không thể nào đi trọn được. Để đồng hành với một phận người, người ta không thể đứng bên lề cuộc đời để khỏi vướng bùn nhơ, không thể đứng xa xa, cầm cây khều khều, gẩy gẩy… nhưng là xắn quần lên, là lội vào bùn, là ngụp lặn trong bùn. Có lẽ chính vì cuộc đời một con người cần được cưu mang, cần được mang vác như thế mà Chúa cho con người có cha có mẹ.

2. Theo dấu tình yêu của Thiên Chúa

Tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, đôi khi cũng được tỏ bày một cách thiết tha, ngọt ngào :

* "Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ?Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao        giờ".(Is 9,15)

* "Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi !

Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành !

Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,

để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được ?

Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi". (Hs 11,8)

Tuy nhiên, theo quan điểm của Kinh Thánh, tình yêu hàm nghĩa một cách căn bản là sự liên đới với nhau trên hành trình cuộc đời, là sự đồng hành với nhau trong những khó khăn và cực nhọc, là sự liên lụy trong hậu quả của tội lụy. Điều chính yếu trong mạch sống của ơn cứu độ chính là lời hứa, là giao ước, là sự trung tín của Thiên Chúa trong hành trình lịch sử của Dân. Khởi đầu là một lời hứa trong vườn địa đàng với nhân loại :

Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,15)

Rồi Giavê Thiên Chúa bắt đầu dính dáng vào vận mạng của con người một cách tích cực, một cách càng ngày càng trọn vẹn hơn, càng ngày càng thể hiện một sự liên lụy tới cùng với con người : Giavê Thiên Chúa đã kêu gọi Abraham và đã thực hiện một giao ước đơn phương cách quảng đại với Abraham :

"Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, ĐỨC CHÚA lập giao ước với ông Áp-ram như sau :

     "Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, 21 E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút. (St 15, 17-21;Xc, St 15, 7-21)

Rồi Giavê đã giao ước cách chính thức và song phương với Dân qua trung gian của Môi-sen (Xc. Xh 24, 1-8). Hành trình dấn thân ấy đưa đến việc nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, đưa đến cuộc tử nạn của Đức Giêsu Kitô :

"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời".(Ga 3,16; Xc Pl 2, 6-11)

Trong khi người Hy Lạp cho rằng Thượng Đế chẳng màng chi đến thân phận con người, Thượng Đế là mẫu mực của cuộc sống con người theo kiểu như nam châm hút sắt mà không biết mình hút, thì phẩm chất căn bản của tình yêu nơi Giavê Thiên Chúa lại là gặp gỡ, sống -với, và dấn thân, dấn thân triệt để. Chính vì thế mà người Hy Lạp coi thập giá là một sự điên rồ :

"Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ." (1 Cr 1, 22-23)

3. Tình yêu Thiên Chúa thanh lọc tình yêu con người

Nói như đức Benedicto XVI, tình yêu Kitô giáo không chống lại tình yêu Eros. Tình yêu Eros là một sự say đắm, khi mà lý trí bị xâm chiếm bởi một cơn “điên dại thần bí”. Nhưng tình yêu Eros cần phải được thanh luyện trong tình yêu Agape của Kitô giáo [2].

“Từ cái nhìn ngắn ngủi về hình ảnh của Eros trong lịch sử và trong hiện tại, chúng ta thấy có hai chiều kích rõ rệt. Chiều kích thứ nhất, tình yêu có liên hệ với  Thiên linh : tình yêu hứa ban sự vô hạn, vĩnh cửu – sự cao cả và hoàn toàn khác với thực trạng hằng ngày của chúng ta. Đồng thời cũng cho thấy, con người, để đạt đến đó, không phải chỉ đơn thuần là tùng phục bản năng. Sự thanh luyện và trưởng thành rất cần thiểt, và các điều này phải kinh qua con đường từ bỏ. Đây không phải là phủ nhận, cũng không phải là “đầu độc” Eros, nhưng là chữa lành để đạt được sự cao cả thực sự của nó” (Số 5).

Tình yêu thì phải luôn thăng tiến, vận hành vươn lên, nấu nung khao khát, âm thầm kêu gọi, thúc đẩy mạnh mẽ… Bỏ mất tính chất vận hành vươn lên thì ngay lập tức tình yêu con người bị biến chất. Agape thanh lọc Eros bằng cách không ngừng thôi thúc để Eros không được an thân trong sự quy ngã, hưởng thụ của chính mình. Agape làm cho bước khởi đầu của tình yêu Eros được đi vào vận hành hướng tới tình yêu không giới hạn về mọi phương diện, tình yêu hy sinh mạng sống cho người mình yêu.

Ở đây có thể hiểu được một chút tính chất thanh lọc của Agape đối với Eros. Tình yêu say đắm và lãng mạn của con người thường bị phá đổ do thực tế bi đát của cuộc sống. Đời sống gia đình chẳng hạn luôn phải đối diện với những chuyện cực nhọc về cơm áo gạo tiền, đối diện với sự khác biệt của tính tình, sự bất đồng trong suy nghĩ, sự ê chề của những tật xấu và cả sự đau thương của bệnh tật. Nếu con người không được định hướng bằng thứ tình yêu Agape, không được nuôi dưỡng bằng tình yêu Agape của Thiên Chúa, nghĩa là đi vào lộ trình của một thứ tình yêu dám dấn thân vào cuộc, chia sẻ phiền lụy cuộc đời với nhau, thì con người chẳng thể đi trọn vẹn hành trình yêu thương được.

4. Tình yêu, đón nhận bản thân của nhau


1. Thế giới “ngoài đường” và thế giới “trong nhà”

Khi ta đi ra đường, mọi sự đều là đổi chác. Trong thế giới ngoài đường, từ những đồ vật cho đến thân xác con người, từ những tài năng cá nhân cho đến vị thế xã hội, và cả đức độ của một con người, tất cả đều được đưa vào bài toán kinh tế thị trường, nghĩa là được đặt lên một bàn cân để cân nhắc lời lỗ của một cuộc trao đổi. Nét đặc trưng của việc buôn bán này là làm sao hai bên cùng có lợi, nghĩa là bên nào cũng phải thu lời được cho mình. Mặt khác, việc mua bán đổi chác ấy luôn là chuyện thời vụ, hiểu theo nghĩa là trong từng “hợp đồng” có tính ngắn hạn, bởi vì đó không phải là giao ước đụng chạm đến bản thân.

Trong khi đó, khi về đến gia đình, người ta sống trong một bầu không khí khác, bầu không khí của một sự chấp nhận bản thân của nhau. Khi đó, những tương quan hằng ngày không phải là đổi chác, không phải là những trao đổi theo nguyên lý của sự công bằng.

Cuộc trao đổi của thế giới ngoài đường không đụng đến được bản thân của con người, chỉ là những trao đổi những sự vật (sự vật là tất cả những gì không phải là bản thân của con người). Trong thế giới trao đổi sự vật đó, nếu người ta có xúc phạm đến phẩm giá, hoặc đối sử lịch sự với nhau, thì thật ra đó cũng chỉ là chuyện “lễ nghĩa” mà thôi. Trên nền tảng ấy, cuộc đối thoại ngoài đường thật ra cũng chẳng phải là cuộc đối thoại thoả mãn được khát vọng sống với của con người.

Ở trong gia đình, người ta chấp nhận bản thân của nhau. Nơi đây, những gặp gỡ, trao đổi hằng ngày, không phải là trao đổi, nhưng hướng mở tới một sự liên kết sâu hơn, làm dày lên nghĩa tình trong hành trình cuộc sống. Trong gia đình, mọi “trao đổi sự vật” chỉ là một cách diễn tả của bản thân cho nhau; trong khi đó, nơi thế giới ngoài đường, chính bản thân lại có nguy cơ bị giản lược vào “sự vật” để đổi chác.

2. Giao ước móng nền

Khi người ta làm một căn nhà tạm thời, một căn nhà không có móng, thì điều quan trọng là phải nối kết kèo cột với nhau thật chắc. Nhưng khi người ta muốn dựng một căn nhà vững bền, thì điều quan trọng hơn là phải có nền móng vững chắc. Với căn nhà tạm thời, khi kèo cột bung ra, căn nhà sụp đổ. Nhưng với một căn nhà có móng, khi kèo cột rời ra, lung lay, lắc lư, nó vẫn có thể đứng được. Rồi người ta lại tìm cách nối kết kèo cột lại với nhau. Hình ảnh căn nhà như thế giống với những mối tương quan con người với nhau. Khi người ta “gá nghĩa” tạm thời, theo tình đồng nghiệp, tình nghĩa làng xóm… thì cần phải biết cư xử với nhau cho đẹp, phải biết điều, biết ngó trước nhìn sau, biết liệu cơm gắp mắm… bởi vì nếu “kèo cột” không ăn khớp với nhau, thì mọi sự sẽ đổ bể hết. Tuy nhiên, trong đời sống gia đình, khi người ta chấp nhận bản thân của nhau, thì mặc dù những điều ăn khớp trên kèo cột vẫn luôn cần thiết, nhưng điều quan trọng nhất lại chính là một sự “thuộc về nhau”, thuộc trọn về nhau; đây là một sự liên kết trong móng nền.

Nhiều khi, trong gia đình, anh chị em không hợp tính nhau, thường xuyên cãi vã… nhưng dù sao họ vẫn là anh chị em của nhau, vẫn thuộc về nhau từ trong dòng máu của mẹ cha. Do đó, dù nói gì thì nói, dù tức bực với nhau sao đó, người ta vẫn phải dành ưu tiên những gì quí nhất cho những người thuộc về mình chứ không phải cho một người ngoài, dù đây là người rất hợp tính với mình.

Như thế, chúng ta hiểu ra rằng bí quyết của tình yêu không phải là sự ăn khớp tính tình, không phải chỉ là yêu thích những nét đẹp của nhau, nhưng căn bản hơn, đó là sống trong một nền tảng “thuộc về nhau”. Bí quyết đó là một thực tế hết sức quen thuộc của đời thường, ta có thể dễ dàng kiểm chứng và mọi người có thể sống được. Chẳng hạn : chúng ta có thể vào nhà thương ung bứu để thấy bao nhiêu cảnh khổ của cuộc sống con người, nhưng chiều về chúng ta vẫn cảm thấy thư thái, ăn ngon và ngủ ngon; vì những người đau khổ ấy, một cách nào đó, chưa dính dáng đến ta bao nhiêu. Cũng thế, chúng ta có thể chia vui với một người bạn xây xong một ngôi nhà khang trang, hoặc có con mới thi đậu đại học, những niềm vui đó chẳng sống động và sâu xa bao nhiêu so với bao nhiêu chuyện đang quay quắt trong quỹ đạo sinh hoạt thường ngày của cuộc đời mình. Ngược lại, nếu người nằm trong nhà thương Việt Pháp bị mổ ruột dư là em của tôi, người thi đậu tiểu học là cháu của tôi,… thì chắc chắn nỗi lo lắng và niềm vui của tôi sẽ sâu xa và mạnh mẽ hơn nhiều. Cái ruột dư bị đau chẳng quan trọng bằng cái bứu ác tính đang đe dọa tính mạng, văn bằng tiểu học chẳng là gì so với tờ giấy báo trúng tuyển đại học; nhưng những điều ấy lại dính dáng đến tôi, chúng được sống động do nguyên lý “thuộc về nhau”. Cũng thế, người thân của chúng ta chắc chắn chẳng hay hơn, chẳng tốt hơn, chẳng dễ thương hơn tất cả mọi người, nhưng điều quan trọng hơn là : đó là những người thuộc về tôi. Một khi đã xây dựng được một sự thuộc về nhau, tức là một sự đón nhận bản thân của nhau, người ta có thể vượt qua được những mâu thuẫn, những xung đột, hoặc những chướng ngại của một tật xấu nào đó, để có thể đón nhận người thuộc về mình một cách quảng đại và vô điều kiện.

3. Thiên Chúa giao ước móng nền với con người

Nếu như trong Cựu Ứơc, giao ước giữa Giavê với Dân còn có phần tính toán, tìm lợi lộc và chưa dính dáng trọn vẹn đến bản thân của mỗi người, thì Tân Ước mới thực sự là giao ước ở mức độ bản thân. Nơi đây, Thiên Chúa trao trọn bản thân của Ngài trong Đức Giêsu, Ngôi  Hai Thiên Chúa, và người Kitô hữu cũng dâng trao trọn vẹn bản thân mình cho Chúa.      

"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16)

Chúng ta có thể thấy rõ giao ước của bí tích Rửa Tội không phải là một thứ giao ước thuận mua vừa bán. Trong loại giao ước như thế, mỗi bên chỉ góp vào một phần sự vật nào đó của mình chứ không đóng góp chính bản thân mình. Ngược lại, trong giao ước “móng nền”, giao ước “ngôi vị” sẽ làm nên một “cộng đồng ngôi vị”, trong đó, người ta đem chính bản thân mình ra để “ký kết”. Trong giao ước ngôi vị như thế, mỗi bên trao phó trọn vẹn bản thân mình cho nhau và cũng đón nhận trọn vẹn bản thân của người kia.

Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta; và mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội, chấp nhận chết đi cho con người cũ để sống một con người mới hoàn toàn, con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa, từ lối sống cho tới cả những ý nghĩ thầm kín nhất….

* "Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa"  (Rm 14,7-8)

* "Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình". (2Cr 5,15)

Sống trong giao ước “móng nền” của bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa là Đấng “cùng phe” với mình, Thiên Chúa giúp mình “trả nợ đời” chứ Ngài không phải là ông chủ nợ. Thiên Chúa là người Cha với tất cả phẩm chất của người Cha chứ không phải là một ông chủ :

" Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng." (Lc 15, 21-24)

Thiên Chúa trao ban chính bản thân mình, chứ không phải chỉ là trao ban một đồ vật, một món hàng nào đó. Điều đó giống như một người “nắm đàng chuôi”, chỉ có niềm tin vào tình yêu được đáp trả là sức mạnh duy nhất để đợi chờ. Tình yêu trao bao cần phải được chờ đợi, để lãnh nhận chính bản thân của người tín hữu tự do trao tặng. Thiên Chúa đã muốn chọn con đường yêu thương như thế.

5. Tình yêu, cuộc đối thoại nghĩa tình


1. Cuộc đối thoại ngôi hai

            Khi ta nói chuyện trực tiếp với một người khác, ta đang nói với người khác như là ngôi thứ hai; còn khi ta nhận định về một người vắng mặt, ta nói về một ai khác ở ngôi thứ ba. Khi ta nói vói chính ta, ta thực hiện một cuộc “đối thoại” như là những lời tự nhủ của chính mình, đó là ta chỉ sống trong ngôi thứ nhất mà thôi. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một quy tắc văn phạm trong việc sử dụng từ ngữ. Ý nghĩa thực của “mức độ đối thoại” không luôn luôn đồng nhất với việc sử dụng quy tắc văn phạm, nhưng do chính thái độ của lòng mình. Người ta có thể nói chuyện trực tiếp với ai khác, người ta sử dụng từ ngữ “anh”, “chị” để nói với người ấy, và người “anh/chị” ấy cũng có những lời đáp lại lời nói của ta. Nhưng rất có thể, trong thực chất, ta nói và không nghe, ta nói và nghĩ về người khác như một ngôi thứ ba, nghĩa là không bao giờ nhận được một sự phản hồi, không đáp lại những ý nghĩ, những ước muốn của người khác, mà chỉ là một kẻ “trút xuống đầu” người khác những suy nghĩ của chính mình.

Cuộc đối thoại ngôi hai đích thực đòi hỏi người ta phải nhận ra người khác “có thể trả lời”, nghĩa là ta phải sẵn sàng đón nhận khả năng trả lời, sẵn sàng nhận ra sự biến chuyển của người khác, sẵn sàng chấp nhận người khác như là người mà ta chưa thể hiểu hết, sẵn sàng theo đuổi “cuộc đối thoại” đang tiếp diễn. Cuộc đối thoại ngôi hai là một cuộc đối thoại sống động, phiêu lưu, trong tự do bay lượn và trong khả năng sáng tạo bản thân của mỗi bên.

Ta có thể dùng một hình ảnh hình học để diễn tả một cách khái quát cuộc đối thoại ngôi hai như sau  : Nếu chúng ta có hai điểm A và B bên cạnh nhau, thì từ hai điểm đó chúng ta có thể có những “hướng đi” khác nhau :

- Hoặc là A và B chạy đến với nhau và sát nhâp thành một;

- Hoặc là A và B chạy theo hai chiều hướng đối nghịch và càng ngày càng xa nhau;

- Hoặc là hai điểm ấy luôn gĩư mãi khoảng cách đúng và cố định bằng cách tuân theo một trục thẳng để trở thành hai dường song song chạy dài mãi.

- Cuối cùng, ta có thể cho hai điểm ấy vẫn chạy song song, nhưng không phải là dựa theo một định luật cố định nào để thành hai đường thẳng song song, mà là một sự thuận tình trong “sáng tạo nghệ thuật”, để trở thành hai đường song song bay lượn, vòng lên và vòng xuống, qua phải và qua trái mà vẫn giữ được một sự liên đới đúng đắn.

+ Trường hợp thứ nhất là lập trường của những người muốn thống trị người khác, tạo nên sự hiệp nhất bằng cách chinh phục và loại bỏ cái tôi của người khác. Nhưng đó thật sự không phải là hiệp nhất mà là độc nhất. Khi ta muốn người khác làm theo ý mình mà không đếm xỉa gì đến cảm nghĩ của họ,… thì ta đã, vô tình hay hữu ý, chọn giải pháp độc tài.

+ Trường hợp thứ hai là tình trạng “cá đối bằng đầu”, tình trạng vô chính phủ, mạnh ai nấy sống, mạnh ai nấy làm, không ai “mắc mớ” gì tới ai. Khi người ta đề cao một thứ tự do hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa, người ta cũng rơi vào tình trạng tự phá hủy chính phẩm giá của mình. Con người của thứ tự do ấy cũng lấy mình làm tiêu chuẩn duy nhất đúng, đóng kín trong bản thân mình để cũng “tận diệt” tha nhân, không phải bằng cách áp đặt ý muốn của mình, không phải bằng bạo lực trên tha nhân, nhưng bằng phương cách loại trừ tha nhân ra khỏi mối quan tâm của chính mình.

