Vượt trên nguyên tắc công bằng
Con người
không ngừng đi tìm một thế giới công bằng hơn. Con người tìm các thể chế chính
trị, đặt ra các qui luật xã hội, đề ra nhiều biện pháp trong các tổ chức, thậm
chí ngay trong đời sống gia đình hoặc các cộng đoàn tu trì… để cuộc sống con
người với nhau thể hiện được một sự công bằng. Thế nhưng, nói cho cùng, xã hội
con người đã không bao giờ và cũng sẽ không bao giờ có được một sự công bằng
trọn vẹn. Xã hội công bằng là một thứ lý tưởng mà con người khao khát một cách
cụ thể và thiết thân trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại không bao giờ đạt đến
được. Tất cả những bộ luật của nhân loại, tất cả những cuộc đấu tranh cho công
bằng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, thật ra, cũng chỉ là một “chút đường”
bỏ vào “bể muối mênh mông của bất công".
Vấn đề có
lẽ không phải chỉ do năng lực yếu kém của các nhà chính trị, các nhà xã hội,
cũng không phải chỉ do lòng tham không đáy của con người; không phải chỉ do cơ
cấu tổ chức mà không cũng không phải chỉ do bản chất tội lỗi của con người. Chính
xác hơn, bất công là một thực trạng có một bề dày lịch sử lên đến tận ngọn
nguồn của đời sống con người; bất công là một thực trạng dính dáng rộng rãi cho
đến tận những người ở góc xó của thế giới; bất công vẫn không ngừng lây lan vào
mọi lãnh vực, bất công không ngừng phát sinh trong những bước con người hướng
đến tương lai… Khi một em bé được cưu
mang và được sinh ra, em bé ấy đã gánh chịu hoặc đã vô tình hưởng thụ nơi bản
thân nó vô cùng những bất công của cuộc đời, bất công của lịch sử, bất công của
dân tộc này với dân tộc kia, bất công của môi trường xã hội có từ thời ông bà
tổ tiên của cháu bé, bất công của làng xóm, bất công của luật lệ xã hội, bất
công ngay trong gia đình… Rồi trên hành trình cuộc đời, mỗi bước đi của em bé
cũng đều được đan dệt nối tiếp trên những thành quả của bất công đã có từ trước…
Đấu tranh
chống bất công nhân danh công bằng, dựa vào luật pháp hay quyền con người, là
điều cần làm trước mắt. Nhưng làm sao những cuộc đấu tranh cho công bằng có thể
giải quyết được hết bài toán bất công trong cả chiều sâu, chiều rộng của nó ? Dĩ
nhiên là chúng ta không bao giờ được coi thường những nỗ lực đấu tranh cho công
bằng, hoặc làm giảm nhẹ tầm quan trọng của những cuộc đấu tranh ấy. Nhận diện
ra được đại dương của bất công là để không ai được quyền an thân trong hoàn
cảnh may mắn nào đó của mình; không ai được quyền bào chữa cho mình khỏi chịu
trách nhiệm trước những khổ đau của người khác; không ai được quyền sống theo
kiểu “bàn tay sạch”, hoặc “đi cà khêu” giữa cuộc đời; không ai được quyền an ổn
với một cuộc sống lành mạnh mà thôi… Một ảo tưởng về sự công bằng cũng đã là
một sự bất công. Bởi vì chính ngay "chỗ đứng" mà ta cho là công bằng
để đấu tranh, thật ra cũng chẳng công bằng. Suy cho đến ngọn nguồn, thì chỗ
đứng nào cũng đã bị nhuốm bùn của bất công. Ảo tưởng nhân danh sự công bằng để
đấu tranh với bất công thường là lại mở ra và củng cố những bất khác một cách
tinh vi và khốc liệt hơn, bởi vì người ta đã cố tình quyên đi cái bất trong
ngay trong bản thân của chính mình. Do đó, tất cả những thứ cách mạng nhằm
“chia đều lợi tức”, cào bằng… đều rơi vào một sự bất công khác.
Muốn đấu
tranh chống bất công tận gốc, phải nhân danh nguyên lý “mắc nợ nghĩa tình”.
Cuộc đời, tự nó, đã đặt tất cả mọi người vào trong một tình trạng mắc nợ nhau
quá nhiều. Trong cuộc sống này, mỗi người đều là "con nợ" và là
"chủ nợ" của nhau. Trong tình trạng mắc nợ chống chất lẫn nhau ấy, thực
sự người ta không thể sử dụng một lý lẽ nào để minh giải trắng đen, không thể
xử dụng một khoản luật nào để quyết đoán sòng phẳng; nhưng mỗi người chỉ có thể
sống tâm tình mắc nợ nghĩa tình đối với nhau. Tâm tình "mắc nợ nghĩa
tình" không phải là một thứ xuê xoa "chín bỏ làm mười", nhưng là
một thái độ đảm nhận lấy trách nhiệm cuộc sống như một sứ mệnh "trả nợ
đời".
