Sự Công Chính Mới
* Suy niệm Tin Mừng Mt 1, 18-24
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như Sứ Thần Chúa dạy”
1. Không phải là công bằng, mà là công chính
Trong
tinh thần của truyền thống Do Thái - Kitô giáo, ý nghĩa chính yếu của sự công
chính không phải là công bằng, dựa theo một qui tắc bất di bất dịch của lề
luật, nhưng là sống trọn vẹn với vai trò của mình, hết mình với ơn gọi và sứ
mệnh của mình. Thiên Chúa không chọn thái độ “công bằng” với con người; vì với
cách sống ấy, con người sẽ phải chết. Nhưng Thiên Chúa công chính là Thiên
Chúa, bằng bất cứ giá nào, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài, dù có những
bất trung của con người. Con người công chính không phải là người lý sự, so đo
tính toán hơn thiệt, công bằng với Chúa và với nhau, nhưng là con người thực
hiện sứ mệnh mình đã lãnh nhận một cách tín trung.
Ý nghĩa công chính ấy được thể hiện trọn vẹn
trong nhiệm cục của Tân Ước.
2. Tình thế thay đổi
Đối
với người Do Thái, sự công chính luôn gắn liền với việc tuân thủ kỹ lưỡng lề
luật của Thiên Chúa. Từ căn bản, tinh thần ấy của đạo vẫn là một mối tương quan
với Thiên Chúa chứ không phải làmột sự công chính do tu luyện và làm thành toàn
bản thân mình. Tuy nhiên, thái độ công chính trước mặt Thiên Chúa dựa vào lề
luật như thế chỉ là một tình trạng bất toàn, bởi vì, một cách nào đó, một Thiên
Chúa sống động và yêu thương bị giới hạn, bị qui định trong khuôn khổ của luật
pháp. Điều ấy không đủ khả năng làm sinh động, tươi mát lòng người.
Tình
trạng của người Do Thái thuộc Cựu Ước giống như một người độc thân, tìm sự
chính trực cho đời sống của mình bằng một nếp sống ổn định thời khoá biểu sinh
hoạt, ổn định của những đồ vật chung quanh, ổn định của một nếp sống đều đặn và
trật tự. Sự ổn định ấy có thể mang lại sự an ổn, nhưng không mang lại niềm vui
gặp gỡ.
Trong
thời đại mới, thời đại Tân Ước, Thiên Chúa can dự sâu xa hơn vào đời sống con
người và Người ban cho con người Ngôi Hai Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu.
Đức Giêsu là Đấng Emmanuel [Thiên Chúa ở cùng chúng ta]. Sống trong mối tương
quan với Thiên Chúa, giờ đây, chính là kết hiệp với Ngài trong ý muốn, trong
chương trình cứu độ cụ thể qua Đức Giêsu; sống với Đức Giêsu không phải chỉ là
giữ những luật lệ cố định, nhưng là liên kết đời mình vào lịch sử cứu độ; là
sống với ý thức Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa ở cùng, Thiên Chúa cùng với ta
sống cuộc đời của ta.
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô
sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm là sống trong niềm tin vào Con
Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Tôi không làm cho ân huệ
của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề luật, thì
hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích” [Gl 2,20-21]
3. Thái độ của Đức Maria và thánh Giuse
Trong
trong ý nghĩa ấy, chúng ta thấy hai nhân vật tiêu biểu của thời đại Tân Ước,
Đức Maria và thánh Giuse, có một “thần khí” mới. Trong cuộc đời của hai ngài,
ta thấy chương trình cá nhân bị đảo lộn; và việc tuân giữ lề luật không còn đủ
tác dụng để sống một đời sống mới. Đức Maria nói lời “Xin Vâng” với Thánh Ý
Chúa để chấp nhận làm mẹ dù điều đó không có trong chương trình của Mẹ. Hơn
nữa, lời “Xin Vâng” ấy không phải chỉ để đón nhận một bào thai; nhưng đức Maria
sống niềm “Xin Vâng” trong suốt cả cuộc đời. Để làm tròn tinh thần mới ấy, thái
độ nền tảng của Đức Maria chính là “ghi nhớ và suy niệm trong lòng” [Xc.
Lc 2,19; 2,51b]. Khi ấy, mọi biến cố trong cuộc đời của Mẹ không còn qui chiếu
vào lề luật nhưng qui chiếu vào Thánh Ý cụ thể của Thiên Chúa, Thánh Ý mà bình
thường Mẹ không thể hiểu ngay được.
Cũng
thế, tác giả Tin Mừng khẳng định thánh Giuse là người công chính [Mt 1,19].
Những ở đây không hề có một qui chiếu lề luật nào; ngược lại Giuse đã làm khác
với điều lề luật chỉ dạy. Giuse thực sự là người công chính khi luôn thi hành
điều sứ thần truyền dậy một cách mau mắn [Xc. Mt 1,24; 2,19-21].
Những
con người của Tân Ước, như thế, không còn dựa vào luật pháp như tiêu chuẩn của
thái độ hằng ngày, không còn biết đến sự ổn định của đời sống nhờ ăn theo sự
vững vàng của lề luật; nhưng tìm thấy một sự ổn định trong ngay cả sự bấp bênh,
trong sự phiêu lưu, bởi vì sự ổn định ấy dựa vào một Thiên Chúa đang đồng hành,
một Thiên Chúa đang cùng chia sẻ và hướng dẫn cuộc đời mình.