+ Trường hợp thứ ba diễn tả một sự “hiệp nhất”, nhưng lại là một sự hiệp nhất do một áp lực ở bên trên và bên ngoài. Người ta có thể an tâm khi A vẫn là A; và B vẫn là B; không có sự tận diệt sự hiện hữu của nhau như giải pháp thứ nhất. Người ta cũng có thể khoái chí vì A vẫn ở gần bên B như thể có một sự liên đới, hiệp thông nào đó như giải pháp thứ hai. Thế nhưng đó cũng chỉ là một sự hiệp nhất bên ngoài. Có một thế lực khác kềm giữ A và B để chúng không tiêu diệt nhau và cũng không xa nhau.

+ Trong trường hợp thứ tư, ta thấy những giá trị căn bản của phẩm giá con người đựơc bảo vệ : tôn trọng cá nhân mỗi người, để cho mỗi cá nhân sống trọn vẹn bản sắc riêng của mình. Nơi đây, người ta tìm thấy sự hòa hợp cộng đoàn trong một tinh thần tự nguyện, trong bầu khí tự do và rộng mở cho việc phát huy khả năng sáng tạo bản thân của mỗi người. Nơi đây, mối giây căn bản để nối kết A và B không là gì khác hơn đức ái. Đức ái chỉ có thể sống và phát triển thực sự trong bầu khí tự do, đó là khi người ta được tôn trọng, khi người ta được tin tưởng. Sự hiệp nhất như thế chỉ có được như một thành quả “thuần chất người”, vì nơi đó chỉ có nhân vị, chỉ có tự do, chỉ có tình nghĩa chân thành và tự nguyện chứ không có một thứ “tạp chất” của sự vật nào.

Có lẽ điều làm cho người ta ngại với giải pháp thứ tư, đó là vì giải pháp này có vẻ phiêu lưu. Người ta sợ một kết cục không tốt sẽ xẩy ra khi trao trọn chìa khóa của vấn đề vào ý chí tự nguyện của cá nhân. Đó là căn bệnh nhát sợ, không dám tin vào con người, nhưng đặt niềm tin vào các phương pháp kỹ thuật, tin vào các biện pháp kỷ luật, tin vào các phương thức khoa học. Sâu xa ra, có lẽ điều làm cho người ta ngại với giải pháp thứ tư là người ta không dám tin vào tình yêu, không dám tin vào sức mạnh của tình yêu, và người ta thay thế tình yêu bằng một nguyên lý khác, nguyên lý hợp lý hay nguyên lý quản trị…

2. Tình yêu là cửa đi vào cuộc sống tương giao ngôi vị

Trong cuộc đối thoại ngôi hai, ta không biến tha nhân thành một đồ vật, thành một bài toán, thành một khuôn khổ nào đó. Tha nhân phải được coi như một ngôi vị độc đáo mà tôi chỉ có thể lắng nghe và khám phá như một huyền nhiệm, chứ không phải giải quyết như một vấn đề. Triết gia Gabriel Marcel cho chúng ta thấy mỗi người là một huyền nhiệm. Thái độ tôn trọng tha nhân như một huyền nhiệm nghĩa là không biến tha nhân thành một vấn đề để giải quyết, nhưng là trân trọng một con người và chiêm ngắm huyền nhiệm của một đời người. Khi đó, chính bản thân của tha nhân mới được đưa vào cuộc và ta đối thoại thật sự như là một cuộc gặp gỡ ngôi vị.

Tình yêu chân chính bao hàm thái độ căn bản là chấp nhận bản thân của ai khác. Chấp nhận bản thân nghĩa là  không đặt điều kiện tiên quyết nào dính dáng đến chính bản thân, nghĩa là “cởi mở” từ chính thái độ căn bản của bản thân mình trong tương giao, để có thể đón nhận ai khác một cách căn bản. Trên nền tảng của thái độ chấp nhận bản thân của ai khác, cuộc tương giao của con người với nhau có thể có được một khung trời bao la để diễn tả bản thân mình và đón nhận ai khác. Khi đó, nói hay im lặng, chất vấn hay hỏi han, cười đùa hay nghiêm trang… vẫn là những sinh hoạt làm dày thêm tình nghĩa chứ không phải là điều kiện để đạt được một sự vật nào đó. Người có khả năng đón nhận bản thân của ai khác là người có “tâm từ bi”, hay có “tai Bồ Tát” để có thể lắng nghe được điều gì sâu xa nhất trong bản thân của ai khác.

3. Thiên Chúa trân trọng con người

Thiên Chúa dấn thân vào hành trình cứu độ con người, nhưng đó là một hành trình gian khổ của tình yêu. Nẻo đường của tình yêu luôn luôn là một nẻo đường bấp bênh, vì nó được “phó thác” sự tự do của con người, vì nó không có những điều kiện vật chất hữu hình, hoặc những lý lẽ khả niệm bảo đảm. Con đường tình yêu là con đường có khả năng gợi lên sự khao khát và động lực lên đường của chính người được yêu, chứ không phải là một sự áp đặt nào ở bên ngoài. Cứu độ bằng tình yêu vừa có nghĩa là Thiên Chúa tỏ tình yêu thương, vừa có nghĩa là Thiên Chúa tin rằng tình yêu có khả năng đổi mới con người từ bên trong, vừa có nghĩa là Thiên Chúa chọn con đường chờ đợi đáp trả của tình yêu.

Bản thân của Chúa được trao ban trong tự do, tự nguyện; và ngài cũng chờ đợi một sự trao tặng lại bản thân, được người tín hữu trao ban trong tự do và tự nguyện. Thiên Chúa đã từ chối không áp dụng những phương thức chinh phục con người hiệu nghiệm hơn, mau mắn hơn, ổn định hơn. Nhưng Ngài lại muốn đến với con người bằng tình yêu, qua ngả đường của tình yêu.

6. Tình yêu, con đường của bình an


1. Con người "ngoài đường"

Cuộc sống xã hội ngày hôm nay có thật nhiều biến chuyển. Xã hội con người tiến bộ thật mau, nhưng cũng làm đảo lộn cuộc sống của nhiều người. Ngày nay, không còn chuyện “con vua thì lại làm vua, con sãi chùa lại quét lá đa”. Người ta có nhiều cơ hội để đổi đời, nhưng cũng có nhiều nguy cơ đánh mất cuộc đời. Con người ngày nay luôn sống trong tâm trạng “cuộc đời như chưa có đáp số”. Người ta luôn phải thăng tiến và luôn phải bảo vệ vị thế của mình; người ta chẳng thể yên ổn với cuộc sống hiện tại vì “nhìn lên thấy mình chẳng bằng ai”. Cuộc chạy đua thăng tiến ấy không bao giờ đủ và lòng con người cũng chẳng thể bình an…

Bầu khí chung của thời đại như thế làm cho người ta dễ rơi vào tình trạng luôn phải tìm cách thích ứng. Nhu cầu thích ứng trở nên quan trọng hơn là nhu cầu sống an hòa với chính mình. Thích ứng nghĩa là giải quyết vấn đề trước mắt, là đối phó “theo thời vụ” chứ không phải là giải quyết tận căn bản của vấn đề. Đó thường là những giải pháp tạm thời chứ không phải một sự giải quyết tận căn; nó không bao gồm sự biết mình rõ rệt hơn, không phải là một kinh nghiệm sâu xa, để lại một bài học nhớ đời cho chính bản thân mình. Cuộc sống ngay nay “chạy” quá nhanh, nên người ta không còn cảm nhận được chính niềm vui của cuộc sống. Cuộc sống “chạy” quá nhanh nên người ta không còn đọng lại một giá trị nhân bản, hoặc một ý nghĩa thân thương, hay một một giá trị “thiêng liêng” nào cho tâm hồn mình.

Ta có thể thấy khá rõ lối sống của con người ngày nay là lối sống của một “người ngoài đường” chứ không phải là lối sống của một “người ở nhà”. Người ta giải quyết tạm thời những trục trặc để đi qua chứ không phải là một sự sửa đổi cẩn trọng và kỹ lưỡng của bản thân mình. Con người trong xã hội này không còn được an ổn và thanh thản như xưa.

2. Con người đấu tranh

Khoa tâm lý học cho thấy tất cả mọi người đều có ít nhiều một thứ "mặc cảm phòng vệ". Tâm trạng phòng vệ khiến cho con người không còn được sống thật và sống an hòa. Trong trạng thái phòng vệ, mỗi lần gặp gỡ là mỗi lần người ta phải chiến đấu, phải suy tính cách nói, phải tìm thái độ thể hiện… Khi nào con người không còn bận tâm về việc khẳng định trước mặt người khác, nghĩa là khi được thoát khỏi nỗi sợ thì con người mới có thể hiện diện với người khác một cách thanh thản và chân thật.

Quả thật, con người chỉ là mình trong tương quan, nhưng đó là tương quan hiệp thông chứ không phải tương quan cạnh tranh. Tương quan cạnh tranh dễ làm cho người ta đánh mất ý nghĩa bản thân mình, vì lo khẳng định mình “theo đuôi” người khác; tương quan hiệp thông lại giúp ta khám phá khát vọng bên trong và giúp ta khẳng định mình trong hoàn cảnh riêng của chính mình. Trong tương quan cạnh tranh, ta nhìn tha nhân như một người đe dọa, sự vươn lên của tha nhân làm cho ta sợ hãi, và sự sụp đổ của tha nhân lại làm ta khoái chí. Khi ấy, lòng ta luôn bất an vì sự so sánh cạnh tranh; ta rơi vào căn bệnh “đứng núi này trông núi kia cao”, luôn thấy người khác có điều hơn mình khiến mình phải thèm thuồng; khi ấy, ngấm ngầm trong ta là một ý nghĩ ghen tỵ : ta sợ người đẹp hơn ta, ta sợ người giỏi hơn ta, ta sợ người tài hơn ta, ta sợ người giàu hơn ta…. Cái tình cảm nhỏ nhen ấy làm cho ta buồn với sự lành và vui với sự ác nơi người khác, chứ không phải là “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Người ta dễ chia buồn và khó chia vui là như vậy.

Henri Nouwen, trong cuốn  “Những Dấu Chỉ Của Sự Sống” nói rằng :

“…trong phần lớn thời gian, người công dân thế kỷ XX sống trong nỗi sợ. Nó trở thành căn hộ thường trú của chúng ta, trở thành nền tảng của những quyết định và hoạch định của chúng ta. Cuộc sống có quá nhiều nỗi sợ; người ta hầu như lúc nào cũng có một cái gì đó làm cho sợ; chúng ta gần như không tìm thấy được một người không sợ. . . .”  (Xc. Tr.11-12)

Nỗi sợ khắp nơi làm cho người ta không còn là mình, không còn có khả năng tìm lại chính nét độc đáo thân thương của mình. Người ta giống như một kẻ đi học, nhưng học là để đối phó với thời cuộc chứ không phải vì niềm vui của bản thân; phải học đề làm bài, phải học để thi cử, phải học để thăng chức… mà không còn thấy niềm vui được học biết những điều mình thích thú. Nỗi sợ làm cho người ta phát triển "bản lãnh đối phó" chứ không làm phát triển được "bản lãnh sáng tạo". Sáng tạo bản thân, đó là tiêu chuẩn cho sự phát triển lành mạnh của con người… nhưng sự phát triển bản thân chỉ có được khi người ta có đủ thời gian “ở nhà”.

Chính vì thế, trong sâu xa của tâm hồn, con người hiện nay cần đến một “hậu phương”, cần đến một chỗ “ở nhà”, cần một mái ấm cho tâm hồn được nghỉ ngơi thực sự. "Ở nhà", người ta khám phá ra mình trong tương quan hiệp thông, người ta khám phá ra nét đẹp của bản thân mình, người ta vui thích với chính mình, và nhận ra mình có thể cống hiến cho người khác phẩm chất của riêng mình. Biết chính mình, biết hoàn cảnh và con người của mình, biết khát vọng và ý nghĩa thực sự của bản thân mình, người ta không cảm thấy tha nhân như một người đe dọa, nhưng như một người nâng đỡ; và khi đó, sự hiệp thông mới có thể bắt đầu.

       3. Chúa Giêsu mời ta bước vào đời sống thân mật

Trong Tân Ước, Thiên Chúa bầy tỏ khuôn mặt của Ngài bằng ngôn ngữ của tình yêu. Chúa Giêsu không tỏ mình ra một cách oai nghiêm như Gioan Tẩy Giả, nhưng trong một cung cách bình dân, xuề xoà, gần gũi và có thể đến được với những người nghèo khổ tầm thường nhất. Chúa Giêsu nói với các môn đệ, và cũng là nói với mỗi người Kitô hữu :

“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”.(Ga 15,15).

   Có lẽ, trong quá khứ, nhiều hình ảnh, nhiều quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa được suy diễn từ hình ảnh một triều đình, khiến cho nhiều phẩm tính đặc biệt của Thiên Chúa được mạc khải trong đức Giêsu, đã không thể hiện được. Trong Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa muốn mời gọi con người vào sống trong sự thân mật với Ngài. Chúng ta có thể thấy rõ tâm tình ấy trong nhiều đoạn văn của thánh Gioan, chẳng hạn :

Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi." (Ga 14,1-4)

Chúa Giêsu nói đến chỗ ở trong nhà Cha. Đó chẳng phải là một không gian nhưng là phẩm chất của một đời sống; là sự an vui, thân mật, ngọt ngào của đời sống thân tình. Chúa Giêsu nói: "Anh em đừng xao xuyến !  Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy", để cho thấy một ngôi nhà thân thương đang chờ đón. Nhà của Cha có nhiều chỗ ở, vì nhà Cha có thể đón nhận những tính khí khác nhau, cho những mảnh đời khác nhau.

Như thế, chúng ta hiểu được niềm bình an đặc biệt của Kitô giáo, niềm bình an không đặt nền trên một sự an toàn của sự vật, của sự cân bằng những thế lực chính trị… nhưng là sự bình an của tình nghĩa. Bình an Kitô giáo gắn liền với tình yêu, giải đáp nỗi xao xuyến sâu xa trong lòng con người, giải đáp niềm khát vọng sống-với của con người. Bình an Kitô giáo, có thể nói vắn gọn, là được Thiên Chúa ở cùng, là cùng đi với Chúa trên nẻo đường sóng gió; nghĩa là vẫn ở với Chúa ngay cả lúc ta đang đi trên nẻo đường gian nan của cuộc đời; bình an Kitô giáo là “ngôi nhà tình nghĩa”, nơi ta được ở với Chúa.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.(Ga 14,27).

1. Tình yêu, con đường khẳng định bản thân


1. Nhu cầu khẳng định bản thân

Đối với con vật, Thiên Chúa đã "lập trình" để chúng có thể tự phát triển và trở nên đúng như giống loài của chúng một cách khá chắc chắn. Một con mèo con, được nuôi trong một thùng giấy, hằng ngày người ta cho nó ít sữa hoặc cơm cháo, nó sẽ vẫn trở thành một con mèo thực sự, dù không sống với một con mèo nào khác. Đối với con người thì vấn đề lại khác. Con người được sinh ra là-người, nhưng còn cần phải trở-nên-người. Con người sẽ chẳng trở nên người được nếu như chỉ sống với loài chó hay loài khỉ. Con người cũng không dễ dàng trở nên một con người đích thực ngay trong cuộc sống xã hội hằng ngày của con người với nhau. Từ chỗ được sinh ra là-người cho đến mức độ trở-nên-người là cả một khoảng cách diệu vợi.

Như thế, bản chất của con người luôn là "con người lữ hành" (homo viator). Sức sống của cuộc đời con người luôn là một khát vọng đi tìm con người thật của mình; và hành trình đi tìm ấy thể hiện như một sức hút muốn vươn lên mãi để hoàn thành được chính vận mạng của bản thân mình. Chính vì thế, trong tâm thức của mỗi con người, ai cũng mang một nhu cầu căn bản, nhu cầu khẳng định bản thân. Trong khi những nhu cầu khác, ăn uống, vui chơi, hưởng thụ... chỉ đòi hỏi trong một số hoàn cảnh nào đó, thì nhu cầu khẳng định bản thân lại là một thúc bách căn bản, nó thôi thúc con người trên mọi bước hành trình của một đời người. Mọi người, ở mọi lứa tuổi, trong mọi hoàn cảnh, đều khao khát thực hiện bản thân mình qua việc khẳng định chính mình. Người ta khẳng định chính mình bằng một lựa chọn riêng, bằng một sở thích riêng, bằng khao khát thành công, bằng cách so sánh mình với người khác, bằng một giá trị nhân văn nào đó,...

2. Sự lệch lạc trên hành trình khẳng định chính mình

Với khát vọng khẳng định chính mình, người ta thường chỉ thấy một nẻo đường có vẻ rõ ràng nhất, an toàn nhất, đó là làm sao để mình hơn người khác. Khát vọng khẳng định bản thân được tính toán bằng phương thức so sánh mình với người khác, được đồng hóa với nỗ lực vươn lên để "bằng chị bằng em"; được thể hiện trong cuộc đấu tranh để chiến thắng người khác... Hình ảnh con người giữa cuộc đời giống như một kẻ đứng dưới nước sâu, chân không đụng đất, tay chân quờ đạp, để đầu mình được vươn lên khỏi mặt nước cho bằng chị bằng em.

Khốn khổ thay, con người vốn mang lấy những giới hạn căn bản của kiếp người, nên mãi luôn là kẻ ”nhân vô thập toàn". Con người "nhân vô thập toàn" ấy, dù có nỗ lực chòi đạp đến đâu thì cũng chỉ trồi sụt mấp mé với mặt nước. Mặt khác, con người ấy lại luôn sợ người khác bám vào tay chân mình, làm mình có thể bị chìm; nên không bao giờ dám "vạch áo cho người xem lưng"; con người ấy luôn muốn đạp văng ra những kẻ có nguy cơ làm lộ tẩy con người bất toàn của mình; con người ấy luôn sợ điều gì, hoặc ai đó có nguy cơ lôi mình xuống đáy... Con người ấy luôn luôn sống theo kiểu "cái tốt thì khoe ra, cái xấu thì dấu đi", và cứ luôn phải bận tâm giữ mãi chiếc mặt nạ che đi con người thật của mình...

Như thế, con đường để đáp ứng được nhu cầu khẳng định chính mình lại trở thành một con đường bi thương cho vận mạng đời người, con đường của sự hơn thua, của thái độ đấu đá, của sự cạnh tranh, của tính phòng vệ,... và của sự bất an không cùng trong chính tâm hồn. Đến một lúc nào đó, không chịu nổi áp lực của một cuộc sống cạnh tranh hơn thua, nẻo đường lệch lạc đó dằn vặt người ta đến độ không muốn sống kiếp người nữa : "Tôi muốn làm một thứ cỏ cây …. Tôi muốn thành loài thú đi hoang …Tôi muốn sống như loài chim ngàn "…( nhạc sĩ Lê Hựu Hà, liên khúc Yêu Người Yêu Đời)

Con người được Thiên Chúa sáng tạo nên giống hình ảnh Ngài để sống yêu thương, nhưng con đường thể hiện chính bản thân mình trên nẻo đường yêu thương lại bị sai lệch biến thành nẻo đường đấu đá, đó là thực trạng của một sự mất căn tính, một sự đổ vỡ tận căn nguyên, là nguyên nhân chính của  mọi bất ổn trong đời sống con người.

3. Tình yêu, nhu cầu được chấp nhận

Thật ra, nhu cầu khẳng định chính mình chỉ là một cách thức để đi vào thế giới yêu thương một cách phong phú. Khẳng định chính mình chỉ là một cách để được người khác chấp nhận, để bước vào thế giới yêu thương. Con người không thể tự bằng lòng với mục tiêu khẳng định chính mình. Điều ấy có thể được minh chứng một cách thực tế trong kinh nghiệm sống hằng ngày của con người. Có những khi người ta đạt được những thành công trong cuộc đời, nhưng lại không được yêu thương, không được người khác chấp nhận. Khi đó, người ta có thể vùng vằng, có thể khí-khái-vặt khi tuyên bố "cóc cần đến ai khác"...; nhưng thật ra người ta không thể chối bỏ được một nỗi đau vì không được chấp nhận, không thể loại bỏ được nỗi cô đơn sâu xa dằn vặt tâm hồn.

Sách Sáng Thế cho chúng ta một giải thích căn bản về vận mạng con người : sau khi dặt tên cho muôn vật, con người cảm thấy buồn vì không gặp được người trợ tá tương xứng. Sự thành công của con người đầu tiên trong việc chinh phục và chiếm hữu thế giới không phải là cứu cánh của cuộc đời con người. Adong cần một người trợ tá tương xứng, nghĩa là cần được sống với ai. Đó là vận mạng căn bản của đời người.

Quả thật, người ta cần được ai khác chấp nhận, được chấp nhận ngay chính bản thân, và đó cũng là được chấp nhận trọn vẹn cuộc đời. Nhưng thay vì cố vươn lên một cách bất lực và giả tạo, thay vì nỗ lực vun đắp cho mình những điều bên-ngoài-bản-thân, nghĩa là tài năng, tiền bạc, đức độ... thì điều quan trọng trước tiên lại là trở về với chính bản thân mình. Tài năng thì cần thiết, những dù đánh mất tài năng, thì bản thân một con người vẫn là con người đấy. Nếu người ta cần phải có tài, có đức hay có tiền để được chấp nhận, thì đó vẫn chưa phải là được chấp nhận chính bản thân, và điều đó không thể làm cho người đó được bình an thực sự.

Để có thể thoát khỏi tình trạng chơi vơi dưới nước sâu, con người cần phải can đảm cho chân mình chạm xuống đất. Nhưng để có thể can đảm cho chân mình chạm xuống đất, điều quan trọng hàng đầu của vận mạng con người, đó là con người cần được một ai khác khác chấp nhận bản thân mình "từ bên dưới", con người cần được chấp nhận trọn vẹn bản thân và trọn vẹn cuộc đời. Không ai khác có thể chấp nhận trọn vẹn bản thân ta như thế, ngoài Thiên Chúa, ngoài tình yêu thương cụ thể và lớn lao của Chúa Giêsu :

"Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi ; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta." (Rm 5,8)

2. Tình yêu làm nên nét duyên của mỗi cá nhân


1. Con người có thể sửa đổi tính tình ?

            Con người cần phải trở nên chính mình bằng một nỗ lực khẳng định bản thân. Trong nhu cầu căn bản đó, có một khía cạnh không thể bỏ qua, đó là việc sửa đổi bản thân, loại bỏ những nết xấu và học tập nhân đức. Bản chất của con người là "nhân vô thập toàn", hoặc là "sinh vật có bệnh", bệnh thể xác và bệnh tinh thần; thế nên nỗ lực khẳng định mình cũng thúc bách người ta tìm cách sửa đổi bản thân.

Tuy nhiên, đây không phải là chuyện đơn giản. Về khía cạnh tính tình chẳng hạn, để diễn tả nhiều tình huống không thể hiểu được về tính tình của một con người, cha ông ta đã nói "cha mẹ sinh con, trời sinh tính". Con người sinh ra đã mang sẵn những mầm mống của một tính tình riêng biệt. Rồi những năm tháng tuổi thơ để lại những ấn dấu định hướng cho cuộc đời một con người; rồi bao nhiêu năm sống trong cuộc đời, với những bài học hay dở của xã hội; rồi với những tác động tâm lý cụ thể nào đó... tất cả những điều đó đã đẽo gọt xong cái hình hài, nhân cách của một con người rồi.

Khi một người nào đó bắt đầu nhận ra những điểm có vẻ bất lợi trong tính tình của mình và mong muốn sửa đổi, thì bình thường tâm tính của con người đó cũng đã "chín", nghĩa là giống như một người trưởng thành không thể phát triển được nữa, thì những tính tình của con người ấy cũng đã định hình gần xong. Nỗ lực tu sửa theo quan niệm thông thường chẳng những khó đạt kết quả, nhưng còn tạo nên nhiều lệch lạc trong tâm hồn. Người ta nhận thấy những yếu tố của tính tình đã trở nên như một bản tính thứ hai của con người, gần như không thể sửa đổi được nữa.

Đã có những vị thánh dành cả cuộc đời để sửa đổi một tính tình nào đó, chẳng hạn tính nóng nẩy. Đó là những nỗ lực thật đáng trân trọng, nhưng có lẽ cũng có phần "hoang phí" nỗ lực đời người. Thật ra, nỗ lực ấy thực sự đáng quí trọng do chính tấm lòng thành và niềm khát khao hoàn thiện nhiều hơn là do kết quả đạt được. Cũng đã có nhiều tu sinh muốn sửa đổi tính tình này tính tình khác để có thể được chấp nhận theo đuổi ơn gọi tu trì, những nỗ lực ấy, trong thực tế, có lẽ cũng chẳng thành công bao nhiêu...

2. Sửa đổi bằng tình yêu

Thật ra, vẫn còn một cách "sửa đổi", không phải bằng cắt xén, uốn nắn một cách khiên cưỡng, mà là biến đổi tận căn, đó là gia tăng tình yêu trong lòng con người. Nếu như tính tình của con người đã định hình với thời gian, thì tình yêu lại là điều không bao giờ "già cỗi". Tình yêu không có giới hạn, tình yêu chân chính không bao giờ dư thừa cho đời sống con người, tình yêu là động lực mở ra với vô biên và chính tình yêu cũng là một khát vọng vô biên. Một khi con người đã trưởng thành, hay nói cách khác, đã "già cỗi" trong quá trình thăng tiến, thì người ta chỉ còn một nẻo đường duy nhất để tiếp tục trở nên phong phú hơn mãi, đó là đổ thêm vào dòng nhựa sống của tình yêu. Một khi có tình yêu, tất cả những yếu tố khác của tính tình con người sẽ được cấu trúc lại xung quanh tình yêu, và khi đó, người ta sẽ có được một nét duyên riêng. Con người nóng tính cũng vẫn sẽ nóng tính; nhưng với tình yêu lớn, sự nóng tính của người ấy lại có nét duyên của một con người : nóng nẩy vậy, la mắng vậy, có khi đấm đá vậy, nhưng vẫn là một con người đáng quý, đáng yêu nhờ chính tình yêu trong lòng người ấy.

Cuộc đời của mỗi người giống như một nồi cháo, mỗi người là một loại đậu riêng, "đậu xanh", "đậu đỏ" hay "đậu trắng" đều tốt cả. Nếu ta cho vào đó một chút "lòng", thì nồi cháo ấy sẽ ngọt, sẽ ngon, và vẫn mang được hương vị riêng của mỗi cá tính. Hoặc nói cách khác, đời sống mỗi người như một tấm vải, nếu tấm vải đời tôi chỉ thích hợp để may một cái quần đùi, thì tôi cứ an vui là một cái quần đùi, một chiếc quần đùi đẹp trong nét đẹp của "tình nghĩa". Bằng không, nếu ta so sánh với người khác, nếu ta thích biến đời mình là áo sơ-mi hoặc áo dạ hội, rồi ta lại tháo chiếc quần đùi ra để đổi thành áo, thành váy đầm,... thì cuối cùng đời ta sẽ chỉ là chiếc gỉe rách. Thật ra, tính tình nào cũng có thể tốt và có thể xấu. Tính tình chỉ trở thành xấu khi nó phát sinh trở thành tật xấu; nghĩa là khi nhuốm mầu của ích kỷ. Ngược lại, tình tình có thể trở nên tốt trong nguồn mạch của yêu thương.

Đây không phải là một chủ trương lãng mạn, vì tình yêu chân chính không phải chỉ là một thứ tình cảm bay bổng bên trên, bên ngoài vận hành thực của cuộc sống. Tình yêu Kitô giáo là một sự dấn thân vào dòng đời, liên đới trách nhiệm cuộc đời với ai khác và nhằm làm cho cuộc sống được phát triển phong phú. Chỉ có tình yêu như là nguồn sống đích thực của con người mới có thể làm cho sự sống của con người được phát triển cách chân thật, phong phú. Quên đi nguồn sống ấy, con người sẽ tìm sửa đổi đời mình bằng những kỹ thuật sống theo kiểu cắt tỉa, lắp ghép cách gượng ép. Không trở về với mạch sống yêu thương, nỗ lực sửa đổi của con người giống như kẻ "lấy vải mới vá vào áo cũ", giống như kẻ "đổ rượu mới vào bầu da cũ". Chỉ có tình yêu mới thắng được tất xấu, chứ không phải một khuôn mẫu của tính tình nào đó.

3. Thiên Chúa cứu độ là nguồn mạch tình yêu

Trong mười hai vị tông đồ, chúng ta có thể thấy mỗi vị có một cá tính riêng, ông Pherô thì bốc đồng, không Anrê thì tinh tế, ông Nathanaen thì ngay thật, ông Matthêu thì có đầu óc trật tự... Mỗi vị đã không hề được Chúa Giêsu uốn nắn theo một khuôn mẫu nào cả. Các vị chỉ được chính tình yêu của Chúa biến đổi, tình yêu lớn của Đấng phục vụ, tình yêu hy sinh mạng sống vị bạn hữu :

Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. (Ga 13,14)

Đối với các vị thánh trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng thấy như thế, một Ignatio cương quyết, một Phanxicô mê đắm Chúa Kitô nghèo, một Đa Minh trong sáng thuần khiết.... Nhưng tất cả các vị thánh đều có một nét chung là tình yêu đối Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta cũng thấy mỗi dòng tu mang một đoàn sủng riêng, đoàn sủng diễn tả đường nét hứng khởi nguyên thủy của Đấng sáng lập, nhưng tất cả vẫn chỉ là một sức sống của Chúa Thánh Thần.

Mỗi người Kitô hữu cũng được kêu gọi để trở nên chính mình trong Đức Giêsu Kitô. Trở nên chính mình nghĩa là sống trọn cá tính của mình; và hành trình sống trọn cá tính của mình được nối kết với tình yêu của Chúa Giêsu Kitô.

"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.(1 Cr 12,12-13)

3. Tình yêu, con đường đến với cộng đồng


1. Thách đố cơ bản của đời người

Con người là sinh vật xã hội, nghĩa là tự bản chất con người cần phải sống với ai khác; và chính trong cuộc sống xã hội, con người mới trở nên chính mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, con người luôn bị đánh giá, tự mình đánh giá chính mình hoặc do người khác đánh giá bản thân mình; và sự đánh giá như thế thường là một bài toán cộng trừ theo một thang điểm chung, theo một khuôn mẫu chung nào đó. Chúng ta gặp thấy ở đây là một nghịch lý, một thách đố căn bản của kiếp sống con người :

+ Một đàng, con người vừa là một ngôi vị độc đáo, chứ không phải chỉ là một cá thể. Cá thể chỉ là một vật-mẫu trong một giống loài, con mèo chỉ là vật-mẫu của loài mèo và người ta có thể hy sinh một con mèo để nhân giống thành năm bẩy con mèo khác. Trong khi đó, con người là một ngôi vị độc đáo, có cứu cánh tại thân; và trong ý nghĩa đó, có một giá trị tuyệt đối nào đó. Con người vừa khao khát được là mình với tất cả nét độc đáo riêng biệt của bản thân mình. Không ai muốn mình là một bản sao của người khác, trừ ra những người chưa trưởng thành; vì con người luôn khao khát hoàn thành cái tôi độc đáo của mình.

+ Đàng khác, con người lại chỉ có thể trở thành chính mình trong quan với ai khác, khi được sống, được học hỏi văn hóa, được đón nhận ngôn ngữ và những giá trị của cuộc sống xã hội. Cuộc sống hiệp thông với người khác cũng là một nhu sâu xa trong tâm khảm mỗi người.

Con người muốn khẳng định chính mình, và thường đi vào nẻo lầm lạc của sự so sánh. Nhưng so sánh bao giờ cũng hàm chứa những khuôn mẫu chung, thế là nẻo đường khẳng định chính mình lại dễ dàng đưa con người đến chỗ đánh mất bản sắc độc đáo của riêng mình. Triết gia Jaspers gọi thách đố này là "cuộc đấu tranh yêu thương". Yêu thương cũng phải đấu tranh, đấu tranh để vừa đến với người khác trong sự hòa hợp, những lại không biến mình thành bảo sao của người khác. Đây cũng là một loại thách đố riêng biệt của kiếp người.

2. Tình yêu hiệp nhất trong đa dạng

Con người không phải là mảnh tinh thần rớt ra từ Thiên Chúa, theo đó, con người sống cuộc đời trần gian như một kẻ lạc đường; thực hiện cuộc đời mình như một đam mê vô vọng; cho đến khi giác ngộ được nẻo đường chân thật. Lý tưởng của nẻo đường này là trở về và hoà tan bản thân mình vào Thượng Đế.

Trong khi đó, con người trong tín lý Công Giáo được "gọi ra" từ hư vô, sống cuộc đời này như một "lời đáp" lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người được sáng tạo nên do tình yêu Thiên Chúa mời gọi; để sống trọn hành trình cuộc đời như một lời đáp của tình yêu. Lời gọi hiện hữu cũng nhất thiết gắn liền với lời đáp thể hiện mình trong dòng lịch sử, trong đó lời gọi và lời đáp cũng đều là tình yêu.

Hành trình tiến đến với Thiên Chúa cũng chính là lịch sử cuộc đời mình. Hành trình lịch sử cấu tạo nên bản sắc một con người, với tất cả nét độc đáo riêng biệt của một con người. Mỗi một con người, dấn mình trong lịch sử, hình thành nên bản thân mình, sẽ mãi mãi là thằng tôi ấy, “đời đời kiếp kiếp” là thằng tôi độc đáo ấy. Con người được Thiên Chúa thương yêu và sáng tạo nên chính "thằng tôi" ấy; và con người yêu mến Thiên Chúa cũng bằng chính "thằng tôi" độc đáo của mình. Trên nền tảng tín lý ấy, ta hiểu được nét riêng biệt của tình yêu Kitô giáo. Thiên Chúa yêu thương con người như là con người, Ngài yêu thương mỗi người như là chính bản thân của người ấy. Đó là một thứ tình yêu hiệp nhất trong đa dạng, hiệp thông mà không tiêu diệt cá tính của nhau. Tình yêu Kitô giáo có đường nét tựa như "mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai"; hoặc nói cách khác, đó là thứ tình yêu thể hiện phẩm chất “hoà nhi bất đồng”.



3. Đạt tới lý tưởng yêu thương trong mầu nhiệm Ba Ngôi

Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất của Kitô giáo. Trong Kitô giáo, mầu nhiệm không phải là một sự thách đố đối với lý trí. Mầu nhiệm không phải là một cánh cửa đóng kín, khiến con người phải bế tắc, chào thua, bỏ đi niềm khao khát hiểu biết của mình. Ngược lại, mầu nhiệm chính là cánh cửa mở toang ra với một chân trời bao la mà con người không bao giờ có thể khám phá trọn vẹn được. Mầu nhiệm là lời mời gọi dấn thân mãi mãi chứ không phải là một bảng cấm không được vượt qua.

"Thiên Chúa là tình yêu" (x. 1Ga 4,8) và mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng không là gì khác hơn mầu nhiệm của tình yêu. Trong chân trời vô biên của mầu nhiệm ấy, chúng ta khám phá ra được một phẩm chất căn bản của tình yêu. Tình yêu của một Thiên Chúa Duy Nhất được thể hiện trong Ba Ngôi; tình yêu của Ba Ngôi đưa đến sự hiệp nhất trong một Thiên Chúa duy nhất. Chẳng bao giờ phẩm chất "bản tính duy nhất" lại biến Thiên Chúa thành một ngôi; và cũng chẳng bao giờ phẩm chất "ngôi vị" của Ba Ngôi lại đưa đến tình trạng phân ly nên ba Chúa.

Như thế, mầu nhiệm Thiên Chúa "Tam Vị Nhất Thể" có lẽ cũng không là gì khác hơn mầu nhiệm của tình yêu chân chính nhất. Mầu nhiệm cao cả nhất trong Kitô giáo ấy cũng chính là sức sống phong phú nhất của Kitô giáo, sức sống của tình yêu lan tràn đến mọi thực tại của vũ trụ, lan tràn đến bản chất của con người và dẫn đưa lịch sử của đời người. Sách Sáng Thế cho chúng ta biết con người được sáng tạo nên giống Thiên Chúa, nghĩa là để sống với Chúa; Kitô giáo lại cho chúng ta hiểu ra tính chất phong phú hơn của chân lý ấy, con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi, thể hiện chính bản thân mình trong ánh sáng của mầu nhiệm Ba Ngôi, và cũng để xây dựng cuộc sống của cộng đồng nhân loại theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm cao cả ấy cho chúng ta biết rằng : chỉ có thể có sự "hiệp nhất đa dạng" trong tình yêu; và chỉ có tình yêu chân chính mới mở đường đi đến sự "hiệp nhất đa dạng".

Như thế, thách đố căn bản của vận mạng con người được Thiên Chúa "trả lời" trong mặc khải cao cả nhất của Kitô giáo, mầu nhiệm Ba Ngôi Trong Một Thiên Chúa Duy Nhất. Cuộc "đấu tranh yêu thương" được hướng dẫn và được nuôi dưỡng trong sức sống của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Mặc khải của Thiên Chúa tỏ bày cho chúng ta chính bản thân của Ngài, là Thiên Chúa Duy Nhất Ba ngôi, là "Chân Lý có sức mang lại ơn cứu độ cho con người" (x. Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải, s.11), mặc khải ấy mời gọi chúng ta sống tình yêu, sống tình yêu bằng sức sống yêu thương của Ngài, và sống sức sống yêu thương của Ngài trong một sự niềm vui được là mình, đồng thời được hiệp thông với Chúa và với anh chẹ em của mình.

4.  Tình yêu, "làm hoa" và "làm hạt"


1. Đi tìm đỉnh cao đời người

Cuộc đời con người bắt đầu từ một hài nhi bé bỏng, yếu ớt, bất lực, phải lệ thuộc tất cả vào người khác. Thế rồi đứa bé ăn uống, học tập và tích lũy bao nhiêu năng lực khác mỗi ngày mỗi nhiều hơn, trong niềm mong mỏi thời gian qua mau từng ngày, từng năm để được thêm tuổi, thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, có khả năng thể hiện chính mình và được tự do quyết định hành vi của mình. Nhưng rồi chẳng mấy chốc, người thanh niên đẹp đẽ, sung sức và đầy tài năng ấy vượt qua đỉnh cao cuộc đời để đi vào quá trình xuống dốc. Sức khỏe và tài năng cứ vơi đi dần theo năm tháng; rồi anh ta lại phải từng ngày chống chọi với nhịp điệu mau lẹ của thời gian, mong ước thời gian đi chậm lại, mong ước tuổi già lâu đến . . .

Quả thật nhìn vào biểu đồ ấy ta thấy cuộc đời con người khá bi đát. Cuộc đời vẫn cứ trôi và cái đỉnh cao cuộc đời ấy nhiều khi chỉ là một bức màn mỏng, thật mỏng, thật phù du; đụng vào nó rồi, người ta sẽ thấy lộ ra ngay sau đó một con đường xuống dốc. Quả thật, nếu người ta sống để đi tìm đỉnh cao đời người như thế, thì cuộc sống con người quá kỳ cục. Cuộc đời như một trò lừa đảo. Cái đỉnh cao đời người giống như một tấm bánh vẽ. Đó là cái bi đát chung của phận người.

2. Cuộc đời làm hoa hay cuộc đời làm hạt ?

Một cách nào đó, chúng ta có thể nói được rằng cuộc đời đi tìm đỉnh cao như thế chính là “cuộc đời làm hoa”. Bông hoa bao giờ cũng tươi tắn, rực rỡ, đẹp đẽ. Bông hoa là thành quả tập trung của tất cả những cái tốt nhất của đời cây để chứng tỏ bản thân mình, để khoe sắc một lần. Thế nhưng bông hoa thì bao giờ cũng mau héo tàn. Nếu người ta vô tình chọn cách sống cuộc đời theo kiểu "cuộc đời làm hoa", người ta sẽ thấy rằng mình bị lừa, cú lừa làm mất đi chính cuộc đời; nếu người ta cố tình chọn cách sống ấy, nghĩa là hàm ý nghĩa lựa chọn thái độ : thà rực rỡ một lần rồi tàn héo; thà huy hoàng một phút còn hơn lầm lũi cả đời. . .

Nếu nhìn vào đời cây, ta thấy rằng cây không phải chỉ là kiếp hoa; và suy đến cùng, hoa chỉ là một giai đoạn cần phải trải qua để thành nên hạt. Đời cây cần có hoa để thu hút ong bướm, rồi vượt qua thời kỳ nở hoa để đi đến thời kỳ đậu hạt. Mục đích của hoa chính là hạt; ý nghĩa chân chính của hoa chỉ thể hiện được khi hoa biến thành hạt.

Cuộc đời làm hạt thì không rực đỡ, không khoe sắc tỏa hương, không tươi tắn mềm mại, không thu hút bướm ong. Những cuộc đời làm hạt vẫn có nét “huyền nhiệm”, cao quí, có nét đẹp riêng của nó. Cái đẹp của hạt không lồ lộ ra ngoài, nhưng ẩn dấu trong dáng vẻ xấu xí. Cái cao quí của hạt không phải là khoe mẽ bên ngoài nhưng là ươm mầm bên trong. Hạt cho đi chính bản thân mình, dâng tặng trọn vẹn và tuyệt đối, vì hạt bao giờ cũng phải thối đi để nẩy sinh những bông hạt khác.

Thế thì đỉnh cao đời người là cuộc đời làm hoa hay cuộc đời làm hạt ? Thế thì nét đẹp chân chính của đời người là rực rỡ để thu hút hay quảng đại, âm thầm để cho cho đi ?

3. Phép lạ của tình yêu

Thử nhìn vào đời sống gia đình, chúng ta có thể thấy thật nhiều phép lạ, những phép lạ xẩy ra thường xuyên nên nhiều khi người ta coi thường. Dù vậy, chăm chú một chút, ta cũng sẽ nhận ra ngay những biến đổi kỳ diệu mà ta có thể gọi được là những “phép lạ giữa đời thường”. Trong số nhiều “phép lạ” ấy, có một phép lạ lớn nhất : trở nên cha mẹ.

Là con người, ai cũng mong cho mình “được”, cái được của một lối nhìn lấy mình làm trung tâm: được có, được yêu, được chấp nhận, được sung sướng, . . . Đó là qui luật chung của thái độ con người. Thế nhưng, khi một thanh niên làm cha, làm mẹ, tất cả những cái được ấy đều dần dần thay đổi. Thay vì được chiều chuộng, cha mẹ bắt đầu biết chiều chuộng đứa con bé bỏng của mình; thay vì được yêu, cha mẹ bắt đầu biết yêu, yêu vô điều kiện đối với đứa con của mình; thay vì được thêm thu nhập, thay vì được sung sướng hơn, khi làm cha làm mẹ, người ta kinh nghiệm như đời mình bị đảo lộn tất cả : sẵn sàng hao tổn thu nhập vì con, sẵn sàng chịu vất vả khổ sở vì con. . . Cuối cùng, người cha người mẹ còn nghe thấy lời thúc bách như thể dám chấp nhận “chấm dứt tương lai” của mình để mở đường cho tương lai của con cái.

Nhìn vào cuộc đời ấy, chúng ta nhận ra nét đẹp vô cùng của cuộc đời làm cha mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà tình mẫu tử là tình cảm đẹp nhất trong tâm hồn con người; không phải ngẫu nhiên mà ca dao mẹ luôn là mảng ca dao phong phú nhất trong kho tàng văn chương nhân loại. Nhìn vào phép lạ ấy, chúng ta nhận ra nét đẹp của cuộc đời cho đi, nét đẹp của cuộc đời làm hạt.

4. Bản chất đời người là tình yêu ban tặng

Trong khi cái biểu đồ của hiện tượng bên ngoài bộc lộ tính bi đát và vô vọng của lịch sử đời người, thì một biểu đồ khác, căn cứ vào bản chất yêu thương của con người, căn cứ vào những nhu cầu rất thật và rất sống động của đời sống gia đình, lại cho thấy một sự “hợp lý” sâu xa bên trong : con người được đón nhận bao nhiều hồng ân để lớn lên; rồi con người lại có khả năng phát triển và sáng tạo cho gia sản ấy phong phú thêm; rồi cuối cùng con người sẽ lại mang tất cả vốn liếng và “phần lời” ấy để tiếp tục cho đi, cho đi đến tận bản thân mình. Thư mùa Chay 2003 của Đức Gioan Phaolô II nói: “Khuynh hướng trao ban đã nằm sâu trong tâm hồn con người” (số 1).

Như thế, từ quan điểm đời người là cho đi, chúng ta có thể khẳng định rằng “đỉnh cao” đời người không phải là tuổi trẻ, nhưng trong thực chất, chính là tuổi cho đi, là tuổi làm cha mẹ, hay là chính tuổi già. Quả thật nhìn theo quan điểm này, chúng ta mới thấy được nét đẹp của những nếp nhăn trên trán, nét đẹp của những sợi tóc bạc, nét đẹp của một cuộc đời cho đi trọn vẹn. Trong quan điểm này, chúng ta thấy cuộc đời con người không bi đát nhưng tràn đầy ý nghĩa, bởi vì khi đó, con người thể hiện được hướng hành trình như một quy luật mà Chúa Giêsu đã nêu lên trước khi đi vào cuộc tử nạn của Ngài :

“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” [Ga 12,23-35].

Quả thật, Tin Mừng của Chúa Giêsu không phải là một quy luật dị thường, nhưng là ánh sáng giúp con người thực hiện vận mạng đời người và giúp cho con người hoàn thành khát vọng sâu xa chân thật nhất của bản chất người.

5. Tình yêu, ba cấp độ tiêu biểu


1. Hiểu lầm về tình yêu

Bình thường, khi hai người xa lạ, "người dưng khác họ", bắt đầu cảm thấy quí mến nhau, thì đó là vì họ nhận ra được những điều hay, điều tốt của nhau. Chẳng ai quí mến người xa lạ vì những điều xấu, những tật xấu. Bước khởi đầu của tình yêu là như thế, khởi đầu của một tình yêu thương là vẻ quyến rũ, hấp dẫn của người mình yêu. Tình yêu thương trong giai đoạn này thật thơ mộng, giống như một chuyện cổ tích về tình yêu. Nhưng nói cho cùng, tình yêu như thế vẫn còn ở mức độ của một thứ trao đổi thuận mua vừa bán. Tôi yêu anh, vì anh tốt, vì anh giỏi, vì anh đẹp... và điều đó cũng được ngầm hiểu là nếu không không tốt, anh không giỏi và đẹp nữa thì tôi cũng chẳng thể yêu anh nữa.

Thật ra, ở mức độ tình yêu này, người ta thường bị rơi vào ảo tưởng, ảo tưởng thần tượng hóa. Người ta chỉ nhận ra một một vài điều hay điều tốt nơi người mình yêu, những lại muốn tô đẹp tất cả bản thân của người yêu, khiến cho "một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng". Ảo tưởng thần tượng hóa làm cho tình yêu trở nên bay bổng như mây, nhưng cũng bồng bềnh dễ tan biến như bọt bèo. Việc tô đẹp quá mức sự thật làm cho ta "mất hồn". Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật, và đến một lúc nào đó sự thật sẽ làm lộ ra chân tướng của người mình yêu.

Qui luật "thuận mua vừa bán", nghĩa là một sự đổi chác theo nguyên tắc anh phải đáng yêu thì tôi mới yêu, khiến cho người ta phải đẩy "cái giá" của người mình yêu trở nên quá mức, đến mức độ giả tạo.  Rồi một khi ảo tưởng bị rơi rụng, người ta thấy được bộ mặt thật của nhau rõ hơn, thì qui luật thuận mua vừa bán bị phá vỡ : anh không còn xứng đáng với tình yêu của tôi nữa, thì tôi cũng chẳng yêu anh nữa. Đó cũng là bi kịch của những thứ hiểu lầm về tình yêu, lấy giai đoạn khởi đầu của tình yêu làm nên tất cả chiều dài, chiều sâu của tình yêu; quá tin vào phần quảng cáo của tình yêu.

2. "Hiểu đúng" về tình yêu

Bình thường, sau một thời gian chia sẻ cuộc đời với nhau, những tâm hồn thành tâm sẽ được biến đổi để đạt đến mức độ thứ hai của tình yêu. Quá trình sống ấy sẽ dần dần xoá bỏ ảo tưởng thần tượng hóa để thay vào đó là một cảm nhận liên đới với nhau, xây dựng được một bề dầy nghĩa tình. Khi đó, người ta không còn chỉ thấy nơi người mình yêu toàn những điều hay điều tốt, nhưng nhận ra người mình yêu thương có đủ cả cái tốt và cái xấu, cả những đức tính và những tật xấu. Chính bề dày nghĩa tình sẽ giúp những tâm hồn thành tâm ấy đón nhận được người mình yêu thương, không phải theo quy luật "thuận mua vừa bán", nhưng theo tinh thần "đồng hội đồng thuyền". Ở mức độ thứ hai này, ta không còn đứng ngoài vận hành của tình yêu, trả giá, mua bán, trao đổi tình yêu như một món hàng, như một sự vật khác với chính bản thân của nhau. Mức độ thứ hai này giúp ta bắt đầu biết đưa bản thân mình vào cuộc, sống tình yêu trong sự liên lụy bản thân mình với bản thân của người mình yêu, kết dệt tình yêu trở thành một cuộc sống biết trợ đỡ nhau trong những bất toàn, biết "bọc lót" cho nhau trong những sai lỗi, biết đón nhận khuyết điểm của người mình yêu như thuộc trách nhiệm của mình và biết cống hiến bản thân mình cho sự sống của người mình yêu được phát triển phong phú hơn.

Những ai ở lì nơi vị thế đứng ngoài vận hành của tình yêu, người đó sẽ mãi sống thái độ trả giá theo kiểu "thuận mua vừa bán", và tất nhiên sẽ vấp ngã ở giai đoạn này. Họ yêu thương như là một thứ kinh doanh cuộc đời mà phần lợi của bản thân mình luôn là điều ưu tiên. Con người ấy suốt đời đi tìm những cuộc tình khác mà chẳng thể gắn bó lâu dài với ai được.

3. "Hiểu tốt" về tình yêu

Cuộc sống luôn có sẵn những bất ngờ mà không ai có thể tiên liệu được hết, bất ngờ về những chuyện bên ngoài và bất ngờ về chính bản thân của người mình yêu. Cuộc sống có thể có những hoàn cảnh mà người mình yêu, chẳng phải vừa có điều tốt vừa có điều xấu, nhưng trước mắt chỉ toàn là những điều xấu mà thôi. Khi người chồng/vợ trở thành một con nghiện, một tội phạm, một con nợ, một kẻ phản bội, hoặc là một bệnh nhân nằm yên ở đó... lúc đó tình yêu đứng trước một thách thức lớn. Tình yêu trao đổi qua lại trở thành tình yêu một chiều. Người ta nhận ra mình chỉ có cho mà không có nhận, chỉ có cống hiến mà không được đáp trả, chỉ có phục vụ mà không được phục vụ, chỉ có mất mát, thậm chí mất mát cả một cuộc đời mà không nhận lại được điều gì trong cuộc sống này...

Khi đó, tình yêu "đồng hội đồng thuyền" cũng sẽ chẳng đủ để người ta lao mình vào một cuộc hy sinh lớn như thế. Nếu ai chân nhận rằng : biên giới của tình yêu thương là tình yêu vô biên, sức mạnh của tình yêu là "mạnh như sự chết", hành trình của tình yêu là "yêu thương đến cùng", thì người ấy cũng xác tín rằng tình yêu chân thật thôi thúc con người vượt qua được cả thứ tình yêu "đồng hội đồng thuyền", để vươn tới mức độ tình yêu hoàn toàn tặng-không.

4. "Hiểu trọn vẹn" trong tình yêu của Thiên Chúa

Chúa Giêsu không dạy chúng ta một bài học hợp lý để sống an hòa trong cuộc đời của mình, nhưng là một lời mời gọi có tính tuyệt đối. Ngài mời gọi chúng ta yêu thương kẻ thù : "Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em". (Mt 5,44); Ngài mời gọi chúng ta yêu thương bằng tình yêu lớn hơn mọi tình yêu : "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13); Ngài thể hiện tình yêu thương "đến cùng" : "Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng." (Ga 13,1); Ngài thể hiện tình yêu tha thứ : "Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng : "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23,34)…

Những đường nét của tình yêu theo kiểu Đức Giêsu khai mở một chân trời bao la cho nẻo đường yêu thương. Con người, nơi mỗi chặng phải vượt qua trong hành trình yêu thương, sẽ khó lòng vượt lên được, nếu phía trước ấy là hư vô. Đức Giêsu đã đi vào hành trình yêu thương ấy, Ngài chỉ cho con người lý tưởng đích thực của tình yêu, và nhất là Ngài đồng hành với con người để chính sức mạnh tình yêu lớn lao của Ngài trở thành nguồn động lực cho con người đi trọn hành trình của tình yêu.

6. Tình yêu trao tặng bản thân


1. Trao đổi và trao tặng

Xã hội con người kỳ diệu hơn đời sống của con vật nhờ ở sự trao đổi. Trao đổi làm cho cuộc sống con người phong phú và phát triển. Việc mua bán đổi chác ấy được diễn ra trên nền tảng của một sự công bằng, và tính cách công bằng được thực hiện bằng cách “cân đong đo đếm” giá trị sản phẩm trao đổi của hai bên. Để làm được điều ấy, người ta phải thiết lập ra một “hệ đo lường” như một hệ quy đổi chung. Con gà và đồng tiền không có gì chung nhau, nhưng được quy đổi trong hệ thống giá trị kinh tế xã hội để có thể trao đổi cho nhau trong các phiên chợ. Giá trị của sự vật ấy được đánh giá theo một quy luật khách quan, nhằm tạo nên sự công bằng xã hội.

Trong khi đó, trao tặng lại là một vận hành đặc biệt diễn tả được tình tự yêu thương của cuộc sống con người. Có khi ta đi ăn tiệc tại nhà một người bạn và gặp một món ăn không được ngon lắm. Nhưng khi đó, chủ nhà giới thiệu với ta : đây là “cây nhà lá vườn”. Điều đơn giản ấy tức khắc làm cho món ăn không ngon lành đó trở thành quí; vì như thế là ta được tham dự vào đời sống, được chia sẻ hành trình sống của gia chủ. Cũng thế, một món quà mọn, được dâng tặng với cả tấm lòng thành, sẻ trở nên quí giá; và người nhận được món quà ấy, nếu có đủ tấm lòng như một con người chân chính, sẽ đón nhận được tính cách quí giá ấy trong niềm vui.

Khác với trao đổi, bản chất của trao tặng không phải là sự trao đổi hai sự vật, nhưng là trao tặng bản thân cho nhau. Trong sự trao đổi, bao giờ cũng phải có sự phân biệt giữa “chủ thể trao đổi” và “vật trao đổi”. Chủ thể trao đổi đứng bên ngoài vận hành trao đổi, họ chỉ dùng “vật trao đổi” như “vật thí thân” để tìm phần lợi khác cho mình. Ngược lại, trong trao tặng, chính chủ thể đưa vào vật trao đổi một phần nào đó của bản thân mình, sản phẩm là sự bộc lộ chính tình nghĩa của người trao tặng. Trong trao tặng, “vật trao tặng” và “chủ thể trao tặng” chẳng những không “lợi dụng”, không “thí bỏ” nhau, nhưng liên hệ với nhau trong cùng một dòng ý nghĩa.

Thật ra, trong mức độ sống của con người, giá trị của một sự vật không hoàn toàn lệ thuộc vào giá trị tự thân của chính sự vật ấy, hoặc do tiêu chuẩn đánh giá của xã hội thị trường, nhưng còn do ý nghĩa mà con người ban tặng cho nó. Đó là cách thức sống siêu việt của con người; nơi đó, người ta trao đổi tình nghĩa với nhau chứ không phải phân chia để hưởng thụ sản phẩm; nơi đó, chính tấm lòng của con người được gởi vào các sản phẩm là điều quan trọng hơn và đôi khi có thể làm cho các sản phẩm ấy trở nên tuyệt đối. Nguyên lý nền tảng của trao tặng không phải là sự công bằng, nhưng là tình nghĩa.

2. Trao tặng, đó là một sứ mạng của con người

Con người được Thiên Chúa sáng tạo nên để sống với Chúa và sống với nhau. Đó là vận mạng sống trong yêu thương và sống vì tình yêu thương. Sứ mạng xây dựng thế giới yêu thương lớn hơn và bao hàm sứ mạng làm chủ trái đất. Trình thuật sách Sáng Thế cho thấy Adong được Chúa đặt vào vườn Địa Đàng, ban đầu là để “đặt tên”, nghĩa là làm chủ muôn loài. Tuy nhiên, Sách Thánh lại cho ta thấy, sau khi làm chủ tất cả mọi sự trong vườn địa đàng, Adong cảm thấy buồn vì không gặp được người trợ tá tương xứng. Rồi chỉ khi gặp được Evà thì ông mới kêu lên được tiếng reo vui của phận người .(X.St 2, 18-24). Đó là một bước nhảy con người cần phải vượt qua trên hành trình làm người; vượt qua từ niềm vui chiếm hữu sự vật, từ niềm vui làm chủ của cải, để đi đến niềm vui gặp gỡ con người với nhau trong yêu thương. Chưa làm được cuộc vượt qua này, con người chưa phải là kẻ trưởng thành. Chưa làm được cuộc vượt qua này, con người vẫn còn lẩn quẩn trong việc đi tìm sự sung sướng và chưa biết nếm cảm hạnh phúc đích thực. Như thế, theo quan điểm Kitô giáo, con người lao động, con người hưởng thụ, con người thống trị,.. chưa phải là con người đích thực. Con người cần lao động, con người cần khai thác và hưởng dùng những sản phẩm của thiên nhiên, nhưng đó không phải là lẽ sống của con người mà chỉ là phương tiện để con người góp phần xây dựng tình yêu thương. Trong chính quá trình lao động ấy, con người được kêu gọi để cộng tác với nhau; và khi hoàn thành được sản phẩm, con người được kêu gọi để chia sẻ cho nhau những thành quả ấy. Như thế, sản phẩm có tính sự vật trong lao động chỉ có ý nghĩa khi được con người sử dụng trong tương quan yêu thương, nghĩa là sử dụng như món quà của tình nghĩa để trao tặng cho nhau.

Quả thật, mọi sản phẩm của con người, dù có được nắn nót đến đâu cũng không bao giờ có thể trở thành tuyệt đối, cho đến khi chúng trở thành một món quà để con người trao tặng cho nhau. Nếu không được trao tặng và lãnh nhận, những sản phẩm ấy, vẫn là những “vật liệu thô”, không đầy đủ ý nghĩa, không có giá trị tự thân. Ngược lại, một sản phẩm của con người, dù tầm thường đến đâu, khi  được trao tặng với tấm lòng, nó hoàn thành ý nghĩa của nó, tức là trở nên nhịp cầu để con người đến với nhau; và nó chỉ trở nên quí giá thật sự khi người ta gặp được tấm lòng của nhau trong sản phẩm ấy.

3. Trao tặng, đó là vận mạng của con người

Như thế, cách thức chính yếu để con người thống trị vũ trụ không phải chỉ là khai thác vũ trụ, nhưng tiếp theo đó, còn là đưa nó vào thế giới nhân văn của con người, làm cho nó trở thành là phương tiện cho con người sống tình yêu thương với nhau. Trao tặng chính là sống tình yêu trong cách thức sử dụng sự vật.

Đúng hơn, con người ta chỉ sử dụng sự vật như phương tiện để diễn tả bản thân, chứ không được giản lược bản thân con người vào trong sự vật. Qui luật sống của con người là biết sử dụng vật chất như nhịp cầu để nối kết bản thân của mỗi người với bản thân của người khác. Khi ta thành tâm dâng tặng một món quà, món quà đó kkông còn là nó nữa, nhưng đã biến nên một giá trị nhân văn, đó là dâng tặng một phần bản thân của mình cho người khác.

Thật ra, bản chất của trao tặng luôn ít nhiều hướng tới sự trao tặng bản thân của mình cho người khác. Khi việc dâng tặng đạt đến mức độ trao tặng bản thân cho nhau, tức là khi ấy tặng phẩm là chính bản thân của người trao tặng, thì bản thân mỗi người sẽ là món quà vô giá mà con người có thể trao tặng cho nhau :



“Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy  một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình (Lc 21, 1-4)”.



1. Tên gọi khác của Tình yêu : lòng nhân từ


1. Hai loại tình yêu

Ta có thể tạm chia ra hai loại tình yêu, tình yêu hàng dọc và tình yêu hàng ngang. Tình yêu hàng dọc là tình yêu của cha mẹ đối với con cái, ông bà đối với con cháu, thầy đối với trò...; tình yêu hàng ngang là tình yêu của vợ chồng với nhau, bè bạn, anh em...

Đặc tính của tình yêu hàng ngang là đòi hỏi người mình yêu phải có những phẩm tính tốt. Đó là một thứ tình yêu "nhìn lên", và chỉ có thế thấy được, chấp nhận được người mình yêu "ở trên cao". Hoặc nói cách khác, thứ tình yêu hàng ngang thường mang tính đổi chác, và người ta đòi người được yêu phải có được thứ gì tốt để đổi lấy tình yêu. Thứ tình yêu nhìn lên này không thể chảy đến được những chỗ thấp và chỉ cần một chút vật cản là dòng nước yêu thương sẽ bị ngăn chặn lại. Thật ra, ánh mắt nhìn lên của thứ tình yêu hàng ngang như thế không phải là một sự chân nhận phẩm giá cao quí của con người, nhưng chính là cố tìm những phẩm chất bên ngoài bản thân của người mình yêu thương. Khi ta được quí trọng vì ta có tài, thì điều đó ẩn chứa mối nguy là khi ta không còn tài năng nữa, bản thân ta sẽ không còn được chấp nhận.

Trong khi đó, tình yêu hàng dọc thì lại diễn tiến theo quy luật đi xuống, đó là "nước mắt chảy xuống". Tình yêu hàng dọc không phải là đổi chác những là ban tặng, nó có thể chảy đến những nơi thấp, và hơn nữa lại có khuynh hướng đọng lại ở nơi trũng nhất. Tình yêu hàng dọc được bày tỏ nơi ai đó cần tới tình yêu, khao khát tình yêu, chứ không phải nơi có điều hay điều tốt để đổi lấy tình yêu. Tình yêu hàng dọc có khả năng bao bọc được những mảnh đời rách nát, trong khi tình yêu hàng ngang lại chỉ nhắm đến những con người tốt lành.

2. Lòng thương hại hay tình yêu đón nhận bản thân ?

Người ta thường sợ bị người khác thương hại. Để không "bị thương hại", người ta muốn khẳng định bản thân mình như một con người có giá trị và muốn được chấp nhận như một người có tài, có đức, có nét đẹp hay một sự độc đáo nào đó. Thế nhưng khi người ta muốn tìm thấy giá trị cuộc đời mình trong một phẩm chất nào đó để đối lấy tình yêu, thì người ta rơi vào tình trạng coi tình yêu như một sự đổi chác. Nếu có một anh chàng nào đó vỗ ngực tự hào rằng: tao đẹp trai, học giỏi, con nhà giầu, tao muốn đứa con gái nào chẳng được... thì quả thật đó là một anh chàng chưa trưởng thành, một con người vẫn mang tâm trạng của tuổi vị thành niên, một người muốn lấy tài năng của mình để chinh phục người khác. Thế nhưng tình yêu không thể đổi chác được. Tình yêu chỉ được thể hiện trong tự do trao tặng và đón nhận với lòng tri ân.

Đây là một vị thế chao đảo trong khát vọng yêu thương của con người. Thật sự nhu cầu khẳng định bản thân mình là một như cầu chính đáng, và tình yêu chân chính khác với thứ tình yêu "bố thí". Tuy nhiên, điều chính yếu của lòng thương hại là tính cách không chấp nhận bản thân. Khi thương hại ai, người ta chỉ thương người ấy vì tình trạng khó khăn, vì hoàn cảnh éo le, vì vết thương tinh thần hay thể xác... chứ không phải đón nhận chính bản thân của người ấy. Đế khi mà hoàn cảnh, tình trạng đáng thương ấy không còn nữa, thì tình thương hại cũng chấm dứt. Trong  khi đó, tình yêu chân chính bắt nguồn từ tự do của con người, một sự tự do chân chính không phải để làm bất cứ điều gì mình muốn, những là tự do để trao tặng tình yêu, tức là trao tặng chính bản thân mình cho người khác. Ở đây, sự khẳng định chính mình không mang ý nghĩa đổi chác, nhưng là để đáp lại một tình yêu đã nhận được. Tình yêu đích thực không nằm trong vận hành của sự đổi chác, nhưng nằm trong vận hành của trao tặng trong tự do.

3. Tình yêu hàng dọc

Tình yêu hàng dọc không phải là lòng thương hại nhưng là một tình yêu chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn. Cha mẹ thương con cái, và thương đặc biệt những đứa con đang gặp khó khăn, đau khổ. Điều đó không có nghĩa là khi đứa con ấy hết đau khổ thì cha mẹ cũng không còn thương đứa con ấy nữa; nhưng ngược lại cha mẹ lại càng mừng hơn nữa vì con của mình đã thoát được khổ đau.

Tình yêu hàng dọc cũng không phải là một sự đổi chác như tình yêu hàng ngang thường mắc phải. Tình yêu hàng dọc là một sự tặng không, tuôn đổ xuống, mà nhiều khi không cần được đáp trả. Tình thương hàng dọc, như là cha mẹ với con cái, mới chính là thứ tình thương chấp nhận bản thân, dám liên lụy, đồng hành với người mình thương mến cả trong nỗi khổ lẫn những lúc thành công hay thăng tiến. Con khổ thì cha mẹ thương, nhưng con thành công thì cha mẹ mừng. Chính chính thứ tình thương hàng dọc như thế mới thực sự là lòng thương gắn liền với sự chấp nhận bản thân.

Mặt khác, chỉ tình yêu hàng dọc mới có thể thích hợp hoàn toàn với tình trạng của con người trong trần gian này. Con người là "nhân vô thập toàn", ai cũng có những khuyết điểm, những tật xấu, đôi khi bị sa vào hoàn cảnh bi đát đến độ không còn có gì để đổi chác như trong thứ tình yêu hàng ngang. Nếu người ta hiểu tình yêu chỉ là thán phục những điều hay điều tốt của nhau, thì sẽ có những lúc người ta không tìm thấy được điều gì hay tốt để đáng được yêu. Nếu người ta dừng lại ở thứ tình yêu chỉ nhằm đổi chác, tình yêu ấy cũng đi vào con đường bế tắc và đưa đến đổ vỡ. Có lẽ chính sự hiểu lầm này làm cho biết bao gia đình đã không vượt qua được những thử thách khó khăn của cuộc đời. Đức Gioan Phaolô II, trong thông điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót, nói rằng, ở trần gian này, tình yêu phải mặc lấy một tên gọi thứ hai là lòng nhân từ.

4. Phẩm chất của tình yêu Thiên Chúa : lòng nhân từ

Con người cần đến Thiên Chúa để được cứu độ, điều đó có ý nghĩa cụ thể là con người cần đến tình yêu của Thiên Chúa. Đứng trước tình yêu Thiên Chúa, con người không có gì để đổi lấy tình yêu của Ngài. Con người đón nhận tình yêu của Thiên Chúa như lòng nhân từ. Chính vì thế, tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn luôn là một thứ tình yêu hàng dọc, là tình thương đổ tràn xuống, và nhất là tình thương đối với những người bé mọn. Mạc khải cho chúng ta thấy lòng nhân từ là một phẩm chất căn bản của Gia-vê, và chúng ta thấy Đức Giêsu làm chứng vai trò Thiên Sai của Ngài bằng cách tỏ lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa : Người trả lời hai người ấy rằng : "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7,22)

2. Tình yêu, con đường tìm hạnh phúc


1. Lẫn lộn giữa hạnh phúc và sung sướng

Điều người ta thống nhất được với nhau, đó là mọi người đều khao khát hạnh phúc và đều cố gắng tìm cho mình một đời sống hạnh phúc. Nhưng “hạnh phúc là gì ?”, đó là điều người ta không dễ dàng đồng ý nhất với nhau. Thật không dễ định nghĩa được hạnh phúc. Tuy nhiên, có lẽ ta vẫn ta có thể xác định được điều chính yếu : hạnh phúc là mục đích chính yếu của đời sống con người thì có lẽ chẳng phải do một chút khôn khéo của kỹ thuật sống mà có được nhưng phải gắn liền với ý nghĩa căn bản của đời người… Có lẽ cái điều làm cho người ta điên đảo chính là sự “giông giống” giữa hạnh phúc và sung sướng. Giống đấy nhưng thực sự lại khác nhau lắm.

a. Sung sướng thì đo đếm được, hạnh phúc không đo đếm được

Ta có thể dễ dàng khẳng định người này sung sướng hơn người kia khi nhìn vào nếp sống bên ngoài của họ : người có nhà ở tiện nghi thì sướng hơn người vô gia cư, hoặc ở trong nhưng khu ổ chuột; người thường được ăn nhà hàng thì sướng hơn người phải chạy gạo từng bữa… Nhưng nhìn từ bên ngoài như thế, ta khó có thể biết được người này có hạnh phúc hay không, hạnh phúc nhiều hay ít, có hạnh phúc bằng người kia không… Sung sướng là điều ta đo đếm được; còn hạnh phúc lại là điều không thể đo đếm được. Sung sướng giống như một bông hoa để cho người khác có thể xem thấy; hạnh phúc giống như một hạt giống âm thầm. Bông hoa thì khoe sắc cho người khác thấy; còn hạnh phúc thì ôm lấy sự sống trong bản thân. Bông hoa thì được đánh giá đẹp hay không đẹp; hạt giống lại ấp ủ sức sống trong chính mình...

b. Sung sướng do so sánh, hạnh phúc do tìm được ý nghĩa của mình đời mình

Một khía cạnh khác để phân biệt hạnh phúc với sung sướng là : Sung sướng là do so sánh với người khác, hạnh phúc lại bắt nguồn từ việc khám phá ý nghĩa cuộc đời mình. Cái đo đếm được (sung sướng) thì cũng so sánh được; và chính bài toán so sánh làm cho cái được đo đếm ấy trở thành nhiều hay ít, tốt hay xấu… và điều đó làm nên thế giới của khổ sở và sung sướng. Người ta thường cảm thấy mình sung sướng hay khổ sở khi so sánh đời mình với những người chung quanh. Nhiều khi trong một hoàn cảnh duy nhất, lúc này người ta thấy mình sung sướng vì so sánh với những người khổ sở hơn mình; nhưng lúc khác lại thấy mình khổ sở khi so sánh với những người sung sướng hơn. Phẩm chất của cảm nhận sung sướng là do kết quả của một bài toán so sánh. Nhưng thái độ so sánh thường không giúp cho người ta biết mình một cách đúng đắn. Đứa học trò chỉ biết so sánh số điểm của mình với bạn bè xung quanh để vui hay buồn thì sẽ không biết thực sự mình dốt hay mình giỏi. Trong khi đó, mức độ hạnh phúc lại tùy thuộc vào “độ sâu” của ý nghĩa mà người ta khám phá ra được. Càng khám phá ra ý nghĩa sâu xa hơn của cuộc đời mình, những ý nghĩa gắn liền sâu xa hơn với vận mệnh đời người, thì người ta càng có cơ may tìm được hạnh phúc đích thực của mình.

c. Sung sướng đem lại cảm giác thoả mãn, hạnh phúc đem lại sự sung mãn

Nhìn từ một khía cạnh khác, ta thấy sung sướng làm thỏa mãn khát vọng hưởng thụ sự vật; trong khi đó hạnh phúc hình thành nên một ý nghĩa sung mãn cho bản thân. Lý do là vì chiều hướng của sung sướng và chiều hướng của hạnh phúc hoàn toàn khác nhau : sung sướng thì hướng tới sự “tiêu thụ” trực tiếp sản phẩm. Hạnh phúc thì lại giúp ta quay về với ý nghĩa chân chính của bản thân, rồi thôi thúc ta cống hiến bản thân mình cho người khác. Người làm cha/ mẹ sống niềm hạnh phúc được làm cha/ mẹ, và ý nghĩa ấy thôi thúc cha mẹ cống hiến hơn nữa cho con cái. Cảm nhận thỏa mãn trong sung sướng dễ đưa đến thái độ thích hưởng thụ và dễ gắn liền với ích kỷ. Hạnh phúc thì cung cấp ý nghĩa cho bản thân và gia tăng năng lực cho cuộc sống.

d. Sung sướng chỉ tốt khi nó được bao bọc trong hạnh phúc

Trong qui chế sống của con người, sự vật chỉ là phương tiện để giúp con người gặp nhau và hiệp thông với nhau. Sự vật là nhịp cầu để con người đến với nhau, sự vật là phương tiện con người dùng để chính bản thân con người đến được với ai khác trong ỵêu thương. Khi người ta đi tìm sự vật để tiêu thụ sự vật như một sản phẩm, người ta sung sướng; ngược lại,  khi người ta dùng sự vật để diễn tả lòng yêu thương của mình đến ai khác, người ta gặp gỡ người khác và khi đó người ta mới đạt tới được hạnh phúc. Chính vì không sắp xếp được thứ bậc giá trị giữa hạnh phúc và sung sướng, nhiều người tưởng rằng khi có thêm điều kiện để sung sướng, thì ta cũng đương nhiên có thêm hạnh phúc. Rồi khi đạt được một lối sống sung sướng hơn, người ta lại thường đánh mất hạnh phúc. Đúng ra sung sướng chỉ có thể làm gia tăng hạnh phúc khi con người biết hưởng dùng trong tình yêu và để diễn tả tình yêu. Chẳng hạn: người đi mua dâm thì chỉ tìm được sự sung sướng; nhưng chỉ trong tính yêu vợ chồng, chuyện chăn gối đồng thời mang lại cả khoái cảm sung sướng lẫn hạnh phúc. Bởi vì mua dâm là mua thân xác người khác như một sự vật; không phải là sự gặp gỡ người yêu bằng trọn vẹn bản thân của mình. Tuy vậy, cũng phải luôn nhớ rằng sung sướng là một cạm bẫy rất dễ làm tha hóa con người. Người nào quá chú trọng tìm sung sướng thường là người ít có khả năng nếm cảm hạnh phúc.

2. Hạnh phúc là do tình yêu

Lý do chính yếu xác đinh hạnh phúc chính là : hạnh phúc không nằm trong mối tương quan với sự vật nhưng gắn liền với tương quan ngôi vị, đó là gặp gỡ “cái tôi” của nhau, chấp nhận “cái tôi” của nhau, và dâng tặng “cái tôi” cho nhau. Điều đó khác hẳn thứ sung sướng do hưởng thụ sự vật, và cũng khác với kiểu chỉ biết đón nhận người khác như một tài năng, sắc đẹp, hoặc đức tính. Hạnh phúc gắn liền với việc khám phá ra ý nghĩa trọn vẹn nhất của bản thân, và ý nghĩa ấy chỉ được thể hiện khi người ta đáp ứng được nhu cầu lớn nhất của con người, nhu cầu sống với, hoặc trọn vẹn hơn, đó là nhu cầu yêu thương. Hạnh phúc, trước tiên, đi theo chiều hướng tìm lại ý nghĩa của bản thân mình, và ý nghĩa đó thúc đẩy con người tìm đến với ai khác để thực hiện khát vọng thâm sâu nhất của đời người, khát vọng yêu thương. Nói cho cùng, hạnh phúc chỉ có trong yêu thương, vì yêu thương là bản chất sâu xa nhất của con người. Hạnh phúc là cảm nhận được ý nghĩa của yêu thương và thôi thúc dâng tặng trong yêu thương. Hạnh phúc là hoa trái của yêu thương và chỉ trong yêu thương người ta mới tìm thấy hạnh phúc đich  thực. Công Đồng Vatican II gồm tóm ý nghĩa đó khi nói : “Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến thân” (MV 24). Hạnh phúc trần gian không là gì khác hơn những giây phút loé sáng của tình yêu chân chính.

3. Tình yêu hóa giải hận thù


1. Thế giới hận thù

Thế giới con người là một cuộc chiến, cuộc chiến giành giựt sự sống. Trước đây, khi thế giới còn tương đối êm ả, con người cũng đã phải chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại trong cuộc đời. Ngày nay, thế giới con người giống như một chiến trường đầy những cuộc cạnh tranh gay gắt. Cuộc cạnh tranh giành giựt sự sống trong thời đại hôm nay thường khi là một cuộc chiến khốc liệt, đến độ người ta phải mất ăn mất ngủ hoặc mang những thương tích đau đớn, thương tích tâm hồn hoặc thương tích thể xác; đôi khi đó là một cuộc chiến bi đát, nghĩa là muốn sống thì phải tiêu diệt người khác, một mất một còn. Nhu cầu cuộc sống đã tạo nên biết bao nhiêu tranh chấp, xung đột, và cả những hận thù khó có thể hóa giải được. Triết gia Hégel đã ví lịch sử con người như một cuộc đấu tranh biện chứng giữa chủ và nô, người này làm chủ thì người kia phải làm nô lệ, và khi người nô lệ chiếm được địa vị làm chủ thì người chủ lại phải chấp nhận thân phận nô lệ.

Nếu cuộc sống đã là một bãi chiến trường, thì trong cuộc chiến đó, nhiều khi, hay đúng hơn là thường khi, người ta phải sử dụng bạo lực. Người ta dùng những hành vi bạo lực, bạo lực thể chất hoặc bạo lực tinh thần, và coi như đó là phương cách thực sự cần thiết để giải quyết vấn đề. Thật ra, bạo lực chính là nguyên nhân tạo ra càng nhiều mầm mống xung đột hơn nữa.

Khi người ta gieo bất kỳ một hành vi nào đó vào cuộc đời, hành vi ấy trở thành vĩnh cửu. Ta đã đánh ai một lần, ta đã nói lời yêu thương ai một lần... thì những điều ấy đều đã trở thành lịch sử, một lịch sử không bao giờ có thể tan biến hoàn toàn. Dù người ta có mất trí nhớ, dù người ta quyết tâm bỏ qua những chuyện xưa cũ... thì việc làm và lời nói ấy vẫn còn đó, và hệ lụy của những lời nói hay hành vi ấy vẫn có phần của nó trong phẩm chất của dòng đời. Giống như gương vỡ không làm sao ghép lại được, giống như một bát nước đổ xuống đất không ai có thể hốt lại đầy một chén nước, thì thế giới nhân loại cũng đón nhận lịch sử, cả những điều tốt và những điều xấu, như một phần vận mạng khó có thể xóa nhòa. Rồi, những lời nói và hành vi ấy cũng sẽ lại tạo nên những hệ quả giây chuyền mà người ta không thể dùng một hành vi thuần túy luân lý để hóa giải.

2. Tình yêu hóa giải hận thù

Thế giới cạnh tranh và được giải quyết bằng bạo lực như thế giống như người ta dùng hai tảng đá để đập vào nhau, tảng đá nào cứng thì ít bị sứt mẻ, tảng đá nào mềm hơn thì te tua nhiều hơn. Thế nhưng, dù ta là tảng đá cứng, và dù ta có đập nát hòn đá nhỏ, ta vẫn không thể nghiền nát nó được. Cuộc sống sau khi đã được giải quyết bằng bạo động thì cũng đầy “sạn”. Bạo động không thể hóa giải được những sức mạnh chống đối nhau. Đó là điều mà người ta gọi là không thể lấy ác báo ác. Hoặc hơn nữa, trong tầm nhìn lớn của toàn lịch sử, người ta cũng chẳng thể chỉ lấy cái “trực”, sự chánh trực nghiêm minh, để giải quyết sự ác. Chánh trực nghiêm minh thì cũng giống như là một bức tường ngăn cản tảng đá của sự ác mà chẳng thể hóa giải được nó.

Chỉ có tình yêu mới hoá giải được sự ác, và chặn đứng dòng chảy miên man của bạo lực. Tình yêu ở đây có ý nghĩa như là khả năng “lãnh đủ” sức mạnh của sự ác vào trong bản thân mình, “tiêu hóa” sự ác mà không cần phải khơi lên một cuộc đối đầu nẩy lửa. Tình yêu đối với sự ác thì giống như một hồ nước, nó có thể lãnh nhận tảng đá của sự ác, của bạo lực vào trong bản thân mình và nhờ đó mà lại càng dâng cao hơn nữa mức độ của “bể nước yêu thương”. Thực sự người ta không thể hóa giải được sức mạnh của sự ác, nếu như không có đủ sự bao dung rộng mở của tấm lòng, nếu như không có đủ sự hiền lành, mềm mỏng của con tim; nếu như không có đủ thái độ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi...

Trong dòng lịch sử của nhân loại cũng như trong dòng lịch sử của một dân tộc; trong dòng lịch sử của một cộng đoàn, một gia đình hay trong dòng lịch sử của mỗi cá nhân con người, chỉ có sự bao dung của tình yêu có thể hóa giải được những xung lực của sự ác, của bạo lực, của hận thù...

3. Tình yêu của Chúa Giêsu

Bạo lực chưa bao giờ vắng bóng trong lịch sử nhân loại. Từ thời Cain cho đến cuộc sống hiện tại của chúng ta, thời nào cũng thế, và ở đâu cũng vậy, luôn vẫn có những người muốn dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Quả thật, bạo lực đã được con người khởi xướng lên từ nguyên thủy của con người phạm tội và nó không ngừng sinh sôi nẩy nở. Bạo lực đổ ập xuống con người, rồi nó biến những nạn nhân của bạo lực tiếp tục trở thành những người gây nên bạo lực. Bạo lực luôn lây lan như một bệnh dịch.

Bạo lực cũng có mặt trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hơn nữa, trong cuộc tử nạn của Chúa, chúng ta còn thấy một thứ bạo lực dã man và tàn bạo nhất : đánh đòn, đội mão gai, xỉ vả và hình khổ thập giá. Thế nhưng, ngay trong lúc nguy cấp nhất mà bạo lực gần như là phương thế duy nhất để có thể bảo vệ được sự sống của mình, thì Chúa Giêsu lại thẳng thắn khước từ bạo lực: Đức Giê-su bảo người ấy : "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”. (Mt 26, 52). Chúa Giêsu không trực tiếp chống lại bạo lực nhưng Chúa tiêu diệt bạo lực bằng một đường lối của tình yêu. Thay vì dùng bạo lực để chống lại bạo lực, Chúa Giêsu đón nhận tất cả bạo lực vào bản thân mình, đón nhận một cách sẵn sàng và quảng đại. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá“ (1 Pr 2,24).

Chúa Giêsu đã từng dạy rằng : “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (Mt 11, 29). Bài học hiền hậu và khiêm nhường không phải chỉ là một chút làm dáng để dễ thương hơn, không phải chỉ là một lối sống để tìm sự bình an trước những ganh đua của cuộc đời, không phải là một thứ khiêm nhường bằng lời nói tỏ ra ta đây hèn kém... nhưng là một bài học mà chính Chúa Giêsu đã thực hiện một cách bi tráng, bằng chính máu thịt, bằng chính mạng sống của Ngài. Con đường khiêm nhường và hiền hậu là con đường hóa giải bạo lực như một mãnh thú trong đời sống con người, con đường đó không phải là thái độ yếm thế, nhưng thực sự chính là thái độ hùng mạnh nhất của đời sống con người.

4. Tình yêu hướng tới sự hợp nhất chân chính


1. Hiệp nhất ở mức độ “sự vật”

            Mức độ thấp nhất của hiệp nhất của con người với nhau là mức độ sự vật. Sự hiệp nhất của con người với nhau bằng bất cứ sự gì ở ngoài con người, có thể tách rời khỏi bản thân của con người, dù là vật chất hay tinh thần, đều có thể gọi được là sự hiệp nhất trong mức độ sự vật. Người ta có thể gặp gỡ một ai khác khi cùng làm việc chung, cùng sống trong một ngôi nhà, hoặc cùng ăn một bàn ăn với nhau, hoặc cùng chia sẻ cho nhau những của cải vật chất hoặc của cải tinh thần … Hiệp nhất như thế, chỉ là một thứ “bao bì”, trong đó, hai hay nhiều con người được bỏ chung vào với nhau; và mức độ vững bền của nó chỉ là một sức ép hoàn toàn ở bên ngoài. Sự hiệp nhất ấy có thể bị phá tan vì một sức mạnh hay một sự trở lực ở bên ngoài, do ai đó ở bên ngoài, do hoàn cảnh ngẫu nhiên ở bên ngoài.

2. Hiệp nhất ở mức độ thân xác con người

Ở một mức độ cao hơn, người ta có thể tìm được sự hiệp nhất trong thân xác. Chẳng hạn vợ chồng chăn gối với nhau, hoặc như người cha có thể bắt đứa con ngồi vào bàn học để học bài. Nhưng khi đó, người cha vẫn chỉ điểu kiển được thân xác của đứa con chứ chưa chinh phục được lẽ phải trong đầu óc của con. Đứa con sẽ còn làm đúng như ý của cha khi mà sức mạnh thống trị của người cha vẫn còn mạnh. Thân xác của đứa con bị khuất phục, nhưng không phải là "tâm phục khẩu phục", nó bị đè nén để rồi lúc nào đó sẽ vùng lên và chống cụ lại một cách mãnh liệt. Người cha muốn áp đặt sự vâng phục của con bằng sức mạnh vũ phu thì chỉ có thể tìm được một sự hợp nhất nơi thân xác mà thôi. Sự hòa hợp vợ chồng trong đời sống chăn gối nếu chỉ dừng lại ở mức độ khoái lạc cũng mang cùng một ý nghĩa như vậy.

3. Hiệp nhất trong hiểu biết

Trong khi lựa chọn người bạn đời, thì một trong những tiêu chuẩn vẫn còn nhiều giá trị trong xã hội hôm nay, đó sự mức độ tương đối ngang hàng về trình độ văn hóa của hai người nam và nữ. Đó là một điều hợp lý, vì vợ chồng, sẽ phải chia sẻ cuộc đời với nhau trong rất nhiều lãnh vực, rất nhiều vấn đề… Hai người khác trình độ văn hóa sẽ thường có những lối nhìn khác nhau, những tiêu chuẩn ưu tiên khác nhau và những giá trị khác nhau. Một mức độ văn hóa, hoặc nói rộng ra là một sự "biết điều" sẽ là một yếu tố thuận lợi cho sự bền vững của đời sống gia đình. Tuy nhiên, lý trí không phải là cơ năng quan trọng độc nhất của con người. Lý trí hướng dẫn thực hành nhưng không dễ làm nên động lực sống cho cuộc sống. Nhiều khi người ta “biết rồi” nhưng vẫn không thể thực hiện được; hoặc có khi người ta quá biết điều lành, nhưng vẫn không thể bỏ được tội lỗi. Thánh Phaolô nói : “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu : vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm”. (Rm 7,15). Vì thế, ta thấy nhiều khi con người ta rơi vào tình trạng nói mà không làm.

4. Hiệp nhất trong tình cảm

Có những người, một cách thực tế hơn, khi lựa chọn bạn đời, không căn cứ và trình độ văn hoá của bằng cấp, nhưng là sự hòa hợp tính tình với nhau : những sở thích, những mối quan tâm, và nhất là tình cảm thân thương dành cho nhau. Sự hiệp nhất của tình cảm thì mãnh liệt và sâu xa hơn. Người ta cảm thấy an vui, hạnh phúc khi ở bên cạnh người mình thương mến. Tuy nhiên, tình cảm là một điều gì chóng qua, nồng nàn đấy nhưng cũng có thể mau chán; thương nhớ đấy, nhưng chưa hẳn đã có thể cùng nhau sống trọn một cuộc đời. Ta cũng có thể thấy, trong thực tế của cuộc đời, có những mối tình nồng nàn biết bao, để rồi cuối cũng cũng vẫn gẫy đổ trong chiều dài của đời sống gia đình.

5. Hiệp nhất trong dòng cuộc sống

Những sự hòa hợp như trên thật là cần thiết nhưng cũng chưa phải là tất cả; bởi vì còn lại một điều rất quan trọng, đó là sự trung tín với nhau trong suốt hành trình của cuộc đời. Khi sống chung với nhau trong một gia đình, trong chiều dài của cuộc đời, người ta mới lại khám phá ra nhiều điều không thể ngờ được nơi bản thân của người mà mình yêu thương. Cuộc sống bao giờ cũng có nhiều điều không ngờ, mà chỉ có khả năng đón nhận trọn vẹn bản thân, khả năng dám phiêu lưu trọn vẹn với nhau trên hành trình cuộc đời, mới có thể vượt qua được. Nếu sự hiệp nhất trong mức độ "sự vật" là quá hời hợt, nếu sự hòa hợp trong mức độ thân xác có thể trở nên nguy hiểm khi người ta không thấy được tính cách hòa hợp "bên trong', thì sự hòa hợp nơi lý trí thì lại quá lạnh lùng, còn sự hiệp nhất trong tình cảm thì lại có thể quá nông nổi.

Nói một cách triết lý, chiều kích lịch sử là một chiều kích lớn trong đời sống con người. Sự hiệp nhất trong sự vật và thân xác, sự hiệp nhất trong lý trí và tình cảm, chỉ có thể trở nên chân chính khi nó trải qua được thách đố của thời gian, khi nó được thể hiện trong lòng trung tín. Trong dòng lịch sử, thái độ trung tín là một yếu tố quan trọng hơn hết. Thái độ trung tín diễn tả một thứ tình yêu được thể hiện trong dòng đời, vượt qua những thăng trầm của thời cuộc và đón nhận được toàn vẹn bản thân một ai khác.

Con người chỉ trọn vẹn là mình trong dòng đời. Trong dòng cuộc sống thực và cuộc sống lâu dài, con người mới thể hiện chân chính bản thân mình và mới thực sự biết mình là ai. Lý do là, chẳng những vì tâm hồn con người là “biển sâu khôn dò”, chẳng những mối tương quan giữa tâm hồn và thân xác con người bao gồm quá nhiều điều tinh vi khó ai có thể thấu suốt, nhưng sâu xa hơn, là vì tất cả những gì ta thấy ở đây, lúc này, nơi một con người, đều có thể bị biến đổi, hoặc trở thành điều trái ngược, hoặc tiến triển đến độ không ai có thể tính toán được. Bản chất con người đã là một huyền nhiệm, con người trong dòng lịch sử lại càng là một huyền nhiệm gấp đôi.

 Do đó, cũng chỉ trong dòng cuộc đời thật, tình yêu thương của một người này với người kia mới thực sự được chứng nghiệm một cách đúng đắn; và chiểu kích cuộc sống mới hoàn thành được những bình diện hiệp nhất khác. Tình yêu chân chính nhất thiết cần được thể hiện trong một thái độ tạm gọi là trung tín. Trung tín chính là thước đo của tình yêu thương đích thực.

Cuộc sống là một cuộc phiêu lưu. Con người trong cuộc sống là một con người không có “bảo hành”. Chính cuộc sống khắc nghiệt là sự thử luyện của tình yêu. Tình yêu chân chính phải bao gồm những khía cạnh thực tế như chia sẻ cuộc đời với nhau, là dính dáng vào những vui buồn của nhau trên hành trình cuộc sống, là dám thông chia những khổ đau, liên lụy những rắc rối, đảm nhận trách nhiệm về cuộc đời của nhau… và bao gồm trong đó là một sự trung tín trong dòng lịch sử. Quả thật. trong tinh thần của Kinh Thánh, sự trung tín có thể được coi như một khía cạnh căn bản bản tình yêu, và hoa trái đặc trưng của đời sống Kitô giáo chính là một thứ lịch sử ơn cứu độ.

5. Tính hiệp nhất của tình yêu chân chính


1. Hiệp nhất trong đa dạng

Tình yêu hướng tới sự hiệp nhất. Sự hiệp nhất trong tình yêu là một sự hiệp nhất hết sức phong phú, mở ra trong nhiều lãnh vực và đưa vào những nẻo đường mới mẻ trong dòng lịch sử. Sự hiệp nhất của con người với nhau có thể ví như sự hiệp nhất của một thân thể “cao cấp”. Các sinh vật cấp thấp tìm thấy sự hiệp nhất bằng sự đồng nhất tối đa các chức năng trong thân thể, một cơ quan có thể đảm nhận nhiều chức năng khác nhau, đến độ khi bị cắt ra, chúng có thể trở thành hai con tự sống độc lập với nhau. Những sinh vật cao cấp lại thống nhất bản thân mình bằng một sự đa dạng của các bộ phận khác nhau trong thân thể. Một sinh vật càng cao cấp thì những cơ quan khác nhau được chuyên biệt hóa tối đa để đảm nhận một chức năng riêng biệt. Trong thư 1 Cô-rin-tô, thánh Phaolô ví mỗi thành phần trong Giáo Hội như những bộ phận khác nhau trong thân thể :

“Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. Giả như chân có nói : "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói : "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe ? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi ?”(1 Cr 12, 14-17…)

Sự hiệp nhất trong đời sống con người giống như sự hiệp nhất của một sinh vật cao cấp, nghĩa là sự hiệp nhất hướng tới một sự đa dạng, phong phú của mỗi cá nhân, chứ không phải là một sự đồng nhất đơn giản. Mỗi con người, hoặc là nam hay là nữ, thì tự bản chất đã chỉ là một nửa của nhân loại, đã là một sự thiếu hụt. Đó là một sự thiếu hụt căn bản mà không ai có thể tự mình bù đắp được. Mỗi người, xét như thuộc về một phái tính, cần tới phái tính kia để có thể sống cuộc đời mình cách trọn vẹn và phong phú. Đó là khao khát căn bản trong bản chất người, khao khát được hiệp nhất với ai khác trong sự khác biệt của nhau, khao khát người khác như người khác. Tính chất hiệp nhất đa dạng như thế là phẩm chất của toàn thể đời sống con người nói chung, đặc biệt là phẩm chất của tình yêu trong con người.

Hiệp nhất trong đa dạng đòi hỏi con người can đảm chân nhận sự thiếu hụt của mình, dám chân nhận lòng khao khát không tự mình thoả mãn được để biết khẩn nài tình yêu. Chính vì thế mà triết gia Gabriel Marcel nói : khẩn cầu là nhịp thở của tình yêu. Trong tình yêu, người ta không thể đổi chác, không thể thống trị, mà chỉ có thể tôn trọng phẩm giá tự do của ai khác, khẩn nài tình yêu của ai khác, và biết đón nhận tình yêu dâng tặng của ai khác với lòng tri ân. Những ai không đủ năng lực sống phẩm chất đời người, không can đảm sống trọn “vận mạng thiếu hụt” của mình thì thường muốn dùng bạo lực để chinh phục, để thống trị người khác. Cách thức đó luôn đi lạc vào nẻo đường đồng nhất, tiêu diệt sự hiệp nhất đa dạng. Khuynh hướng loại trừ những khác biệt chính là một khuynh hướng suy đồi trong đời sống con người. Các bạo chúa là những người chẳng thể sống được nỗi khao khát cao cấp của con người và muốn giải quyết nó bằng phương pháp của con vật.

2. Tính độc đáo của cá nhân và trách nhiệm liên đới

Trong thân thể của một sinh vật cao cấp, mỗi bộ phận chỉ đảm nhận một chức năng riêng biệt, chúng hoàn thiện tối đa chức năng riêng biệt của mình, và đồng thời lại cần tới các bộ phận khác một cách thiết yếu. Không có sự liên đới với các bộ phận khác, một bộ phận riêng biệt không có đủ khả năng để sống và hoạt động.

Như thế, chính do sự khác biệt của những bộ phận khác nhau mà sự hiện diện của mỗi bộ phận lại càng thêm cần thiết đối với các bộ phận khác. Mỗi bộ phận đều được sắp xếp để đảm nhận một công việc chuyên môn trong thân thể như một “trách nhiệm” phải chu toàn đối với toàn thân. Mỗi bộ phận càng là mình bao nhiêu thì lại càng củng cố cho sự sống toàn thân bấy nhiêu; và mỗi bộ phận đều đón nhận sự sống của toàn thân như chính sinh mệnh của mình. Chính mối tương quan hỗ tương sống còn ấy giúp cho mỗi bộ phận được phát triển trọn vẹn chức năng của nó. Thay vì tìm sự gắn bó với nhau bằng sự đồng nhất, một cơ thể cao cấp sẽ gắn bó các thành phần với nhau bằng một sức sống chung, một sức sống phát triển mạnh mẽ trong từng bộ phận.

Chúng ta cũng có thể nhận định phẩm chất của một cộng đồng, một tổ chức xã hội, hay một cộng đoàn trong Giáo Hội theo tiêu chuẩn của một sự hiệp nhất của các bộ phận trong một cơ thể sinh vật cao cấp như thế. Quả thật, khi một tập thể hay một mối liên đới nào không giúp cho cá nhân, cho mỗi thành phần được phát triển phong phú bản sắc riêng, thì đó là một tập thể phi nhân. Ngược lại, khi một cá nhân không có khả năng đi vào sự hiệp nhất đa dạng với ai khác, thì đó là một cá nhân thác loạn. Ngược lại, nơi nào có sự hiệp nhất trong sự sống đích thực, thì nơi đó, người ta không đánh giá nhau theo một thang điểm chung, nhưng là nhìn nhận sự độc đáo của người khác và thực sự cần tới nhau trong sức sống chung chứ không phải theo một tinh thần tranh giành hơn thua.

3. Nét đặc trưng của tín lý Kitô giáo

Chúng ta có thể thấy những tín điều căn bản của Kitô giáo như thể đều hướng tới cũng như nhằm bảo đảm cho được một thứ tình yêu mang tính chất đặc trưng của Kitô giáo, tình yêu hiệp nhất trong đa dạng : khẳng định con người được sáng tạo từ hư vô chứ không phải là một mảnh hồn từ Thiên Chúa rơi rớt; điều đó cho thấy sự hiệp nhất của con người với Thiên Chúa không bao giờ là một sự hòa đồng, tan biến của linh hồn vào Thượng Đế. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cho thấy không bao giờ tính cách hiệp nhất “Một Chúa” đánh mất cá vị của Ba Ngôi; và cũng không bao giờ “Ba Ngôi Vị” độc lập với nhau để thành nên “ba chúa”. Sự kết hiệp lạ lùng của Ngôi Hai Thiên Chúa với bản tính con người cũng theo một chiều hướng như vậy… Chúng ta cần hiểu ý nghĩa của tinh yêu trong Kinh Thánh, tình yêu trong Kitô giáo theo nghĩa căn bản như thế.

Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng, nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất đa dạng trong Hội Thánh của Chúa, làm nên sự sống chung chính là sự hiệp nhất trong Thánh Thần, mà cụ thể chính là đức Ái. Phẩm chất của đức Ái chính là một sự  : “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. (1 Cr 13,13; xc. 12, 4- 13,13).

6. Tình yêu, biểu lộ trong sự trung tín


1. Cám đỗ thăng tiến trong "trình độ"

            Sống trong cuộc đời, người ta luôn có cảm tưởng rằng, khi mình có trình độ cao, mình sẽ có được một sự bảo đảm cho cuộc đời. Khi ta có một bằng cấp cao, một tay nghề cao, một khả năng giỏi trong một lãnh vực nào đó…ta thấy tự tin và vững bước trên đường đời. Đó là điều quá rõ ràng và người ta có thể kiểm nghiệm sự đúng đắn của nẻo đường này một cách thực tế.

            Tuy nhiên, cũng có một thực tế khác như quy luật, đó là khi người ta càng tự tin vào mình, khi người ta càng có khả năng giải quyết nhiều chuyện trong cuộc đời của mình, thì người ta lại càng ít cảm thấy cần tới người khác, hoặc chỉ cần tới người khác như một sự chiếm hữu, thống trị, như một cách thức khẳng định bản thân chứ không phải như một sự cần thiết của sự truy nhận tầm quan trọng thiết yếu của một người mình yêu thương.

            Mặt khác, người có trình độ là một người muốn một lần giải quyết cuộc đời mình, giải quyết đời mình như một bài toán chứ không phải như một huyền nhiệm. Thế nhưng cuộc đời thì không phải là một bài toán và người ta không bao giờ có thể giải quyết một lần. Cuộc đời con người là một lịch sử thăng trầm mà không ai có thể nắm chắc phần thắng dựa vào trình độ của mình. Người có trình độ dĩ nhiên sẽ dễ dàng hơn trong việc giải quyết nhiều vấn đề của cuộc đời. Nhưng người nào chỉ biết tin vào trình độ của mình thì sẽ có lúc bị vấp ngã thảm thương. Người quá ưu tư về "trình độ" thực sự là người ướm đời mình vào một thang điểm chứ không phải là người thể hiện cuộc đời mình trong tương quan nghĩa tình. Mặt khác, vì thang điểm là một thứ chuẩn mực chung, nên loại người như thế thường có mối quan tâm so sánh, nhìn người này để tự tôn và nhìn người kia tự ty. Thật ra, người ưu tư về trình độ là người ưu tư về bản thân mình, sống vì mình, sống cho mình, chứ không phải sống vì ai khác. Con đường thăng tiến trình độ là con đường của những người muốn khẳng định chính mình, khẳng định chính mình bằng năng lực, bằng sự vun đắp cá nhân. Cuối cùng, con đường thăng tiến trong trình độ là con đường của những người ưu tuyển, con đường lọc lựa để gạt ra bên ngoài những con người kém may mắn, những người nghèo, những người bé mọn. Xã hội thiếu nghĩa tình luôn là một cuộc thi gắt gao mà những người bé mọn dĩ nhiên là những kẻ bị loại trừ.

2. Trung tín trong nghĩa tình

Ta cũng có thể nói rằng, thế giới ngoài đường là thế giới của trình độ. Trong cuộc sống xã hội, người ta không chấp nhận cho một người không có năng lực đảm nhận một vị trí quan trọng, người ta không chấp nhận thu nhận một công nhân không có tay nghề, và người ta cũng không chấp nhận sống với một người không có đức độ…. Nơi thế giới ngoài đường, mỗi người bị thúc bách phải có trình độ để có thể chơi với đời. Thế giới ngoài đường là thế giới đón nhận một ai đó trong một “giai đoạn của tài năng”, trong một "nhiệm kỳ của trình độ”. Khi người đó không còn trình độ, thế giới ngoài đường sẽ loại bỏ anh ta như một quy luật bình thường của cuộc sống. Thế giới ngoài đường như thế, thật ra, là thế giới của sự vật chứ không phải là thế giới của con người; bởi vì nơi đó, người ta bận tâm về một công trình, bận tâm về những thành quả, bận tâm về sự phát triển của một kế hoạch nào đó; và con người trở thành dụng cụ để phục vụ cho những kế hoạch phát triển.

            Ngược lại, trong đời sống gia đình, người ta có thể thấy một qui luật khác. Cha mẹ, anh chị em ruột thịt với nhau là những người biết đón nhận trọn vẹn bản thân của nhau, nghĩa là đón nhận một người trong trọn vẹn hành trình thăng trầm của cuộc đời. Gia đình là nơi các thành viên đón nhận và sống liên đới với nhau, không phải chỉ khi các thành viên tốt lành, giỏi dang trong “nhiệm kỳ của trình độ”, nhưng một cách trọn vẹn nhất, cả khi vui lúc buồn, cả khi thành công lẫn khi thất bại, cả khi người thân còn đầy tài năng cũng như lúc nằm liệt trên giường bệnh…. Tình nghĩa gia đình bao gồm sự đón nhận bản thân của nhau, thứ bản thân được thể hiện cụ thể thành nên một cuộc đời. Gia đình là nơi đón nhận cuộc đời của nhau, cuộc đời toàn vẹn trong mọi giai đoạn, trong mọi tình trạng… Tình nghĩa gia đình chân chính như thế được thể hiện trong khả năng đi theo một ai đó dọc theo suốt hành trình thăng trầm của cuộc đời.

Trong tình nghĩa gia đình, con người không bị cắt xén, không bị giản lược thành một giai đoạn hay một nhiệm kỳ của trình độ. Trong gia đình, tình thương được biểu lộ trong chiều kích trung tín; và đó là con đường của tình thương chân chính, tình thương làm nên một bề dày nghĩa tình…

3. Tình yêu Kitô giáo thiết yếu bao hàm chiều kích trung tín

            Ở đây, chúng ta có thể hiểu được một chút về ý nghĩa mối tương quan tình nghĩa giữa con người với Thiên Chúa, giữa Thiên Chúa và Dân Israel cũng như giữa Thiên Chúa với mỗi người, mối tương quan được biểu lộ trong một lịch sử, hình thành nên một lịch sử ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Thiên  Chúa dành cho con người không phải là một sự đánh giá trong một “thời điểm của trình độ”, nhưng là một sự trung tín để thực hiện một thái độ trung tín và trung tín đến cùng. Trung tín được coi như là chính phẩm chất của tình yêu Thiên Chúa. Trung tín ở đây, về phía Thiên Chúa, chẳng những không vương một chút bất trung nào (trình độ), nhưng thiết yếu được thể hiện trong chiều dài lịch sử :

“Nếu ta không trung tín,

Người vẫn một lòng trung tín,

vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm 2,13)

Trong khi đó, đời sống của con người thì không dễ dàng gì thực hiện được một sự trung tín trong trình độ :

 “Nhưng nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao ? Chẳng lẽ sự bất trung bất tín ủa Thiên Chúa ra vô hiệu ? Không phải thế ! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối.” (Rm 3,3-4)

Tuy nhiên, chính sự trung tín của Thiên Chúa, sự trung tín trong chiều kích lịch sử lại có thể mở đường cho hành trình đức tin của con người, một hành trình dù có những lần bất trung, nhưng vẫn cung cấp khả năng để kiên trì, để chỗi dậy và để lại tiếp tục cuộc hành trình đức tin trong dòng đời đầy những thăng trầm.


Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định một sự đảo ngược kỳ lạ : "Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót." (Lc 13,20). Đó không phải là một ý định kỳ cục nhằm khẳng định một Thiên Chúa toàn năng muốn làm gì thì làm, nhưng điều đó, có thể nói, diễn tả một quy luật của tình thương, khác với quy luật của sự thăng tiến trong trình độ. Chính những người Biệt phái là bằng chứng rõ ràng nhất của một thứ "cám dỗ của trình độ".

2.2 Tình yêu mang tính chất cứu độ

            Nếu cuộc sống con người là một huyền nhiệm vượt quá khả năng tiên đoán của con người, thì cũng còn một điều vốn cũng vô cùng kỳ diệu trong cuộc sống ấy, đó là tình yêu chân chính mà con người, tự căn bản, được mời gọi để sống. Chính tình yêu là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để con người có thể sống với nhau trong hành trình huyền nhiệm của cuộc đời. Tuy nhiên, tình yêu ở đây chắc chắn không phải chỉ là một chút hứng khởi của tình cảm, không phải chỉ là một sự đánh giá nhau trong mức độ thăng tiến, mà là một sự đón nhận trọn vẹn bản thân của một con người trên hành trình phức tạp của cuộc đời.

            Tình yêu thương Kitô giáo không phải chỉ là một chút hứng khởi kiểu Eros (một thứ điên loạn xuất thần), nhưng là một tình yêu hướng tới lý tưởng "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." (Ga 15,13).

Người Kitô hữu không được quyền nói như người ta vẫn nói : hôn nhân giết chết tình yêu. Người Kitô hữu, sống theo lý tưởng tình yêu Agapê, cần đón nhận đời sống hôn nhân như một hành trình yêu thương hướng tới lý tưởng hy sinh mạng sống cho nhau, nơi đó  có thể không còn những hứng khởi thăng hoa, nhưng lại đầy tràn những liên lụy trong những khó khăn của cuộc sống thật.

            Như thế, tình yêu theo tinh thần Kitô giáo không phải chỉ là một chút hứng khởi, không phải chỉ là một sự thăng hoa để thêm vào cho cuộc sống thêm mặn mà, nhưng tình yêu là điều thực sự cần thiết để con người có thể sống trọn kiếp người. Con người cần sống tình yêu để có thể hướng đến một sự sống lý tưởng của hạt lúa "thối đi" và trổ sinh những bông hạt khác, lý tưởng "hy sinh tính mạng vì bạn hữu"; cũng như con người cần được yêu thương, một thứ tình yêu dám liên lụy trọn vẹn cuộc đời với người mình yêu, để có thể giúp nhau vượt qua được những thử thách bất ngờ của một đời người. Tình yêu thương Kitô giáo mang một ý nghĩa căn bản là "tính chất cứu độ". Chính vì con người cần được liên lụy trong suốt hành trình cuộc đời, mà Chúa cho con người, bình thường, được có cha có mẹ…. Và tình yêu vợ chồng cũng không đi ra ngoài qui luật chung của tình yêu, nghĩa là đón nhận nhau " khi thinh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ…"…

2.3 " Thiên Đàng" ở trần gian

            Cuộc sống trần gian này không phải là thiên đàng. Cuộc sống luôn có lỗi lầm, luôn có khổ đau và ít nhiều gì vẫn là "vũng lầy nước mắt". Chúa Giêsu đã chọn một đường lối cứu độ tuyệt vời khi Ngài không dễ dàng thiết lập ngay một thế giới THIÊN ĐÀNG ở trần thế, Ngài chỉ gieo hạt và men Nước Trời để chúng lớn lên từ từ trong cuộc sống trần gian. Nói cách khác, thiên đàng ở trần gian này đã được Chúa thiết lập, nhưng đó là thiên đàng ở dạng men, dạng hạt :

"Đức Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói : "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.

" Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác : "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men." (Mt 13, 31-33)

            Thiên đàng trên trời mai sau thi thật là hoàn hảo, là khi đó mọi người giống như cùng gẩy lên cung đàn hoà điệu một cách tuyệt với. Thiên đàng trần gian này lại là những tiếng đàn ngang phè phè của người này với người kia. Tuy thế, khi biết mình chơi đàn lạc điệu, mỗi người lại biết xin lỗi, cười xòa và cùng làm lại bài hòa âm của mình.

            Thiên đàng trần gian này vẫn có những lỗi lầm, những sai sót, nhưng điều quan trọng là có thể chấp nhận được sai lỗi của nhau :

     "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.  Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân." (Cl 3, 12-15)

3. Tình yêu trung tín


3.1 Tình yêu mang tính cách dấn thân

Đi vào nhịp bước tình nghĩa, người ta được mời gọi  ra khỏi bản thân, dấn thân vì tha nhân và dấn thân cho đến cùng. Tiếng gọi của tình yêu chân chính bao giờ cũng thôi thúc con người đến một cách sống yêu thương trọn vẹn, triệt để, yêu thương đến cùng. Hành trình của tình yêu không phải nhằm đạt đến một sự an hòa cho bản thân, nhưng là vượt quá bản năng bảo vệ bản thân. Đó luôn luôn là một cuộc “vượt qua”. Tình yêu thương, trong khía cạnh dính dáng đến vận mạng con người, không thể được giải quyết bằng thái độ “đi giầy cao gót”, thái độ “đi cà khêu” trong cuộc đời. Để đến với ai khác trong tình yêu, ai khác như một bản thân có giá trị tuyệt đối, ai khác như vận mạng một đời người, ai khác với tất cả sự phức tạp của cuộc đời, người ta cũng phải hy sinh cả một đời.



Những người làm cha làm mẹ, những người có kinh nghiệm “cưu mang” một cuộc đời, “mang vác” một phận người,… có lẽ dễ hiểu được điều đó. Mang vác một cuộc đời là cả một hành trình gian nan, khốn cực mà người nào nhát đảm, an thân không thể nào đi trọn được. Để đồng hành với một phận người, người ta không thể đứng bên lề cuộc đời để khỏi vướng bùn nhơ, không thể đứng xa xa, cầm cây khều khều, gẩy gẩy… nhưng là xắn quần lên, là lội vào bùn, là ngụp lặn trong bùn. Có lẽ chính vì con người cần được cưu mang, cần được mang vác như thế mà Chúa cho con người có cha có mẹ.

3.2 Tên gọi khác của tình yêu

            Ta có thể tạm nói có hai thứ tình thương, một thứ "tình thương hàng ngang" của bạn bè với nhau, vợ chồng với nhau, hay anh chị em với nhau… và một thứ "tình thương hàng dọc" của cha mẹ với con cái…

            Trong tình thương "hàng ngang", người ta thường tìm những điều hay điều tốt của người mình yêu để có thể yêu thương nhiều hơn, tha thiết hơn, theo chiều hướng tỷ lệ thuận với những điều hay điều tốt của người mình yêu. Thứ tình yêu hàng ngang có chiều hướng "nhìn lên", có tính cách dễ thần tượng hóa người mình yêu quý. Chẳng hạn khi hai người nam nữ gặp nhau, đó là cuộc gặp gỡ của "người dưng khác họ", thì dĩ nhiên là người này quí trọng người kia là vì người kia có những đức tính tốt, có những điều hay điều đẹp… cuộc gặp gỡ của những người "hay, đẹp, tốt" như thế thật bay bổng biết bao; nhưng cũng thật "ảo tưởng" biết bao. Tình thương "hàng ngang" rất dễ bị ngưng đọng khi gặp một chướng ngại, khi thần tượng bị sụp đổ, khi mà "nhìn lên" chẳng còn thấy điều gì là "hay, tốt, đẹp" nữa. Đó là nguyên nhân đổ vỡ của biết bao nhiêu cuộc tình thắm thiết. Tình yêu hàng ngang đặt nền tảng trên sự đánh giá nhau về "trình độ".

            Trong khi đó, tình thương "hàng dọc" lại có một chiều hướng khác : "nước mắt đổ xuống". Tình thương của cha mẹ với con cái thì không phải vì điều hay điều tốt của con, mà vì chính bản thân của đứa con. Bằng chứng là ngay khi đứa con của mình là một đứa con khuyết tật, hoặc ngu dốt, hoặc tệ hơn nữa là đứa con tội phạm thì cha mẹ vẫn đau lòng, vẫn thiết tha và còn thiết tha hơn nữa với nó. Tình thương đổ xuống có khả năng vượt qua mọi chướng ngại để đến được tói bản thân của người mình yêu thương. Thứ tình thương này đặt nền tảng trên sự liên lụy.

            Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp "Thiên Chúa là Đấng từ bi thương xót", nói rằng : ở trần gian này, tình yêu có một tên gọi khác, đó là lòng nhân từ. Ta có thể nhận ra một chân lý lớn của Kitô giáo trong khẳng định này. Tình yêu thương của con người với nhau trong cuộc sống trần gian này không thể bền vững được nếu không được "đổi tên". Cuộc sống có nhiều cạm bẫy, và mỗi con người đều có phần "nhân vô thập toàn" của mình; nên người ta chẳng thể sống trọn vẹn được thứ tình thương hàng ngang trong cuộc đời này. Tình yêu thương trong cuộc đời này luôn phải được thông phần vào một nguồn mạch của tình yêu hàng dọc. Khi Chúa Giêsu muốn trao cho thánh Phêrô trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên, Chúa đã chẳng đòi hỏi thánh Phêrô một thứ tình yêu hàng ngang là "yêu chiên", nhưng Chúa mời gọi để đi vào nguồn mạch của thứ tình yêu "chiều dọc", đó là yêu Thầy :

     "Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?" Ông đáp : "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông : "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy. Người lại hỏi : "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không ?" Ông đáp : "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói : "Hãy chăn dắt chiên của Thầy". Người hỏi lần thứ ba : "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ? "Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : "Anh có yêu mến Thầy không ?" Ông đáp : "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo : "Hãy chăm sóc chiên của Thầy. (Ga 21, 15-17)

            Chỉ có tình yêu với Thầy mới có thể đưa thánh Phêrô vào nguồn mạch của tình yêu thương của người mục tử nhân lành : "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" ( Ga 10,11), để Phêrô có thể chu toàn được trách nhiệm của người mục tử chân thật. Phêrô chỉ có thể chăn chiên của Chúa khi yêu chiên bằng tình yêu của Chúa, nghĩa là bằng một thứ tình yêu đã được đổi tên, tức bằng lòng nhân từ. Sự kiện vừa nói không phải là một điều đặc biệt dành riêng cho người mục tử, nhưng là quy luật chung của tình yêu Kitô giáo, như chúng ta thấy trong các dụ ngôn tha thứ, dụ ngôn về người Samarie nhân hậu…

            Nói một cách nào đó, sống tình yêu Kitô giáo, chính là nhận ra ai cũng đáng thương; tôi cũng đáng thương và anh chị em tôi, bạn bè và người yêu của tôi cũng đáng thương. Đó thực sự là thân phận con người trong cuộc đời này. Tuy nhiên, cần phân biệt ở đây, vị thế của tôi để nhận ra anh chị em của tôi đáng thương không phải là vị thế của chính tôi, như thể tôi hơn người khác, tôi tội nghiệp cho người khác, mà là vị thế của Chúa. Mặt khác, thái độ "tội nghiệp" có nghĩa là "tôi chẳng thương bản thân của em, tôi chỉ tội nghiệp cho nỗi khổ của em…", trong khi đó, tình thương chiều dọc, tình thương đổ xuống một cách chân chính thì lại luôn bao hàm ý nghĩa đón nhận bản thân của người mình yêu thương một cách "vô điều kiện".

Kết


1/ Đạo yêu thương

 Người ta thường nói Kitô giáo là đạo yêu thương, Điều đó hoàn toàn đúng, nhưng cũng rất dễ bị hiểu lầm vì tình yêu cũng có ba bẩy thứ. Có lẽ cần phải nói đạo của Kinh Thánh dựa trên nền tảng là "Đạo Sống Với Ai Khác". Trên nền tảng đó, có một đức tính gần như tương đương với tình yêu, đó là trung tín. Đỉnh cao của sống với và trung tín đó là tình yêu, và là tinh yêu hy sinh mạng sống cho bạn hữu.

2/ Trung tín với Chúa để trung tín với nhau

            Con đường của người Kitô là con đường vòng : muốn tha thứ thì trước tiên phải đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa trong đức Kitô; muốn chăn dắt con chiên thì phải yêu mến Chúa Giêsu và từ đó tìm thấy lý tưởng cao vời của đời mục tử; muốn sống chân thật với tha nhân thì phải đối diện với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt cõi lòng để có thể buông bỏ được những chiếc mặt nạ giả tạo; muốn phục vụ tha nhân thì hãy để cho đức Giêsu phục vụ mình và ra đi bằng chính động lực phục vụ đến cùng của Đức Giêsu; muốn xót thương người thì hãy nhận ra lòng thương xót của đức Giêsu . . .

            Chính niềm tin vào Chúa giúp con người có thể tin vào nhau. Niềm tin nơi Chúa là chân trời rộng mở để con người có thể dám tin vào nhau mà không sợ rơi vào ảo mộng phù phiếm của một thứ chủ nghĩa anh hùng cá nhân.Chính khi ta tin vào Chúa, ta đã vượt qua thái độ “thuận mua vừa bán”, khi đó ta mở rộng khung trời để có thể bao bọc, chấp nhận những con người cụ thể, ngay cả khi bị phản bội. Chỉ có con người mới có thể phản bội, còn Thiên Chúa thì không bao giờ phản bội cả; và Thiên Chúa chẳng để cho sự “lầm lẫm” do đã quá tin một con người, nếu có, lại trở thành một thái độ xấu.

                       

Có thể nói được sự hiệp nhất trong thần khí, theo tinh thần của Kitô giáo chính là nhằm tới sự hiệp nhất trong dòng đời. Cuộc đời luôn luôn là một sự rắc rối, luôn luôn có những bất ngờ, luôn luôn là một bước đi phiêu lưu… và Chúa dến với con người, không phải như một bài học khôn ngoan, không phải chỉ là một món qua như một thứ bửu bối, một thứ bùa hộ mệnh, … nhưng là chính Chúa Thánh Thần đồng hành vào dẫn dắt người tín hữu trên bước đường đời. Người ta không thể gọi được là yêu nếu như chỉ hứng khởi nhất thời, nếu như chỉ dựa trên nền tảng của sự hiệp nhất trong sự vật hoặc trong thân xác, trong tình cảm nhất thời hoặc trong những suy nghĩ hợp nhau.



3.1 Đón nhận bản thân của nhau

3.2 Tình yêu được thể hiện cụ thể

3.3 Bước thăng trầm trong cuộc sống : đón nhận nhau như là những “người nghèo”

3.4. Bề dày nghĩa tình

4. Không phải là đánh giá theo một thang điểm

- Chia sẻ cuộc đời của nhau,

- Liên đới trách nhiệm, đặc biệt là dám liên lụy trong khó khăn

- Dám sống tình yêu như một cuộc phiêu lưu

Kết : Nền tảng Kitô giáo là “Đạo sống với”

- Lịch sử ơn cứu độ

- Tên gọi thứ hai của tình yêu : lòng nhân từ. Từ tình yêu kiểu con người, đến tình yêu vô điều kiện và đặc biệt là tình yêu tha thứ. Tha thứ 70 lần 7…



Thiên Chúa sáng tạo con người như một tinh thần hiệp nhất với thân xác. Trong chương trình sáng tạo ban đầu của Thiên Chúa, thân xác con người không phải là kẻ thù, không phải là mối hiểm hoạ luôn đe doạ con người, nhưng chính là phương tiện cần thiết để con người sống và thể hiện tình yêu. Nói cách khác, thân xác của mỗi người góp phần quan trọng để mỗi người có thể sống tình yêu một cách chân chính. Nhờ thân xác, mỗi người là mình một cách độc đáo, riêng biệt, và mỗi người có khả năng thể hiện tình yêu của mình một cách độc đáo riêng biệt. Một người nam khác một người nữ, một người Việt Nam khác với người Tây phương, một người lùn khác một người cao, một người mập khác một người ốm, một người mặt dài khác với người có mặt tròn. . . tất cả những yếu tố của thân xác ấy sẽ là những mảnh đất riêng phong phú để trổ sinh những bông hoa “không giống ai”, nhưng lại có nét đẹp riêng của mỗi bông hoa. Như thế, con người được kêu gọi diễn tả bản thân mình qua thân xác, thể hiện tình yêu dâng tặng của mình cho người khác qua thân xác. Thật là ngụy biện nếu ai đó cho rằng yêu chỉ để trong lòng, trong khi mà người ấy có điều kiện để diễn tả tình yêu của mình trong thân xác.

            Hơn nữa, tình yêu diễn tả qua thân xác, theo quan niệm Kitô giáo, không phải là cấp độ thấp nhất của con người. Nhưng, một cách trái ngược lại, tình yêu được diễn tả cụ thể ở mức độ thân xác lại chính là điểm hoàn trọn của tình yêu. Chúa Giêsu luôn nhắc nhở người nghe Lời Chúa phải biết đem ra thực hành; và chính sự thực hành mới làm cho người con, dù ban đầu đã chối không nghe lời cha, nhưng rồi hối hận và đã thi hành lời cha, trở nên người thực sự thì hành ý muốn của cha. {Mt 21,28-32}.

            Tuy vậy, thân xác luôn luôn là một cạm bẫy nguy hiểm đối với con người, vì con người luôn có nguy cơ giản lược tất cả ý nghĩa cuộc đời con người vào thân xác : chỉ tìm niềm vui của thân xác, lấy vẻ đẹp của thân xác làm quan trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, giản lược tấm lòng của con người vào quà tặng bên ngoài… Sự hiệp nhất ở mức độ thân xác, tự nó, không phải là một sự hiệp nhất trọn vẹn xứng với phẩm giá của con người.

            Cuộc sống ở thế giới “có thời gian” luôn luôn là cuộc sống bất toàn trong một thế giới bất toàn. Bản chất của thế giới “có thời gian” là có sự qua đi, sự chấm dứt để nẩy sinh những cái mới và những tiến trình mới. Tính cách “qua đi”, tính cách phải bị “chấm dứt” ấy gắn liền với tất cả mọi thực tại của thế giới và của cuộc sống con người. Do đó, một trong những phẩm tính căn bản của người trưởng thành lại là khả năng chấp nhận cái tương đối, chấp nhận giới hạn của chính mình và giới hạn của người khác cũng như của thế giới chung quanh. Con người luôn là kẻ khao khát tuyệt đối, nhưng đòi hỏi tính chất tuyệt đối nơi một thế giới “có thời gian” lại là một đòi hỏi phi lý và đưa đến những tâm tình tuyệt vọng.

            Tuy nhiên, lý trí không có tình yêu là một sự hiểu biết vô ngã và không đủ để đi đến gặp gỡ.

9. Tình yêu, đón nhận hệ lụy của nhau đến cùng


10. Mắc nợ nghĩa tình


Động lực vận hành của trao tặng không phải là hai bên cùng có lợi, nhưng là “mắc nợ nghĩa tình”. Từ một sự mua bán - đổi chác đến sự trao tặng, thật sự có một sự thay đổi ý nghĩa quan trọng. Cuộc đời, tự nó, đã đặt tất cả mọi người vào trong một tình trạng “mắc nợ” nhau quá nhiều. Trong cuộc sống ấy, người ta mà chỉ có thể “trả nợ đời” bằng một tâm tình “mắc nợ nghĩa tình”; và tâm tình ấy lại chính là nguyên lý của trao tặng.

11. Tình yêu, định hướng lại giao ước


Con người là người và làm người. Đời sống con người là một hành trình và phải dấn thân đi vào lịch sử; cái chính yếu của đời người là dấn thân chứ không phải giác ngộ; là một hành động chứ không phải lý thuyết, là chọn lựa và lao vào cuộc chứ không phải là bảo vệ một tình trạng nào. Dấn thân vào hành trình lịch sử, đó là một vận mạng vô cùng phức tạp chứ không phải chỉ là một bài học lý thuyết có thể được hiểu một lần là xong. Cuộc đời có muôn vàn tình huống mà không thể dễ dàng giải quyết bằng một nguyên tắc đã có. Do đó, con người không phải chỉ cần một Thiên Chúa soi sáng, dạy bảo cho bằng cần một Thiên Chúa đồng hành.





 Những người đứng trước cái chết, nhất là những người trải qua một cuộc đời lầm lũi khổ đau, thường sẽ nhận ra tính vô vọng, tính vô nghĩa tự tại của cuộc đời. Tính vô nghĩa ấy chỉ có thể được vượt qua khi người ta hiểu cuộc đời mình là lời đáp. Ý nghĩa trọn vẹn của đời sống con người chính là nhận ra mối liên hệ ý nghĩa của đời mình với Thiên Chúa, và đời sống ấy trở thành một lời đáp. Do đó, điều quí trong nhất của đời sống con người chính là được nhận ra Thiên Chúa là Cha, là bạn đồng hành, là Đấng liên lụy vào đời sống giới hạn của con người; và như thế, đời sống con người chỉ còn là đáp lại, là dấn thân và phó dâng …

4. Tình yêu, động lực chân chính của cuộc sống con người


6. Tình yêu, liên lụy vào hành trình cuộc đời


7. Tình yêu đại đồng, chân trời rộng mở




 





[1] Trích lại trong T/Đ Thiên Chúa là Tình Yêu của đức Benedicto XVI, số 4.
[2] Xc. Thông Điệp  Thiên Chúa là Tình Yêu của đức Benedicto XVI, số 4

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Top