Trở về với
nguyên lý của Kitô giáo, chúng ta hiểu rằng con người được Thiên Chúa sáng tạo
từ hư vô. Tất cả những gì mỗi một con người có được trong cuộc sống đều là đã
được lãnh nhận :
"Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu ? Bạn có
gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể
đã không nhận lãnh ?" (1Cr 4,7)
Hơn nữa,
trong truyền thống Kitô giáo, tất cả những gì một con người được lãnh nhận đều
là những "nén bạc" Thiên Chúa ban cho để làm lời; nghĩa là không có
một ơn nào Thiên Chúa ban cho ai đó để "hưởng một mình", để "xài
riêng". Tất cả mọi ơn huệ Thiên Chúa ban đều là ơn huệ chung và được trao
cho một ai đó "quản lý". Tất cả mọi ơn huệ Đức Maria được hưởng, các
thánh được nhận… bao giờ cũng nhăm mục đích chính là hướng tới mọi thành phần
trong Giáo Hội. Mầu nhiệm "Hội Thánh cùng thông công" không phải chỉ
gói trọn trong các ơn phúc thiêng liêng, nhưng dính dáng đến hết mọi sự trong
cuộc đời của con người.
Chính vì
thế, có thể nói tâm tình "mắc nợ nghĩa tình" là một trong những nét
tinh thần đặc trưng của Kitô giáo.
"Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân
tương ái ; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật." (Rm 13,8)
Chính tâm
tình ấy mới thực sự là động lực căn bản cho hành trình vươn lên của xã hội con
người, chứ không phải một thứ lý trí công bằng, được đề cao quá đáng từ những
thế kỷ trước ở Tây phương. Chỉ nguyên lý mắc nợ nghĩa tình mới có thể thôi thúc
một tình yêu hy sinh, một yếu tố không thể nào thiếu cho tâm hồn con người và
ngay cả cho vận hành của xã hội loài người. Người ta có thể thấy rõ điều ấy
trong “vận hành” của đời sống gia đình.
Chỉ trong
nguyên lý mắc nợ nghĩa tình người ta mới có thể dấn mình vượt qua mức độ “thuận
mua vừa bán” để khai mở cho thế giới tình nghĩa, thế giới “tặng không” và “lãnh
nhận với lòng tri ân”. Một thế giới phòng vệ, đối phó, tính toán…. thì không
bao giờ có thể bắt đầu đi vào hành trình nghĩa tình. Người sống nguyên lý mắc
nợ nghĩ tình thật sự là người dám đi bước trước, dám bắt đầu một trách nhiệm
với tinh thần tự nguyện, dám chấp nhận “nắm đằng lưỡi” trong cuộc đổi trao… ;
Có những
người Kitô hữu tâm sự rằng, từ khi vào hội đoàn, tôi thấy mình càng thêm tội,
tranh cãi nhiều, buồn bực nhiều, nói xấu nhiều… Đó là một thực tế khó có thể
chỗi cãi. Tuy nhiên, thái độ rút lui, an thân thì lại chẳng khác gì tuyên bố
rằng : tay tôi đã sạch, ai lao vào bếp để dọn bàn tiệc Nước Trời thì cứ việc
làm; khi nào dọn bàn xong, nhớ gọi tôi vào ăn với…
Thái độ an
thân như thế thực ra đã là kẻ bẩn từ bên trong. Đó là thái độ của những người
không dám liên lụy với ai, không dám chịu phiền hà vì ai, không dám cho đi
chính bản thân và không dám đi vào hành trình của hạt lúa, chết đi mới sinh
nhiều bông hạt…
Nguyễn Trọng Viễn O.P.
5.1 Dám vượt trên nguyên tắc công bằng
Con người không ngừng đi tìm một thế giới công bằng hơn. Thế
nhưng, nói cho cùng, xã hội con người không bao giờ có được một sự công bằng
trọn vẹn. Hoặc đúng hơn, tất cả những bộ luật của nhân loại, tất cả những cuộc
đấu tranh cho công bằng vĩ đại nhất trong lịch sử, thật ra cũng chỉ là một
“chút đường” bỏ vào “bể muối” mênh mông của bất công. Một con người được cưu
mang và được sinh ra, em bé ấy đã gánh chịu hoặc đã vô tình hưởng thụ nơi bản
thân nó vô cùng những bất công của cuộc đời, bất công của lịch sử, bất công của
dân tộc này với dân tộc kia, bất công của môi trường xã hội có từ thời ông bà
tổ tiên của cháu bé, bất công của làng xóm, bất công của luật lệ xã hội, bất
công ngay trong gia đình… Rồi trên hành trình cuộc đời, mỗi bước đi của em bé
cũng đều được đan dệt trên những thành quả của bất công…
Dĩ nhiên là chúng ta không bao giờ được coi thường những nỗ
lực đấu tranh cho công bằng, hoặc làm giảm nhẹ tầm quan trọng của những cuộc
đấu tranh ấy. Nhận diện ra được đại dương của bất công là để không ai được
quyền an thân trong hoàn cảnh may mắn nào đó của mình; không ai được quyền bào
chữa cho mình khỏi chịu trách nhiệm trước những khổ đau của người khác; không
ai được quyền sống theo kiểu “bàn tay sạch”, hoặc “đi cà khêu” giữa cuộc đời.
Một ảo tưởng về sự công bằng cũng đã là một sự bất công; và cũng nguy hiểm
chẳng kém gì chính sự bất công lu lù mà ai cũng thấy được.
Hơn nữa, còn có một ảo tưởng khác không kém nguy hiểm, tạm
nói là ảo tưởng nhân danh sự công bằng để đấu tranh với bất công. Bởi vì tự
“chính chỗ” đứng mà ta cho là công bằng để đấu tranh, thật ra cũng chẳng công
bằng. Suy cho đến ngọn nguồn, thì chỗ đứng nào cũng đã bị muốm bùn của bất
công. Trong thực tế, đấu tranh chống bất công nhân danh công bằng, dựa vào luật
pháp hay quyền con người, là điều cần làm trước mắt; nhưng suy cho cùng của
cuộc đời, muốn đấu tranh chống bất công tận gốc, phải nhân danh nguyên lý “mắc
nợ nghĩa tình”. Do đó, tất cả những thứ cách mạng nhằm “chia đều lợi tức”, cào
bằng… đều rơi vào một sự bất công khác. Cuộc đời, tự nó, đã đặt tất cả mọi
người vào trong một tình trạng MẮC NỢ nhau quá nhiều. Trong cuộc sống ấy, người
ta mà chỉ có thể TRẢ NỢ ĐỜI bằng một tâm tình MẮC NỢ NGHĨA TÌNH; và tâm tình ấy
lại chính là một động lực căn bản cho hành trình vươn lên của xã hội con người,
chứ không phải một thứ lý trí công bằng, được đề cao quá đáng từ những thế kỷ
trước ở Tây phương.
Chỉ nguyên lý mắc nợ nghĩa tình mới có thể thôi thúc một
tình yêu hy sinh, một yếu tố không thể nào thiếu cho tâm hồn con người và ngay
cả cho vận hành của xã hội loài người. Người ta có thể thấy rõ điều ấy trong
“vận hành” của đời sống gia đình.
5.2 Thể hiện một tình yêu đi bước trước
Chỉ trong
nguyên lý mắc nợ nghĩa tình người ta mới có thể dấn mình vượt qua mức độ “thuận
mua vừa bán” để khai mở cho thế giới tình nghĩa, thế giới “tặng không” và “lãnh
nhận với lòng tri ân”. Một thế giới phòng vệ, đối phó, tính toán…. thì không
bao giờ có thể bắt đầu đi vào hành trình nghĩa tình. Như thế, người ngôn sứ của
tình yêu hy sinh thật sự là người dám đi bước trước, dám bắt đầu một trách
nhiệm với tinh thần tự nguyện, dám chấp nhận “nắm đằng lưỡi” trong cuộc đổi
trao… ; và có lẽ điều đó, trước tiên cần thể hiện trong đời sống đức tin của
người Kitô hữu. Một người Kitô hữu sống “đối phó” với Chúa, Chúa bắt làm tới
đâu thì ta làm tới đó… thì thật ra người đó chưa phải là một Kitô hữu đích
thực, một Kitô hữu đón nhận chính tình yêu hy sinh của Đức Giêsu và sống theo
bước chân của Ngài.
5.3 Dám dấn thân liên lụy với đời
Có những
người Kitô hữu tâm sự rằng, từ khi vào hội đoàn, tôi thấy mình càng thêm tội,
tranh cãi nhiều, buồn bực nhiều, nói xấu nhiều… Đó là một thực tế khó có thể
chỗi cãi. Tuy nhiên, thái độ rút lui, an thân thì lại chẳng khác gì tuyên bố
rằng : tay tôi đã sạch, ai lao vào bếp để dọn bàn tiệc Nước Trời thì cứ việc
làm; khi nào dọn bàn xong, nhớ gọi tôi vào ăn với…
Thái độ an
thân như thế thực ra đã là kẻ bẩn từ bên trong. Đó là thái độ của những người
không dám liên lụy với ai, không dám chịu phiền hà vì ai, không dám cho đi
chính bản thân và không dám đi vào hành trình của hạt lúa, chết đi mới sinh
nhiều bông hạt…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét