Đáp trả của người Kitô hữu

 

1. Phẩm giá con người trước nhan Thiên Chúa

            Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp, như Platon và Aristote,  đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng. Một khi không phân biệt được phẩm giá và tài năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ khinh thường những người có ít tài năng trong cuộc đời; hoặc là người ta muốn “cào bằng” tất cả, ăn đồng chia đều trong tất cả mọi công việc, dù đó là những công việc thực sự không thích hợp. Các triết gia Hy Lạp thấy rằng các người phụ nữ và người nô lệ có ít trí khôn, nên đương nhiên cũng phải là những người thấp kém trong đô thị. Ngược lại một số trào lưu xã hội lại muốn cào bằng bằng cách phân chia tất cả mọi người phải và được làm những công việc như nhau.
            Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. (Mt 18, 10)
            Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là sự sẵn sàng cho đi ít nhiều những gì thuộc về chính bản thân mình :
 “Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
            Lập trường của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa tôn trọng con người, tôn trọng cả trong địa vị là người cho đến phẩm chất làm người. Lòng tôn trọng ấy là điều kiện căn bản để con người có thể sống trong thế giới yêu thương đích thực. Một khi được Thiên Chúa tôn trọng, con người mới có thể phát khởi một hành trinh mới, hành trình tự do và tình nghĩa, hành trình để đến với Chúa trong tương quan tình nghĩa, hành trình dâng tặng chính bản thân của mình. Hai khía cạnh đó gắn liền với nhau và là điều kiện cho nhau. Công Đồng Vatican II, hiến chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng nói rằng :
“Con người là tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lai chính bản thân mình nhờ thành thực hiến dâng” (MV 24c).
            Con người chỉ có thể đáp lại tình nghĩa với Chúa khi có được một phẩm giá cao quí trước mặt Chúa, và rồi tự nguyện trao tặng chính bản thân của mình.

2. Lời kêu mời ra khỏi bản thân

Sự vật vật chất thì “lù lù” ra đó, nó là nó. Nó chẳng bao giờ ra khỏi bản thân, nên cũng chẳng đổi ra khác được. Nó sống hay chết cho một mình nó. Sự sống thì có một cơ chế đặc biệt hơn, sự sống có thể tự gạn lọc để thu nhận những gì thích hợp, tiêu hóa những gì mình thu nhận để biến trở nên chính xương thịt của mình. Sự sống cũng “tìm cách” ra khỏi bản thân mình để muốn sống “trường tồn” bằng sự sinh sản. Thế nhưng sự sống của con vật, thì dù tiêu hóa cao lương mỹ vị gì, thì vẫn chỉ là nó; và khi nó “ra khỏi bản thân” qua sự sinh sản, thì cũng chỉ là một sự kéo dài thêm sự sống của nòi giống. Cá thể của sinh vật chỉ là phương tiện cho giống nòi, và chính giống nòi của con vật thì cũng không có cứu cánh tự thân.
Con người cũng là một sự sống, nhưng sự sống của con người thì khác hẳn. Đó là một sự sống có phẩm chất tinh thần, nó có thể ra khỏi bản thân mình để đạt đến một sự hiệp thông sâu xa với ai khác, nó có khả năng “trường tồn” khi chuyển sự sống của mình sang người khác. Sự chuyển thông này không phải chỉ là chuyển thông sự sống sinh vật của giống nòi, mà là sự sống độc đáo với những mơ ước và những giá trị cá nhân của mình. Con người như một cá thể độc đáo, mơ ước trường tồn, khát vọng tuyệt đối, có khả năng ra khỏi bản thân mình, bằng ngõ ra của tình yêu; để đến với ai khác, phó cả sự thành đạt đời mình cho ai khác.
Thật ra, bản thân tự tại của con người thì rõ ràng là một sinh vật tương đối. Tất cả thành công hay thất bại của tôi chỉ là cái hết sức tương đối. Tôi thành công thì có người thành công hơn tôi; tôi đau thì cũng có người còn đau hơn tôi; cuối cùng cuộc đời tôi đụng chạm vào cái chết, và mọi sự dính dáng đến tôi cũng tỏ hiện tất cả tính tương đối căn bản của nó trong cái chết của tôi. Mặt khác,  trong thế giới sự vật, con người chẳng là gì cả; đứng trước con cọp, một con người không hơn gì một con nai.