Một
tâm hồn không sẵn sàng trước cuộc phiêu lưu của mối tương quan mới trong nhiệm
cục cứu độ sẽ dễ dàng tìm thấy những lý do để chống cưỡng, để bào chữa, để bảo
vệ sự ổn định vẫn có của mình. Một tâm hồn nhát đảm và dễ dãi sẽ dễ dàng tìm ra
những lý lo để khước từ một đề nghị không có nền tảng trong lề luật. Ngược lại,
sự công chính mới giúp người tín hữu sống trong Thánh Ý Chúa như “ngôi nhà”,
như tiêu chuẩn, như điểm tựa cho những quyết định của mình.
Thái
độ của đức công chính mới giống như thái độ của những người “có đôi bạn”; họ
sống trong cuộc phiêu lưu và tìm thấy từng ngày, trong từng biến cố một sự liên
đới, một sự hiệp nhất để ứng phó và giải quyết những vấn đề cuộc sống hằng
ngày. Không còn một nếp sống ổn định của thời khóa biểu, không còn một sự quen
thuộc trong cách sắp xếp đồ dùng, các món ăn, các công việc quen thuộc, nhưng
là liên tục nghe, chấp nhận ý muốn của nhau, là liên tục xây dựng sự hiệp nhất
từ những quyết định tự do và bình đẳng. Chính điều đó mới tạo nên niềm vui đích
thực và chân chính của các ngôi vị, của phẩm giá con người trong tương quan
ngôi vị.
4. Bước vào cuộc phiêu lưu
Điểm
chính yếu của sự công chính mới là : trọng tâm làm nên ý nghĩa cuộc đời người
Kitô hữu không còn dựa vào bất cứ một luật lệ vô ngã nào, những là dựa vào mối
tương quan ngôi vị. Đây quả thật là một cuộc phiêu lưu, và trong cuộc phiêu lưu
này, không thể có “bảo hành”, không thể có “kiểm nghiệm chất lượng” như trong
thế giới khoa học, mà chỉ có thể có tình yêu và lòng tin tưởng như điểm tựa duy
nhất. Chính vì thế, đây là một cuộc phiêu lưu với tất cả tính chất bấp bênh của
nó. Tuy nhiên, cuộc phiêu lưu này được vững chắc nhờ sự đồng hành với một
"tha nhân"; cuộc phiêu này vượt qua lãnh vực lý trí; cuộc phiêu lưu
này không được chỉ dẫn do một tri thức tri thức chắc chắn, nhưng do tin tưởng
vào nhau; cuộc phiêu lưu này cũng không phải là chương trình đã xong mà là cuộc
sống biết lắng nghe nhau, nhạy bén về ý muốn của nhau, và biết chiều ý nhau
hằng ngày. Người ta thấy rằng chính trong những lúc nguy biến, trong những lúc
phải có một quyết định "sống-còn" là lúc lòng trung thành với nhau
bầy tỏ rõ ràng nhất khuôn mặt thật.
5. Tiêu chuẩn căn bản của sinh hoạt “đạo đức” ngày nay
Ngày
nay, người ta thấy rằng[1]
một hình thức đạo đức chân chính phải làm sao thể hiện được đường nét căn bản :
giúp người Kitô hữu nhìn thấy cuộc đời mình trong lịch sử ơn cứu độ; hoặc
nhìn thấy lịch sử ơn cứu độ trong cuộc đời mình.
Lòng
đạo đức như thế không phải cảm thương, hay quí mến một Đức Giêsu đã sống và
chết trong lịch sử. Đức Giêsu ấy chỉ thành một hình bóng, một lý tưởng hay một
kỷ niệm xa xôi.
Lòng
đạo đức như thế cũng không phải là một nỗ lực tu sửa, một nỗ lực tập trung vào
việc làm cho cá nhân mình được trọn hảo và cao cả. Kitô giáo không phải là một
học thuyết duy đức mà chính là ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người.
Lòng
đạo đức cũng không phải là một sinh hoạt tách rời khỏi đời sống hằng ngày và
càng không được quyền lôi con người ra khỏi những ưu tư, trăn trở, những trách
nhiệm của cuộc sống hằng ngày.
Hình thức
đạo đức chân chính là con đường mở ra với mối tương quan cứu độ, đến với các
biến cố bày tỏ ơn cứu độ, và có khả năng đưa toàn bộ con người Kitô hữu vào
trong nhiệm cục ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Hơn
ai hết, Đức Maria là Kitô hữu thứ nhất và là gương mẫu của mọi Kitô hữu. Thật
rõ ràng cuộc đời thánh Giuse chỉ còn là một cuộc đời quay xung quanh Đức Giêsu.
Đức Giêsu là Thiên Chúa đã bước vào lịch sử, và trước hết, bước vào trong gia
đình Nagiareth vì hai ngài đã dám sống cuộc phiêu lưu cùng với Thiên Chúa.
Kết
Cũng
như ngày xưa, Adong bước từ thái độ say mê “đặt tên cho muôn vật”, đến niềm vui
được gặp gỡ một người đối thoại tương xứng; thì người Kitô hữu cũng được Thiên
Chúa làm mới kinh nghiệm tương quan khi chính Ngài trở nên người đối thoại
tương xứng với con người và làm cho con đường tìm sự công chính của con người
trở nên tươi mát nhờ sự hiện diện sống động của Ngài. Kinh nghiệm ấy đặt nền
trên “bản chất” của một nhân loại được Thiên Chúa ban cho tự do và tình yêu để
sáng tạo cuộc đời mình theo mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa.
Tư Cù O.P.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét