Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
Trong số Thời Sự Thần Học 56 mới
đây, nhằm mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martino de Porres được phong hiển thánh, chúng
ta đã được linh mục Phan Tấn Thành trình bày tóm tắt những quan niệm thần học
về chữ caritas, dựa theo hai thông điệp của đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est
và Caritas in veritate. Những quan niệm này, theo ba song luận “eros-agape”;
“caritas-veritas”; và “caritas-justitia”, đã được phân tích khá tỷ mỷ và súc
tích.
Có một lối nhìn khác mà tôi thích
thú hơn, đó là lối nhìn của linh mục Henri J.M. Nouwen, trong tác phẩm Những
Dấu Chỉ của Sự Sống. Cha Nouwen, theo gợi ý của một người bạn chuyên phục vụ
người khuyết tật, Jean Vanier, đã khám phá ba dấu chỉ đặc biệt của tình yêu
Kitô giáo trong Tin Mừng : mật thiết, phong phú và xuất thần.
Có lẽ có thể nhìn một cách đơn
giản hơn : trong Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một[1].
Rồi chân lý được gồm gói trong đức Kitô, đức Ái hay tình yêu cũng được gồm gói
trong đức Kitô. Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas là một, thì trong đức Giêsu
Kitô, chân lý và đức ái cũng vẫn là một[2];
và là một trong mầu nhiệm Nước Trời. Mầu nhiệm Nước Trời thể hiện cả chân lý và
tình yêu một cách phong phú vô tận và linh diệu bất ngờ. Với mầu nhiệm ấy, điều
cần thiết không chỉ là nghiên cứu như một vấn đề, nhưng còn cần “chiêm ngắm”[3].
Đây là huyền nhiệm phong phú và linh diệu của Nước Trời nơi cuộc đời một con
người hèn mọn nhất trong các vị thánh, và thánh nhất trong những người hèn mọn,
đó là thánh Martino de Porres. Cũng cần phải nói thêm là : chân lý của Chúa ban
cho ta là chân lý cứu độ; và tình yêu Thiên Chúa ban cho ta cũng là tình yêu
cứu độ. Chỉ trong ý nghĩa cứu độ, chỉ trong vận hành của lịch sử cứu độ mà chân
lý và tình yêu của Chúa mặc khải cho con người mới được sáng lên, sáng lên ý
nghĩa huyền nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta có thêm một tiêu chuẩn để phân
biệt những thứ chân lý/tình yêu giả với chân lý/tình yêu thật; và để hiệp nhất
những thứ chân lý và tình yêu có vẻ khác nhau nhưng lại đích thực là một trong
cùng vận hành cứu độ.
1. Mầu nhiệm Nước Trời
1.1 Sám hối vì Nước Trời
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công
khai bằng lời loan báo Mầu nhiệm Nước Trời, và Ngài cũng cho thấy cách thức để
đi vào mầu nhiệm ấy chính là sự sám hối.
“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao
giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Tại sao phải sám hối ? Sám hối là
từ bỏ tội lỗi, sám hối là thay đổi lối sống, nhưng sâu xa hơn hết, sám hối là
thay đổi não trạng, thay đổi cách nghĩ. Đó là vì mầu nhiệm Nước Trời luôn là
điều bất ngờ có tính cách đảo ngược. Chẳng phải chỉ những người Do Thái thời
Chúa Giêsu cần phải sám hối, thay đổi não trạng để có thể “hiểu” được Nước
Trời, nhưng chính Hội Thánh trong suốt hành trình của mình, cũng như mỗi người
Kitô hữu, trong suốt hành trình tâm của mình, vẫn luôn phải sám hối, vẫn luôn
phải nhờ Thánh Thần Chúa để có thể thay đổi não trạng.
Có lẽ đây là một điều mà người
Kitô hữu hiện nay phải lưu ý nhiều. Với đa số người tín hữu, sám hối bị giản
lược thành bản so sánh đời sống hằng ngày với Thập Điều của Cựu Ước. Với những
linh mục, tu sĩ, hình như người ta lấy việc học hỏi, nghiên cứu để hiểu Nước
Trời hơn là một sự rộng mở để Thánh Thần Chúa thay đổi não trạng. Nếu nghiên
cứu và học hỏi có thể cho ta hiểu được một phần nào mầu nhiệm Nước Trời, thì
sức mạnh để đi vào Nước Trời vẫn luôn là ân sủng, vẫn luôn bắt nguồn từ chính
tình yêu và chân lý cứu độ được Thánh Thần khai mở ra cho Hội Thánh và cho mỗi
người tín hữu. Chính vì thế mà một con người hèn mọn như thánh Martinô lại có
thể biểu lộ mầu nhiệm Nước Trời rõ rệt hơn hết trong một tu viện Đa Minh cũng
như nơi thành phố Lima
thời ấy.
Quả thật, nếu để ý một chút, chúng
ta sẽ thấy rõ tính mầu nhiệm Nước Trời luôn có tính cách đảo ngược. Từ việc
Ngôi Lời trong vĩnh cửu nay trở nên xác phàm, từ việc Chúa chọn đức Maria, một
cô gái đồng trinh, vô danh tiểu tốt, để làm mẹ, từ việc Chúa chọn một gia đình
dân thường chứ không phải gia đình quyền quí, và chọn sinh ra trong hang đá bò
lừa… cho đến Bài giảng trên núi; cho đến cung cách thể hiện “lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt
9,13); cho đến lời dạy về quyền bính trong cộng đoàn Hội Thánh; cho đến những
giáo huấn trong diễn từ cáo biệt; và cho đến cách người đi vào cuộc Tử nạn–Phục
sinh…., tất cả đều là một sự đảo ngược kỳ lạ đối với cách nghĩ thông thường của
con người. Ta có thể nói được rằng ai không thấy được tính đảo ngược của Chúa,
thì cũng chưa thấm nhuần mầu nhiệm Nước Trời. Trong khi đó, cám dỗ của con
người luôn là muốn thích nghi, thoả hiệp Nước Trời với nước thế gian, nước thế
gian trong cách nghĩ đầy lý lẽ của mình, nước thế gian trong lối sống tà tà của
mình, nước thế gian trong cơ chế tổ chức của cộng đoàn hay của chính Hội Thánh,
nước thế gian trong những giá trị hão huyền như danh giá,…
Nước Trời
mời gọi sám hối, mời gọi người tín hữu liên tục sám hối, mời gọi chính cơ chế
Hội Thánh hay cộng đoàn sám hối. Nếu sống đức tin, theo tinh thần Vatican II,
là sống đời mình như một lịch sử ơn cứu độ, nghĩa là sống chính lịch sử đời
thường của mình trong sự sám hối cách nghĩ, cách chọn giải pháp, cách phản ứng…
của mình trong sự so chiếu với mầu nhiệm Nước Trời, thì ta lại càng thấy rõ
tính cách thiếu sám hối chân chính, cả nơi những nhà nghiên cứu Kinh Thánh,
“đấng bậc” cũng như nơi đời sống người tín hữu nói chung. Nước Trời là một sự
đảo ngược, nên cần thiết phải có một phương thức đảo ngược cách nghĩ, một lòng
sám hối chân thực (métanoia) để đi vào Nước Trời.