Nhưng khi tôi yêu, tôi mong điều tốt cho người tôi yêu, tôi quan tâm đến người khác hơn là về tôi, và tôi bắt đầu biết di chuyển trọng tâm đời tôi ra khỏi cái tôi ích kỷ và giới hạn của tôi để đặt trọng tâm cuộc đời nơi người tôi yêu. Với một trọng tâm khác thì ý nghĩa của thành công hay thất bại cũng khác. Cái thành công của tôi có thể lại trở nên xấu, nếu nó mang lại điều không hay cho người tôi yêu. Ngược lại cái đau của tôi lại có thể trở nên tốt khi nó được đánh giá từ trọng tâm là điều tốt cho người tôi yêu. Với tình yêu thương, cuộc đời có thể thay đổi hoặc đảo ngược ý nghĩa; vì trong tình yêu, cuộc đời, thay vì là vun quén cho bản thân, lại trở thành như một hành vi cho đi; và cho đi trọn vẹn nhất chỉ có thể là cho đi chính bản thân.
Nơi đây, tính chất tuyệt đối của con người mới ló dạng. Phẩm giá tuyệt đối của con người chỉ xuất hiện khi được đưa vào bình diện giá trị, nghĩa là trong sự đánh giá của tự do con người trong bình diện nhân văn (và do đó nó cũng có thể bị chối từ nếu như người ta không bước vào bình diện nhân văn của con người). Những cái giới hạn tự tại của con người sẽ tan biến đi khi người ta biết trao tặng và trao tặng bản thân cho nhau. Khi ta trao tặng bản thân mình cho người khác, nghĩa là ta đã nhận ra giá trị tuyệt đối của người khác; và khi ta trao tặng bản thân cho người khác thì cũng có nghĩa là ta đưa bản thân mình vào thế giới tuyệt đối. Cũng vậy, khi một người lãnh nhận bản thân dâng tặng của người khác như một tuyệt đối, không thể lấy điều gì khác thay thế được cho bản thân của người khác, nghĩa là người đó biết nhận ra giá trị tuyệt đối của bản thân ai đó, giá trị không có gì có thể đổi chác hay mua bán được. Nếu cả hai chiều hướng đó đều thể hiện được một cách chân chính, nghĩa là không đánh giá sự vật như con người hay hơn con người, nghĩa là không giản lược con người thành một sự vật, nghĩa là tính tuyệt đối của một con người được đón nhận trong tự do chân chính, thì thế giới của tuyệt đối đuợc khai mở…
Quả thật, người ta không thể ra khỏi bản thân mình được nếu không có cánh cửa của tình yêu thương; vì chính tình yêu mới có thể là động lực giúp con người trao tặng bản thân, cũng như chính tình yêu mới có thể mở rộng tấm lòng để đón nhận bản thân người khác như một tuyệt đối.

Con đường hoàn thành vận mạng của đời người, cuối cùng, lại chính là gom góp trọn cuộc đời mình để cho đi. Đó không là gì khác hơn con đường dấn thân; và đó là phương cách duy nhất để ra khỏi cái tôi giới hạn, tương đối, bất tất, chóng qua, để đi vào bình diện tuyệt đối. Chính tình yêu mới có thể là cánh cửa cho con người ra khỏi chính mình, và chính tình yêu mới có thể giúp cho con người hoàn thành vận mạng tương đối của mình. Tình yêu như thế là cánh cửa mở ra với tuyệt đối.

3. Tìm hạnh phúc trong ý nghĩa dâng tặng bản thân

            Trao tặng là một vận hành đặc biệt diễn tả được tình tự yêu thương của cuộc sống con người. Có khi ta đi ăn tiệc tại nhà một người bạn và gặp một món ăn không được ngon lắm. Nhưng khi đó, chủ nhà giới thiệu với ta : đây là “cây nhà lá vườn”. Điều đơn giản ấy tức khắc làm cho món ăn không ngon lành đó trở thành quí; vì như thế là ta được tham dự vào đời sống, được chia sẻ hành trình sống của gia chủ. Cũng thế, một món quà mọn, được dâng tặng với cả tấm lòng thành, sẻ trở nên quí giá; và người nhận được món quà ấy, nếu có đủ tấm lòng như một con người chân chính, sẽ đón nhận được tính cách quí giá ấy trong niềm vui.
            Khác với trao đổi, bản chất của trao tặng không phải là sự trao đổi hai sự vật, nhưng là trao tặng bản thân cho nhau. Trong sự trao đổi, bao giờ cũng phải có sự phân biệt giữa “chủ thể trao đổi” và “vật trao đổi”. Chủ thể trao đổi đứng bên ngoài vận hành trao đổi, họ chỉ dùng “vật trao đổi” như “vật thí thân” để tìm phần lợi khác cho mình. Ngược lại, trong trao tặng, chính chủ thể đưa vào vật trao đổi một phần nào đó của bản thân mình, sản phẩm là sự bộc lộ chính tình nghĩa của người trao tặng. Trong trao tặng, “vật trao tặng” và “chủ thể trao tặng” chẳng những không “lợi dụng”, không “thí bỏ” nhau, nhưng liên hệ với nhau trong cùng một dòng ý nghĩa.
            Thật ra, trong mức độ sống của con người, giá trị của một sự vật không hoàn toàn lệ thuộc vào giá trị tự thân của chính sự vật ấy, hoặc do tiêu chuẩn đánh giá của xã hội thị trường, nhưng còn do ý nghĩa mà con người ban tặng cho nó. Đó là cách thức sống siêu việt của con người; nơi đó, người ta trao đổi tình nghĩa với nhau chứ không phải phân chia để hưởng thụ sản phẩm; nơi đó, chính tấm lòng của con người được gởi vào các sản phẩm là điều quan trọng hơn và đôi khi có thể làm cho các sản phẩm ấy trở nên tuyệt đối. Nguyên lý nền tảng của trao tặng không phải là sự công bằng, nhưng là tình nghĩa.
            Quả thật, mọi sản phẩm của con người, dù có được nắn nót đến đâu cũng không bao giờ có thể trở thành tuyệt đối, cho đến khi chúng trở thành một món quà để con người trao tặng cho nhau. Nếu không được trao tặng và lãnh nhận, những sản phẩm ấy, vẫn là những “vật liệu thô”, không đầy đủ ý nghĩa, không có giá trị tự thân. Ngược lại, một sản phẩm của con người, dù tầm thường đến đâu, khi  được trao tặng với tấm lòng, nó hoàn thành ý nghĩa của nó, tức là trở nên nhịp cầu để con người đến với nhau; và nó chỉ trở nên quí giá thật sự khi người ta gặp được tấm lòng của nhau trong sản phẩm ấy.
            Đúng hơn, con người ta chỉ sử dụng sự vật như phương tiện để diễn tả bản thân, chứ không được giản lược bản thân con người vào trong sự vật. Qui luật sống của con người là biết sử dụng vật chất như nhịp cầu để nối kết bản thân của mỗi người với bản thân của người khác. Khi ta thành tâm dâng tặng một món quà, món quà đó kkông còn là nó nữa, nhưng đã biến nên một giá trị nhân văn, đó là dâng tặng một phần bản thân của mình cho người khác.
            Thật ra, bản chất của trao tặng luôn ít nhiều hướng tới sự trao tặng bản thân của mình cho người khác. Khi việc dâng tặng đạt đến mức độ trao tặng bản thân cho nhau, tức là khi ấy tặng phẩm là chính bản thân của người trao tặng, thì bản thân mỗi người sẽ là món quà vô giá mà con người có thể trao tặng cho nhau. Trao tặng bản thân là đỉnh cao của nghĩa tình.

            Ngày tết, một người khách sang trọng có thể lì xì cho cô bé 500.000 đồng; trong khi đó, mẹ của bé chỉ lì xì cho con có 10.000 đồng. Nhưng cô bé đừng tưởng rằng có thể đi theo người khách sang trọng đó để được sống sung sướng hơn. 500.000 đồng của người khách là một món tiền lớn, nhưng là một món tiền “dư”và thường là món tiền không thể hơn  được nữa. Trong khi đó, 10.000 đồng của mẹ lại chính là bản thân của mẹ. Mẹ trao tặng cho con lúc này là 10.000 đồng, lúc khác là cái bánh…trong chiều hướng tiệm tịến của một sự dâng tặng chính bản thân của mẹ cho con. 10.000 đồng của mẹ, đó là một món quà biểu hiện tấm lòng và biểu hiện một sự  dâng tặng chính bản thân, đó là món quà quí giá mà một người có tấm lòng không được quyền coi thường, không thể đánh giá theo qui luật thị trường.

            Chắc hẳn rằng Bill Gate là người trao tặng nhiều hơn tất cả mọi người trên thế giới, khi ông tặng phần lớn tài sản của ông cho việc chữa bệnh ở Châu Phi và Châu Á. Đó là một nghĩa cử đáng quí; nghĩa cử của tấm lòng. Nhưng cũng phải nói thật rằng, ông vẫn còn giữ lại cho cuộc sống của mình số tiền đủ để sống trọn một cuộc đời trong sung sướng. Trong khi đó, đối với một đứa con, cha mẹ là trên hết, không phải vì cha mẹ đã trao tặng nhiều hơn Bill Gate, nhưng vì  cha mẹ là người cho hết,trao tặng trọn vẹn, trao tặng chính bản thân mình. Một bà mẹ nghèo, gia sản chẳng có là bao, nhưng lại dám dùng tất cả để lo cho đứa con của  bà được ăn học, được chữa bệnh, được vui chơi… Bà mẹ nghèo ấy không chỉ cho đi phần dư thừa, nhưng là cho đi chính bản thân mình. Do đó, đối với đứa con, không phải Bill Gate hay những nhà từ thiện  lớn của thế giới, mà chính bà mẹ, bà mẹ tần tảo sáng hôm và bà mẹ hy sinh cả một đời…mới  là hình tượng cao đẹp nhất.
            Chính trong ý nghĩa ấy, chúng ta hiểu rằng vỉệc đáp trả tình thương của Thiên Chúa chỉ có thể bộc lộ đúng nghĩa nhất trong hành vi trao tặng bản thân.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Top