Mầu nhiệm đảo ngược căn bản chính
là mầu nhiệm Thập Giá. Thập giá xưa kia là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là
sự chướng kỳ đối với người Do Thái, thì ngày nay, Thập Giá vẫn luôn là những
khác biệt mang tính đảo ngược đối với cách nghĩ cũng như thực tế cuộc sống xã
hội và Giáo Hội, ở đây và lúc này.
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn
người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô
bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân
ngoại cho là điên rồ. (1 Cr 1, 22-23 )
Tại sao lại
đảo ngược ?
Chúng ta có
thể tìm thấy câu trả lời trong cách nói của ngôn sứ Isaia : đường lối của Chúa
vượt cao hơn đường lối của con người (Xc. Is 55,9). Đường lối của Chúa cao hơn
không phải chỉ vì Chúa khôn ngoan hơn, nhưng còn là vì Thiên Chúa yêu thương
nhiều hơn, tình thương lớn hơn của Chúa vượt quá cách suy nghĩ tầm thường của
con người. Như đã nói, nơi Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một; nơi đức Kitô,
chân lý và tình yêu là một; nơi mầu nhiệm Nước Trời, chân lý và tình yêu cũng
là một. Tính cách hoà hợp đó cũng thể hiện nơi những gì được sáng tạo trong
Ngôi Lời có từ muôn thuở và sứ điệp Nước Trời của đức Giêsu. Tính cách hoà hợp
ấy cũng thể hiện trong mầu nhiệm cứu độ mà những ai biết Chúa Cha thì cũng biết
Chúa Giêsu… Thế nhưng, con người đã không dễ dàng thấy được sự hoà hợp ấy, nên
đã phân ly những gì Thiên Chúa đã nối kết; để rồi nhân danh chân lý để làm
những điều phản lại tình yêu, hoặc nhân danh tình yêu để làm những điều sai
trái.
Làm sao giữ
được nét hoà, nét duy nhất giữa chân lý và tình yêu ?
Chúng ta có
thể thấy một chút ánh sáng hướng dẫn khi nhìn lại sự tiến triển về quan niệm
mạc khải từ công đồng Vatican
I đến Vatican II. Trong khi, đối với Vatican I, mạc khải là Thiên Chúa mạc khải
những chân lý vô ngộ của Ngài, thì đối với Vatican II, mạc khải lại là mạc khải
chính bản thân của Chúa.
“Thiên Chúa nhân lành và
khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh
ý Ngài {X. Ep 1,9}. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô,
ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên
Chúa {X. Ep 2,18; 2P 1,4}. (MK 2)
Chúng ta cũng biết, Vatican II đã
thêm vào một phương thức mạc khải của Thiên Chúa, Thiên Chúa không chỉ mạc khải
bằng Lời, nhưng còn bằng hành động. Cả Lời cũng như hành động của Thiên Chúa
đều chỉ là mạc khải chính bản thân Ngài. Nơi bản thân Ngài, chân lý và tình yêu
là một, và trong mạc khải cứu độ của Ngài, chân lý cứu độ cũng như tình yêu cứu
độ chỉ là một.
“Công cuộc mạc khải này
được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên
các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và
những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và
khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về
Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con
người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của
toàn thể mạc khải” {MK 2a}.
Thật ra,
con đường của triết gia Parménide (khoảng 540-470), đồng nhất hữu thể với tư
tưởng, để rồi triết lý chỉ việc ráp nối các tư tưởng, chính con đường đó đã
chia lìa, phân đôi mọi thực tại, lãnh vực lý thuyết dần dần khác với lãnh vực
thực hành; rồi đến một lúc nào đó, lãnh vực siêu hình lại trái ngược với lãnh
vực luân lý. Ngược lại, từ tư tưởng của Héraclite (khoảng 540-475), người ta thấy
rằng : ở đỉnh cao minh triết, siêu hình và luân lý đồng nhất với nhau; còn ở
đáy sâu của thứ triết lý vụn vặt, thì siêu hình[4]
khẳng định một đàng, luân lý lại đòi hỏi một đàng khác. Đó cũng là con đường
lãng quên hữu thể của triết học Tây phương.
Cũng gần
giống như vậy, chính con đường xa rời “bản thân Chúa”, khiến cho chân lý và
tình yêu xa rời nhau; khiến cho nhiều khi ta muốn thực hành chân lý thì lại
thấy ngược với đức ái, và nhiều khi thực hành đức ái thì lại ngược với chân lý.
Cuộc sống nhân trần thì không có
sự đồng nhất tất nhiên giữa hai lãnh vực khác nhau, không có sự hoà hợp dễ dàng
giữa chân lý và đức ái, nhưng người tín hữu thì, đúng ra, chỉ có một điều cần
thiết mà thôi, đó là chọn Chúa Giêsu, theo Chúa Giêsu. Chính bản thân Chúa
Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống (Xc. Ga 14,6), chứ không phải một con
đường nào, một sự thật hay sự sống nào khác. Người Kitô hữu chọn Chúa Giêsu thì
chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là muốn những gì Chúa muốn, làm những gì đẹp
ý Chúa… Cũng thế, Thánh Thần, trong Tân Ước, không còn được hiểu là một năng
lực mà người tín hữu có thể chiếm hữu và “cất trong túi”, nhưng là một Đấng mà
người tín hữu chỉ có thể sống-với, để cho Ngài đồng hành và để Ngài “nói” khi
ta phải ra trước “công hội” (Xc. Mc 13,11).
Có con
đường của thánh Thomas, thiết tha đi tìm chân lý của Chúa, nhưng vẫn luôn là
khát vọng “con chỉ cần chính Chúa” như lời Thomas trả lời với Chúa trong những
ngày tháng cuối cùng của cuộc đời; và có con đường của Martinô, khởi đi từ tình
thương, khám phá lòng nhân ái của Chúa đổ xuống những người cùng khổ, và chính
cách thức sống ấy trở nên một sự cật vấn cho những người chỉ biết có một thứ
chân lý khô khẳng. Cả hai con đường đó đều là con đường tìm kiếm chính Chúa,
tìm kiếm Nước Thiên Chúa, cả hai đều là phương thức thể hiện con đường “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” trước hết (Xc.
Mt 6,33). Đây chính là con đường của những vị thánh, khác với con đường của
những học giả hoặc những người làm việc xã hội thuần tuý. Con đường tìm kiếm
Thiên Chúa, “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước” sẽ đưa các thánh vượt qua những
đối lập trong thế giới con người, để hoá giải những đối lập ấy trong chính bản
thân của Chúa Giêsu. Cái “trước” ở đây không phải chỉ theo nghĩa thời gian,
nhưng là một sự ưu tiên, một sự nắm chắc lấy chính Chúa trong nỗi thiết tha đi
tìm “Danh Cha, Nước Cha và Ý Cha”. Những gì Ngài sẽ ban cho sau cũng không phải
chỉ là của cải, không phải chỉ là sự thành đạt, nhưng còn là nét hoà trong chân
lý và tình yêu mà trước đó ta chưa thấy được. Như thế, ai đó gắn bó với bản
thân Chúa Giêsu và thiết tha đi tìm Nước Thiên Chúa thì vẫn có thể hoặc “đào
bới sách vở”, hoặc “lấy đường phố làm phòng tu”.
Từ nẻo đường của Martino, chúng
ta có thể tìm ra động lực sám hối bằng con đường tình yêu. Thay vì những hiểu
lầm của người Do Thái về Đấng Mêsia quyền lực cũng như về mầu nhiệm Nước Trời
như vương quốc trần gian, người Kitô hữu có thể khám phá thấy trong mầu nhiệm
Nước Trời có động lực của mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa luôn cao hơn cách
nghĩ của con người. Chúng ta có thể chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa
trong mầu nhiệm Nước Trời, xét như một sự đảo ngược cách hiểu của con người, để
rồi nhận ra chính tình yêu thương lạ lùng của Thiên Chúa là căn nguyên tạo nên
mọi sự đảo ngược ấy. Tình yêu Thiên Chúa trở thành một thách đố với cách hiểu
thông thường, và thôi thúc sám hối. Sám hối là sám hối vì tình yêu Thiên Chúa
và sám hối là thay đổi não trạng để hiểu huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên
Chúa, vì chính huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như một bóng dáng bao
trùm và ẩn khuất trong mầu nhiệm Nước Trời.
2. Huyền nhiệm Tình thương nơi thánh Martino
2.1. Tình yêu xuất hiện trong “cái với”
2.1.1 “Cái có”
G. Marcel
định nghĩa “cái có” là cái ở bên ngoài mình và không trực tiếp gắn liền với sự
thăng tiến hay suy giảm phẩm chất của cuộc đời. Có điểm cao, có lời khen, có
địa vị, có tiền bạc… những điều ấy không trực tiếp làm cho đời mình giỏi hơn,
tốt hơn, hoàn hảo hơn. Con người cần “cái có”, và khoa học giải quyết nhu cầu
này. Thế giới ngày nay là thế giới của khoa học. Khoa học mang lại nhiều “cái
có” giúp cho cuộc sống được dễ dàng hơn: có nhà, có xe, có tiền, có máy móc… Khoa
học giúp cho cuộc sống được thanh thản hơn nhiều. Rồi “cái có” ra như có khả
năng giải quyết nhiều vấn đề thật mau chóng và cũng mau chóng trở nên ưu tiên
số một đối với nhiều người trong xã hội ngày nay. Thật ra, ngày nay, người ta
biến cái “huyền nhiệm” nằm sâu trong cuộc đời con người thành những “vấn đề”
bên ngoài, ở đằng trước hành trình cuộc đời mình. Vấn đề thì có thể được giaỉ
quyết do một ai khác, bằng một “cái có” nào đó… Đó là nẻo đường khiến người ta
rơi vào ảo tưởng : có tiền mua tiên cũng được. Quả thật, thế giới “cái có” đang
dần dần xâm chiếm hết tâm và trí của con người ngày nay, đến độ, một thứ dầu
gội đầu, hoặc một đôi dép cũng được quảng cáo như có thể làm cho người ta “tự
tin” hơn hoặc đóng góp vào sự thành công của đời mình. Cách giải quyết “vấn đề”
như thế không đụng vào được “huyền nhiệm” đời người. Đó chỉ là một cách chạy
trốn vấn đề thật, vấn sâu xa mang tính huyền nhiệm của mỗi cuộc đời con người.
Cách thức ấy đưa đến tình trạng gọi là “xã hội mất căn tính”. Chẳng hạn : quy
trình sống của người thợ mộc là : làm ra cái bàn, đem bán lấy tiền, mua những
đồ dùng khác… Trước đây, mối liên hệ ưu tiên là người thợ mộc thể hiện mình
trong việc làm ra cái bàn; cái bàn phải được đóng đúng quy cách, phải tốt vì
điều đó biểu lộ chính giá trị bản thân của người thợ. Ngày nay, người thợ mộc,
bị cuốn hút vào mục tiêu làm sao có tiền để mua các đồ dùng khác; vì người ta
không cần biết anh ta có là thợ mộc chân chính hay không, người ta chỉ cần nhìn
xem anh có nhiều đồ dùng đáng giá hay không. Khi đó, người thợ cũng treo giá
trị bản thân của mình vào những đồ dùng mua sắm, và đánh mất lương tâm nghề
nghiệp, đánh mất “cái là” chân chính như một người thợ. Người ta đặt hết nền
tảng đời mình vào “cái có”; và “cái có” thì có thể dễ dàng bị chiếm, bị mất.
Khi mất “cái có”, cuộc đời đó sẽ trở nên trống rỗng, người ta nhận ra sự trống
rỗng của “cái là”, …và người ta dễ đi đến lựa chọn tự tử…
Gabriel
Marcel nói : người nào quá thiên về phạm trù có, sẽ giảm thiểu hoặc đánh mất “cái
là”.
2.1.2 Cái là
Triết học
thì nhắc nhở người ta về ý nghĩa chân chính của cuộc đời; nhắc nhở về phẩm tính
của “cái là”, phẩm tính của hiện hữu người. “Cái là” giúp ta tìm được một căn
bản tự tại trong chính bản thân mình, để mình có thể vững vàng trước những biến
động hời hợt của “cái có”. Những lời khen chê, những thành công hay thất bại
không có tầm quan trọng quyết định cho cuộc đời mình nữa, nhưng chính phẩm chất
thực sự của mình mới là điều quan trọng. Ai biết nhận ra “cái là” của mình,
người ấy sẽ tìm được nẻo đường thăng tiến thực sự trong hiện hữu của mình. Hai
đứa học sinh, cùng dốt như nhau, cùng copy bài như nhau, cùng được điểm 10 như
nhau. Một đứa thì khoái chí; đó là đứa chỉ biết “cái có”. Đứa khác thì mắc cở
vì điểm 10; đây là đứa biết nhận ra sự quan trọng của “cái là”.
Để đi từ
thế giới “cái có” sang thế giới “cái là”, người ta cần lột bỏ một thứ mặt nạ
giả hình ở cấp độ một.
2.1.3 “Cái với”
Thế nhưng, có
nhiều điều, ở bình diện xã hội, vốn là “cái là”, thì trong bình diện tình yêu,
cũng như trong bình diện đức Tin, lại chỉ là “cái có”. Tôi không chỉ có điểm
cao, nhưng tôi thực sự là một học sinh giỏi. “Trình độ” của tôi không phải là
cái có bên ngoài, mà là cái nằm bên trong tôi. Tôi tài thực sự chứ không phải
là nhờ danh tiếng, tôi đạo đức thực sự chứ không phải là do chức tước, tôi tốt
lành thực sự chứ không phải chỉ do khen ngợi…, đó là những “cái là” của tôi.
Tuy nhiên, so với bình diện bản thân, tất cả những điều ấy lại vẫn là “cái có”,
và vẫn có thể bị mất đi, trong khi bản thân của tôi vẫn còn đấy. Có những điều
ra như ở trong tôi, nhưng thật sự vẫn khác với bản thân, vì đến một lúc nào đó,
chúng vẫn có thể tách rời khỏi tôi. Có lúc bản thân tôi vẫn còn đó, nhưng trình
độ của tôi đã suy giảm hoặc mất đi; đến lúc nào đó tron g cuộc đời, cả tài
năng, sức khoẻ, sắc đẹp và ngay cả đức độ cũng có thể “chấp cánh bay xa” khỏi
bản thân tôi. Trong tình yêu, nếu tôi tin vào của cải, tin vào danh tiếng để
đổi lấy tình yêu, tôi “sẽ bị người đời
khinh dể”, như sách Diễm Ca đã nói (Xc. Dc 8,7). Nhưng nếu tôi tin vào tài
năng, tin vào đức độ… để mong có được tình yêu của ai khác, thì tôi vẫn không
thực sự biết yêu. Chìa khoá thực sự của tình yêu là sự thuộc về nhau, thuộc về
nhau bằng chính bản thân của mình. Cái gì khác với bản thân thì vẫn chỉ là “sự
vật”; tình yêu chân chính không phải là đổi chác nhưng “sự vật” xung quanh bản
thân. Yêu thương là chấp nhận chính bản thân của ai khác, và nhận ra bản thân
của hai bên “thuộc về nhau”[5].
Nếu tôi đi vào tình yêu, đi vào đức Tin với những tài năng, đạo đức thật của
tôi, thì đó vẫn là cách hiện diện với người khác như là kẻ không thuộc về nhau.
Ở đây, ta
thấy xuất hiện chiều kích đặc biệt của Kitô giáo : “cái với”. Kitô giáo không
phải là đạo luân lý, nghĩa là một bài toán dựa vào sự dò xét, cân đong đo đến
đức độ để thưởng công hay ra hình phạt. Phẩm chất Kitô đặt nền trong một giao
ước mang tính bản thân. Khi lãnh bí tích Rửa Tôi, tôi mang chính bản thân tôi
ra để đóng vào giao ước, tôi chết đi cho con người cũ để sống một con người mới
hoàn toàn thuộc về Chúa. Về phía Chúa, Chúa cho chính Con Một của Ngài chịu
chết cho tôi. Giao ước bản thân đó làm nên một cộng đồng ngôi vị, giống như và
trổi vượt hơn gia đình.
Trong vận
hành từ “cái là” của bình diện xã hội đến “cái với” trong tình yêu và trong đức
Tin[6],
lại cần sự lột bỏ mặt nạ một lớp nữa, lột bỏ cả “cái là” giả tạo để nhận ra con
người của mình, bản thân trần trụi của mình, và nhận ra phẩm giá thực sự của
mình trước tình yêu, và trước mặt Chúa. Yêu nhau là tặng không sự chân nhận bản
thân của ai khác chứ không phải là trao đổi những thứ “sự vật”. Chỉ trong tình
yêu như thế, hai người mới “thuộc về nhau” thực sự. Cũng thế, phẩm giá thực sự
của con người là thụ tạo của Chúa, được Chúa tặng không phẩm giá là “con cái”,
được “đồng thừa tự” với Chúa Giêsu… Đây mới là điều đáng quí trọng nhất của
niềm Tin Kitô giáo. Trong ý nghĩa “thuộc về nhau” tự nền tảng bản thân, “cái
với” được tỏ lộ ra.
Như thế, ta
có thể thấy huyền nhiệm tình yêu lộ rõ hơn hết trong con người và cuộc đời của
thánh Martinô, một người không bám vào một chút “cái có” nào, và cũng không bám
vào một chút “cái là” nào trên bình diện xã hội con người. Bản thân thánh
Martinô là mẫu điển hình của mầu nhiệm Nước Trời : người đầu hết sẽ nên cuối
hết, và người cuối hết sẽ nên đầu hết (Xc. Mt 19,30, //). Tôn phong Martinô lên hàng hiển thánh, đó không phải là xướng
lên một tước hiệu để vinh vang, những là loan báo mầu nhiệm Nước Trời, là khẳng
định ý nghĩa phẩm giá chân thật nhất của con người. Bởi vì con người có vận
mạng siêu nhiên, và mầu nhiệm con người chỉ sáng lên trong mầu nhiệm đức Giêsu
Kitô. (x. Vatican II, hiến chế Mục Vụ số 22).
2.2 Tình yêu trong chiều hướng lòng nhân từ
Có lẽ điều
hiểu lầm lớn lao của con người hiện đại là đánh mất ý nghĩa của dâng tặng, và ý
nghĩa của tâm tình lãnh nhận với lòng tri ân, mắc nợ nhau trong tình nghĩa. Cuộc
sống hiện đại được chuẩn hoá trên nền tảng của bài toán trao đổi. Tất cả những
thành quả to lớn, hoành tráng của xã hội hiện đại, từ những nghiên cứu khoa
học, từ những công trình kỹ thuật, từ những thành tựu văn hoá… cho đến những
tương giao đời thường… đều được vận hành theo bài toán thu-chi, lời-lỗ… và quy
luật cân bằng ấy xen dần vào cả lãnh vực tương quan nhân thân của con người với
nhau. Tôi thương anh vì anh tốt bụng, tôi trọng anh vì anh có tài năng, tôi
kính anh vì anh có đức độ, tôi xum xue với anh vì anh có địa vị… Khi anh không
còn tốt bụng, không còn tài năng, không còn đức độ, không còn địa vị, thì những
tâm tình kia cũng đương nhiên không còn xứng hợp nữa. Bài toán cân bằng ấy thật
là hợp lý nhưng cũng thật bất nhân; bởi vì con người vốn “nhân vô thập toàn”,
bởi vì con người luôn là sinh vật có bệnh, bệnh thể xác và bệnh tinh thần,
chính con người thật đó cần được đón nhận, cần được thương yêu, một tình thương
đón nhận “từ dưới chân” chứ không phải so đo mức độ cao thấp “ở trên đầu”. Khi
“cái là” cũng được lột bỏ để thay vào bằng “cái với”, thì tình yêu thương chân
thật mới được bắt đầu, bắt đầu với phẩm chất “tặng không”. Có thể nói được
rằng, trong vận hành của đời sống tâm linh, người nào quá để ý đến “cái là” sẽ
làm suy giảm hoặc đánh mất “cái với”.
Trong đức
Tin Kitô giáo, nền tảng của mọi tương quan con người với nhau được đặt trên một
nền tảng khác, nền tảng tình yêu thương của Thiên Chúa. Ở đây, có một sự biến
đổi trọng tâm hết sức bản, con người được yêu không phải là do bài toán trao
đổi nữa, do sự “bài toán” trao tặng và nguồn mạch dư dật, phong phú vô tận của
bài toán này là chính Thiên Chúa. Từ nguồn cội ấy, phẩm chất của mọi thứ tình
yêu giữa con người với nhau đều ngầm biểu lộ ý nghĩa của lòng nhân từ. Chúng ta
hiểu rằng điều căn cốt của vận hành yêu thương trong Kitô giáo là : mối tương
quan con người với nhau phải được đặt trong thế tay ba. Có Thiên Chúa ở đó; và
tình yêu con người với nhau chỉ có thể vững bền, quảng đại khi được nối kết vào
nguồn mạch tình thương nhân hậu của Thiên Chúa. Như thế, khi “tôi yêu anh” hay
“anh yêu tôi”, thì trong niềm tin Kitô giáo, cả hai đều bắt nguồn từ ý nghĩa
căn nguyên : tôi và anh đều “đáng thương” trước mặt Chúa. Do đó, phẩm chất căn
bản của tình nghĩa “tôi thương anh” hay “anh thương tôi” thì cũng đều phải thể
hiện ra trong dáng dấp lòng nhân hậu, lòng từ bi thương xót của Chúa. Đức Gioan
Phaolô II, trong thông điệp Thiên Chúa Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, nói rằng :
có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu :
“Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình
yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”[7].
Người ta có thể kể ra nhiều nhân
đức của thánh Martinô, nhưng không thể cho rằng Chúa đã thương Martinô nhiều vì
ngài nhân đức nhiều. Trước tiên, vì tình yêu của Chúa không phải một sự trao
đổi như vậy. Mặt khác, chính những nhân đức của Martinô cũng do chính Chúa ban
tặng. Nói đúng hơn, ta thấy chính vì Martinô đã khám phá ra “cái với” ở tận bản
thân trần trụi của mình, đã chấp nhận thuộc trọn về Chúa mà Martinô đã đón nhận
được nhiều hơn tình thương của Chúa. Nhân đức của Martinô thật sự cũng không là
gì khác hơn hoa trái của lòng nhân từ của Chúa, nhằm để làm chứng cho lòng nhân
ái của Chúa đối với những người cùng khổ mà Martinô được sai đến và cho Giáo
Hội ngày hôm nay. Quả thật, “tấm lòng vàng” của Thánh Martinô biểu lộ rõ nét
phẩm chất của lòng nhân hậu, trước tiên là lòng nhân hậu của Chúa dành cho
những người bé mọn, qua chính con người bé mọn Martinô.
2.3 Tình yêu hướng tới cứu cánh : Chúa là tất cả
Vận hành
tâm linh Kitô thật sự là một cách “lý giải” theo chiều hướng đảo ngược cách
nghĩ bình thường của con người, một sự đảo ngược không phải do ngẫu hứng, nhưng
là một sự đảo ngược nhằm làm rõ rệt hơn tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Ta có
thể tìm thấy huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa theo một quy luật đảo ngược : “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr
12,10). Hoặc ta có thể thấy quy luật đảo ngược đó nói chính Lời của đức Giêsu :
“tội của chị rất nhiều, nhưng đã được
tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”. (Lc
7,47).
Trong khi
đó, cách nghĩ thông thường của con người là muốn mau chóng tìm lại “dấu bằng”.
Ngay cả với Chúa, người tín hữu cũng thường mong tìm một sự xứng đáng, một ý
nghĩa công chính dựa vào công sức của mình, một tư cách hiện diện trước Chúa
bằng nhân đức của mình. Thế nhưng, chiều hướng của vận hành tâm linh Kitô chính
là một “dấu lớn hơn càng ngày càng lớn hơn”. Vận hành tâm linh giống như người
học chân chính là càng học càng thấy mình dốt; giống như đứa con, càng sống tốt
lại càng có cơ may hiểu công hơn cha mẹ nhiều hơn; giống như người cha, hoặc
người mẹ, càng tỏ bày tình thương lớn lao của mình trong việc vất vả nuôi con,
thì lại càng hiểu lòng cha mẹ đã thương mình nhiều hơn…
Kitô giáo đã đóng góp cho thế giới một phẩm chất riêng biệt
của mối tương quan ngã vị. Mối tương quan này không thể được hoá giải trong
những định luật công bằng của lý trí, nhằm tới một sự quân bình, an hoà trong
sự cân bằng. Ngược lại, tương quan ngã vị bao hàm phẩm giá tuyệt đối của những
ngôi vị, những ngôi vị có tính chủ thể, có lý trí và tự do. Mối tương quan ấy
không bao giờ là một sự trao đổi sòng phẳng, nhưng luôn mặc ý nghĩa trao tặng
và tri ân nhau. Như thế, ngay trong tương quan tình yêu đích thực của con người
với nhau, như G. Marcel nói, đã có yếu tố khẩn cầu, khẩn cầu là nhịp thở của
tình yêu.
Mối tương quan ngã vị của con
người với Thiên Chúa thể hiện một sự trao tặng tuyệt đối. Thiên Chúa trao tặng
chính bản thân Ngài, và con người chỉ có thể đón nhận món quà ấy trong lòng tri
ân tuyệt đối. Không có chuyện đổi chác, không có chuyện cân xứng, không có
chuyện tự hào về mình như những người Biệt Phái (Xc. Lc 18,9-14). Chỉ có một
hành động chân chính nhất, đó là thái độ đấm ngực kêu lên : 'Lạy Thiên Chúa, xin
thương xót con, vì là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13); chỉ
có một lời cầu nguyện căn bản nhất xứng với món quà bản thân của Thiên Chúa, đó
là lời : “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương
xót chúng tôi !" (Mt 9,27). Từ sự trao tặng ấy, con người được mời gọi
vươn tới cuộc sống sung mãn tuyệt đối trong mức độ hoàn hảo cao vời của chính
Thiên Chúa. Chúa Giêsu trao tặng cho con người Nước Trời, trong đó, hạt nhân
căn bản chính là sự hiện diện bản thân của Ngài. Quả thật, từ ý nghĩa ấy, ta
hiểu được Nước Trời luôn “đòi hỏi” triệt để và luôn có phẩm chất phong phú, dư
dật.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng
hoàn thiện.(Mt5,48)
Và :
“Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và
Biệt phái, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời”(Mt 5,20, bản dịch cha Thuấn)
Có thể nói
rằng, nếu dáng dấp của tất cả những tôn giáo và triết học khác đều hướng tới
một tình trạng quân bình như “mặt nước hồ thu”, thì thế đứng căn bản của Kitô
giáo lại chính là “một ngọn thác”. Nơi đây, con người không bao giờ có thể tách
ra khỏi nguồn nước từ bên trên của Thiên Chúa, nguồn nước ấy đổ xuống ào ạt khi
ai đó dám “dựng đứng” bản thân mình, dám dốc cạn bản thân mình để đón nhận trọn
vẹn sự sống của nguồn thác, và để cho nguồn nước ấy tuôn tràn đến anh chị em
của mình.
Thiên Chúa trao ban tất cả và Ngài
muốn là tất cả. Ngay từ đầu của đạo giao ước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra như một
Đấng muốn trở nên tất cả. Ngài không muốn chia phần sản nghiệp của Ngài với bất
cứ một thần thánh nào khác, Ngài là Chúa của Dân, Ngài lập giao ước và Ngài ghi
dấu sở hữu ngay trên thân xác của từng người dân (cắt bì), Ngài truyền lệnh
không được thờ một thứ thần nào khác, bởi vì Ngài là “thần ghen tương” :
“Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì
Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.(Xh 20,5)
Tội thờ các
thần khác được xem như tội ngoại tình, nên phải triệt để phá bỏ mọi tượng thần
và giữ một lòng trung tín tinh tuyền với Ngài :
Ngươi không được phủ phục trước các thần của chúng, cũng đừng
phụng thờ các thần ấy ; ngươi không được làm theo các việc chúng làm, nhưng
phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. (Xh 23,24)
Và chúng ta thấy rõ lệnh truyền về
thái độ phải có của Dân đối với của Chúa trong sách Đệ Nhị Luật, Chúa muốn là
tất cả chứ không muốn chia phần :
“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC
CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em)
phải ghi tạc vào lòng. 7 Anh (em) phải
lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà
cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Dnt 6,4-7)
Như thế, chúng ta hiểu những đòi
hỏi của Đức Giêsu về thái độ của người môn đệ đích thực :
"Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai
yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (Mt 10,37)
Có lẽ sự
làng nhàng của đời sống tâm linh chính do con người đã không chấp nhận Chúa là
tất cả, không muốn thuộc về Chúa trọn vẹn.
Thánh
Martinô, từ thân phận một con người hèn mọn, luôn ý thức mình là một người hèn
mọn, thấy mình đáng được bán đi làm nô lệ để nhà dòng có tiền trả nợ, thấy mình
không xứng đáng là một tu sĩ trợ sĩ trong Dòng… chính nhờ sự chân nhận ấy mà
thánh Martinô đã nối kết được đời mình vào dòng thác yêu thương ào ạt của Thiên
Chúa.
Mở ra vài vấn đề
Nhờ gặp gỡ
chính Chúa, con đường bác ái của Martino trở thành con đường chân lý. Lối sống của
Martino làm sáng lên ý nghĩa chân lý căn bản của nhân phẩm, phẩm giá của kẻ
được sống với và cùng làm với Chúa. Lòng bác ái của thánh Martinô làm sáng lên
ý nghĩa chân lý của tình thương, tình thương con người chỉ có thể trọn vẹn
trong lòng nhân từ của Thiên Chúa. Sự chấp nhận vị thế hèn mọn của Martinô làm
rõ ra thái độ chân lý của con người trước Thiên Chúa, thái độ chân nhận Chúa là
tất cả. Đóng góp đó có lẽ khó so sánh được với đóng góp của thánh Thomas hay
Catarina Sienna, khó so sánh không phải vì lớn hơn hay nhỏ hơn, nhưng vì
Martinô cũng là một “tác phẩm nghệ thuật” độc đáo của Thiên Chúa như các thánh
khác. Nghệ thuật thì không có sự so sánh cao thấp như kỹ thuật, nghệ thuật mời
gọi chiêm ngắm, và “tác phẩm Martinô” thực sự có khả năng làm ngây ngất lòng
người.
Và điều
quan trọng nữa là tình thương nơi thánh Martinô thực sự là một sức mạnh phong
phú, phong phú trong chính cuộc đời của Martinô và trong Giáo Hội, ít là trong
Giáo Hội Việt Nam
hôm nay. Lý do là vì tình thương và chân lý của Chúa thì không chỉ để chiêm
ngắm, mà còn là để sống, để dấn thân để đấu tranh. Trong linh đạo Đa Minh,
chiêm ngắm còn luôn phát sinh hoa trái phong phú trong việc trao tặng cho người
khác điều mình đã chiêm ngắm.
Quả thật, nơi thế gian này, con
người cần có một sự “thách thức”, một sự “chất vấn” hoặc một sự “đe doạ”, thì
mới có thể tìm được sức mạnh trọn vẹn của mình. Cuộc sống trần gian luôn là một
cuộc chiến, ai buông khí giới đó là kẻ đầu hàng và sẽ bị lôi kéo đến chỗ đánh
mất bản chất của mình. Ngược lại, ai nhận ra được “đối thủ” chân chính thì tìm
được sức mạnh để vươn lên mãi. Chân lý thì phải đi vào cuộc chiến và ngay tình
yêu cũng cần đi vào cuộc chiến. Dân Hy Lạp thích tranh luận, và họ thường tự
tạo ra đối thủ, tạo ra những tư tưởng đối nghịch để gia tăng sức mạnh cho lý
chứng của mình[8].
Cũng thế, nhiều khi, do mưu tính chính trị, người ta phải tạo nên kẻ thù để có
thể kích thích sự đoàn kết của dân tộc. Khi mà các môn đệ tưởng rằng đã đạt đến
đích và có thể nghỉ ngơi, thì Đức Giêsu lại mở ra một chiến cuộc khác cho các
ông :
“ Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy
không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà
đến." Đức Giê-su đáp : "Bây giờ anh em tin à ? Này đến giờ -và giờ ấy
đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình.
Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những
điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian
nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16, 30-33)
Tuy nhiên, khi người ta tạo ra một
đối thủ giả hoặc không xứng tầm, thì sức mạnh hình thành nên được cũng là sức
mạnh giả, chỉ có tính cách nhất thời. “Chân lý” được hình thành trong một cuộc
đấu tranh giả, sẽ chỉ là những chân lý vụn vặt nhất thời, bộc lộ thói mê chữ
nghĩa. Thứ tình yêu được trở nên mạnh mẽ hơn trong một cuộc chiến giả tạo, sẽ
chỉ là tình cảm bồng bột chóng qua. Vì thế, trong hành trình trần gian này,
việc nhận ra đối thủ cho đúng là một điều hệ trọng.
Trong cuộc sống trần gian, khi
người ta lựa chọn một nghề nghiệp hoặc lựa chọn một ơn gọi, lựa chọn một lối
sống hoặc lựa chọn một môi trường làm việc, thì đó đã là lựa chọn một đối thủ
cho cho cuộc chiến trần gian của mình; trong số đó, có không ít những lựa chọn
không đúng đối thủ, hoặc đối thủ không xứng tầm với vận mạng con người. Trong ý
nghĩa toàn diện của Kitô giáo, ý nghĩa của ơn gọi sống-với, ta có thể nói được
rằng : khi ta “đánh cái gì” (dĩ nhiên hiểu là cái xấu) thì sẽ có cơ may xuất
hiện ý nghĩa “đánh vì ai”; ngược lại, khi ta “đánh ai”, thì sẽ có nguy cơ lộ
diện ý nghĩa “đánh vì cái gì”. Một đàng là “dấn thân vì ai đó”, một đàng là
“dấn thân vì sự vật nào đó”. Thiết nghĩ sơ đồ nói trên đó cũng là một cách để
hiểu sự duy nhất trong mầu nhiệm Nước Trời, duy nhất trong ý nghĩa cứu độ. Khi
mà con đường tri thức không còn là chiến đấu chống lại sự xấu, con đường đó sẽ
có nguy cơ nhạt nhẽo; khi con đường tri thức lại trở thành mặt trận chống “ai
đó”, thì sẽ dần dần rớt vào nguy cơ bảo vệ một thứ chân lý vô ngã, chân lý hoàn
toàn lý thuyết và trở thành quá khích. Cũng thế, khi con đường đức ái mà chỉ là
quí trọng một “sự vật” nào đó bên ngoài bản thân, chăm chăm chú chú làm một
điều gì đó chứ không phải làm vì ai đó, thì con đường đó sẽ dần dần loại ra
ngoài những ai đang chờ đợi tình thương chân chính.
Nơi đây, ta
có thể nối lại cả con đường của thánh Thomas và con đường của thánh Martinô với
nguồn mạch hứng khởi nguyên thuỷ của thánh Đa Minh, nguồn mạch khao khát ơn cứu
độ cho con người. Xin ghi lại vài khoản Hiến Pháp căn bản để nhắc nhủ nhau :
* “Vì Dòng Anh Em
Giảng Thuyết do thánh Đa Minh sáng lập, “như ai cũng biết, ngay từ thời sơ
khai, đã được thành lập đặc biệt để lo việc giảng thuyết và ơn cứu độ các linh
hồn”. Do đó, theo lệnh truyền của Đấng sáng lập, anh em chúng ta, “ở đâu cũng
phải sống chính trực và đạo đức như những người khao khát ơn cứu độ của mình và
của những người khác, như những con người của Tin Mừng, theo chân Đấng Cứu độ, chỉ nói với
Thiên Chúa hay về Thiên Chúa, với mình hoặc cho tha nhân” (HPNT II)
* “Chính vì thế, “việc
học hành của chúng ta phải nhằm hết sức chính yếu và mạnh mẽ vào điểm này là để
chúng ta trở nên hữu ích cho linh hồn tha nhân” (HP 77)
Chỉ khi trở lại nguồn mạch thiết
tha với con người cho đến cùng, thiết tha ơn cứu độ cho tha nhân, chúng ta có
thể vượt qua thái độ chiêm ngắm thuần tuý, để tìm lại sức sống Đa Minh trong tinh
thần “chiêm niệm vào trao cho người khác
điều mình chiêm niệm”.
Nguyễn Trọng
Viễn O.P.
Gợi ý chia sẻ :
1. Trong đời sống Đa Minh hiện nay, ta có còn thấy ngọn lửa
“thiết tha với ơn cứu độ các linh hồn không ?
2. Trong Thời Sự Thần Học số 56, Linh mục Phan Tấn Thành
viết: “Dưới khẩu hiệu Veritas, các tu sĩ
dòng Đa Minh – những chiến sĩ bảo vệ đức tin (pugiles fidei)-, lắm lần trở
thành những “chó săn lùng bắt quân rối đạo” (Domini canes), điển hình là các
Toà Tra (Inquisitio), và không còn phản chiếu khuôn mặt dịu hiền của Thiên Chúa
Tình Yêu nữa.(…). Nếu có lúc người ta nhiệt thành chiến đấu cho veritas đến nỗi
bỏ quên caritas, thì cũng không thiếu lần người ta nhân danh caritas để bịt
miệng veritas”. Những mâu thuẫn và những lệch lạc như thế có tiềm tàng
trong cách học hành, cũng như trong cách làm việc tông đồ của chúng ta không ?
3. Phẩm chất đời sống tâm linh của chúng ta hiện nay có dính
dáng đến nguy cơ xa rời bản thân Chúa để chỉ còn biết học chân lý và làm bác ái
một cách đơn thuần không ?
[1]
Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1. Xin nói thêm : Deus caritas est / Deus
veritas est. Như vậy, nói đùa theo kiểu ngắn gọn hiện nay : Deus Ca-ve-ritas
est; mà cave lại có nghĩa là gái bao !!!, một loại người hèn mọn được Chúa yêu
thương và dẫn dắt đến chân lý cứu độ. Đây là “lý luận” kiểu huyền nhiệm !!!
[2]
Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1.
[3]
Gabriel Marcel cho chúng ta thấy sự khác biệt của “huyền nhiệm” và “vấn đề”.
Người ta thường hay tưởng lầm nhiều điều thuộc lãnh vực huyền nhiệm nhưng không
được chiêm ngắm mà lại được mang ra giải quyết như một vấn đề.
[4]
Siêu hình, hiểu như là điều căn cốt của một tôn giáo, triết lý hoặc một tổ chức
nào.
[5]
Không nên hiểu lầm sự “thuộc về” như là một sự “lệ thuộc”. Tình yêu luôn luôn
phải là một sự tự do, tự quyết chứ không thể ép buộc, chính tự khả năng tự
quyết, con người mới có thể đi vào mối tương quan thuộc về nhau càng ngày càng
sâu xa hơn. Ngược lại, thiếu sự tự quyết, thì người ta chỉ có thể lệ thuộc, và
lệ thuộc luôn luôn là lệ thuộc về những gì bên ngoài bản thân, lệ thuộc tiền
bạc, lệ thuộc sự bảo bọc, lệ thuộc tiếng tăm của ai khác… Ngược lại, bản thân
là một giá trị tuyệt đối mà không một sự mua bán, trao đổi nào có thể cân xứng;
bản thân chỉ có thể được dâng tặng, và mời gọi sự đón nhận với lòng tri ân.
Chiều kích bản thân của một người thiếu tự do, thiếu tự quyết, sống lệ thuộc,
luôn ở ngoài vùng phủ sóng của cái “sống với”
[6]
Trong tư tưởng của G. Marcel, con người chỉ là mình khi dấn thân, và chỉ có một
sự dấn thân chân chính là dấn thân vì tha nhân…
[7]
T/đ Thiên Chúa giầu lòng từ bi thương xót, số 58. Một Danh Hiệu Khác Của
Tình Yêu.
[8]
Chẳng hạn như những đối thoại của Platon.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét