Phẩm giá và Chức năng trong Đời Sống Thánh Hiến


            Hơn lúc nào hết, nhu cầu huấn luyện trí thức và mục vụ đang trở nên cấp bách trong đời sống Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong đời sống thánh hiến. Ở thành phố Sài Gòn này, người Kitô  có thể cảm thấy một cách cụ thể sức sống của Giáo Hội, trong các thánh lễ và sinh hoạt mục vụ ở các giáo xứ; và ở một tầng sâu hơn, trong việc các hội dòng nam nữ đổ xô về đây để tìm kiếm ơn gọi. Người ta có thể thấy ở mọi nơi, bóng dáng âm thầm nhưng không khó nhận ra của các nữ tu, hoặc các tu sinh, lặng lẽ đạp xe trên đường phố; và người ta có thể đoán ra được các chị em ấy đang theo học một lớp nào đó, tại một trung tâm nào đó…
Về hiện tượng phong phú ơn gọi ở Việt Nam, những người bi quan thì sẽ giải thích rằng não trạng người Việt thích danh giá; mà vị thế của linh mục hoặc tu sĩ vẫn còn “có giá” trong đời sống Giáo Hội, nên số người theo đuổi ơn gọi ấy vẫn còn tương đối dồi dào…. Nhưng người khác thì lại có thể thấy rằng những nề nếp sống đạo mà cha ông chúng ta đã gầy dựng đã hình thành nên, ở tầng sâu hơn khía cạnh danh giá, một thứ cảm quan tôn giáo thấm nhiễm sâu đậm và man mác trong tâm hồn người tín hữu, mà ngay cả cuộc sống đầy những cám dỗ thăng tiến trần thế và hưởng thụ vật chất ngay nay cũng khó có thể thay thế hoàn toàn được. Chẳng hạn những người tín hữu ấy có thể, khi không “đi tu”, sống một đời sống khô khan hoặc bỏ đạo, thì về cuối đời cũng có rất nhiều cơ may tìm lại được đời sống đức tin. Những người tín hữu như thế, khi “đi tu”, cũng có thể có người theo đuổi danh giá và hưởng thụ trong “đời tu”, những cũng không phải là không có những linh mục và tu sĩ thực sự tìm lại được “chiều sâu” thực sự của một đời sống đức Tin chân chính.
Có lẽ cả hai cách nhìn đều có phần đúng. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, Giáo hội Việt Nam hôm nay không thể không tạ ơn Chúa, cám ơn những bậc tiền nhân đã gieo trồng đời sống đức Tin trên mảnh đất Việt này; và điều quan trọng chắc chắn không phải là phê phán hoặc hối tiếc, mà cũng không phải là hãnh tiến hay tự mãn, mà là trân trọng đón nhận gia sản ấy một cách có trách nhiệm. Trân trọng đón nhận gia sản một cách có trách nhiệm, điều đó có lẽ thể hiện trong việc củng cố việc đào tạo, chủ đề mà Chia Sẻ đã chọn cho cả năm 2011. Tuy nhiên, có lẽ chính vấn đề huấn luyện trí thức và mục vụ sẽ là nơi bộc lộ rõ nét hơn hết thực chất của đời sống thánh hiến. Việc huấn luyện trí thức và mục vụ có thể hoặc đưa đến nguy cơ của một thứ đạo danh giá nặng nề hơn nữa, hoặc góp phần vun trồng đời sống đức Tin ở mạch nguồn của sứ vụ. Chính vì thế, bài viết này xin được trở về với vấn đề phẩm giá và chức năng trong đời sống thánh hiến, một vấn đề dính dáng tới căn tính của việc huấn luyện mục vụ và trí thức.

1. Trở về mạch nguồn của phẩm giá

1.1 Ý thức phẩm giá người trong lịch sử
            Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp, như Platon và Aristote, đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng. Các ông thấy rằng các người phụ nữ và người nô lệ có ít trí khôn, nên đương nhiên cũng phải là những người thấp kém trong đô thị. Tuy nhiên, người ta cũng có thể tìm thấy trong thế giới Hy Lạp một số dữ kiện khẳng định, một cách nào đó, phẩm giá của con người. Từ thế kỷ thứ V tcn, trong tác phẩm Antigone, Sophocle (497-405), đã kể có một thiếu nữ đã dám bất tuân lệnh nhà vua. Nhà vua cấm không được chôn cất anh của cô, anh ta bị giết vì can tội phản quốc. Cô ta nói với vua rằng có luật của Trời còn cao hơn lệnh của vua.
Đặc biệt, các triết gia Khắc Kỷ thời kỳ La Mã, trong tiến trình mong muốn hủy bỏ chế độ nô lệ, đã nêu lên được một sự bình đẳng tự nhiên giữa những người nô lệ và những người tự do. Họ cho rằng tất cả luật của con người đều không công bằng, đặc biệt là luật của các bạo chúa. Nhưng có một thứ luật ghi khắc trong chúng ta và không cần phải viết ra, luật đó cho phép chống lại mọi luật lệ bất công. Ciceron (106-43 tcn), trong cuốn Loi, I,10 nói rằng có một sự bình đẳng tự nhiên giữa mọi người, vì mọi người đều có chung lý tri. Triết gia Sénèque (khoảng tk I, cn) cho rằng chế độ nô lệ không có nền tảng tự nhiên mà chỉ là công ước xã hội. Chế độ nô lệ là một sự làm thuê suốt đời (Sénèque, Benef. III 22-28). Xc. Jacqueline Lagrée : Le naturalisme stoïcien. Conférence prononcée au lycée Chateaubriand de Rennes le mardi 2 octobre 2001.
            Trong thời Cận đại và Hiện đại, thế giới Tây phương đã hình thành nên được một số bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền : Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1689 của Quốc Hội Anh; Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776). Tuy nhiên, bản tuyên ngôn của Cách Mạng Pháp 1789 là một cột mốc quan trọng, vì nó có một tầm ảnh hưởng rộng lớn khắp Âu Mỹ, nhờ được hỗ trợ của một số nhà tư tưởng trong nhóm Bách Khoa. Sang thế kỷ XX, chúng ta có bản Tuyên Ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc 1948. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc được biểu quyết tại Paris ngày 10-12-1948 . Điều Một của văn kiện ấy viết : “Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ”.
            Một điều cần ghi nhận là người ta chỉ khám phá ra ý niệm phẩm giá con người (la dignitée de L’homme, humanité)  khi có những con người bị chà đạp. Chính sự hiện diện của người nghèo, hoặc nỗi đau thương của con người đã làm bật ra ý nghĩa cao quý, giá trị căn bản của một con người. Khi con người bị “lột trần”, khi bản thân một con người không còn được bảo vệ, trang trí, tô vẽ bằng tiền của hay địa vị, thì con người ấy lại có thể biểu lộ được rõ nét điều căn bản nhất, đòi hỏi người khác phải tôn trọng, đó là phẩm giá một con người. Ở đây, xuất hiện ra một tâm tình tôn trọng căn bản. Tôn trọng là yếu tố căn bản để thiết lập tha nhân như là những “đối tác” bình đẳng; và sự tôn trọng tha nhân như là người, chứ không phải như là một nhân vật, điều đó có khả năng biểu lộ ý nghĩa của phẩm giá con người.
Thật ra, trong lịch sử nhân loại, vốn tiềm tàng một thứ tình cảm tự nhiên về phẩm giá con người. Dĩ nhiên, tình cảm tôn trọng tha nhân không phải rõ nét trong mọi lãnh vực. Chẳng hạn, trước kia, người ta không quan trọng lắm mạng sống của cá nhân, so với những diễn tiến có tầm quan trọng hơn nhiều của vận mệnh một dân tộc. Tuy vậy, người ta cũng thấy tình cảm tôn trọng thưở nguyên sơ được bộc đặc biệt, chẳng hạn, trong nghi thức chôn táng. Từ khi có sự hiện diện của con người thì cũng có những nghi lễ chôn táng người chết. Đó chính là dấu vết tâm tình tôn trọng con người; bởi vì con người, dù là một xác chết, cũng cần được tôn trọng khác với xác chết của con vật.
Mặt khác, quá trình khám phá và đấu tranh cho phẩm giá con người luôn dựa trên một nền tảng khác, đó là việc coi con người như một ngôi vị, hoặc nhân vị (personne). Chỉ khi nào, một cách minh nhiên hoặc mặc nhiên, người ta ý thức mỗi con người là một nhân vị, thì khi đó, người ta mới có được một nền tảng để khẳng định về phẩm giá con người. Về khái niệm ngôi vị, các triết gia chỉ có thể tìm thấy yếu tố linh hồn như một thực tại căn bản làm nên ngôi vị. Aristote cho rằng con người, vì có linh hồn (anima) như là một bản thể tự lập (subsistentia), nên có được ngôi vị (prosopon = khuôn mặt) mà con vật không có được. Boèce (k. 470-525) thì định nghĩa ngôi vị như “một bản thể cá nhân có lý tính (rationis naturae individua substantia). Sau này, với trào lưu vô thần và duy vật, chủ trương chối bỏ Thượng Đế và linh hồn, người ta chỉ có thể nại đến nền tảng của ngôi vị là sự công nhận của nhà nước. Như thế, phẩm giá con người được xây dựng trên một nền tảng khá mong manh. Vì không ai có thể kiểm soát được Nhà Nước một cách hiệu quả. Đây chính là vấn đề gây nên sự khác biệt về quan điểm nhân quyền giữa các nhóm quốc gia khác nhau…
Cuối cùng, sự trân trọng phẩm giá con người được thể hiện trong việc đấu tranh cho nhân quyền (droit de l’homme), quyền được phát triển bản thân của mỗi người. Đó là điều tất nhiên, vì người ta không chỉ là người, nhưng còn phải làm người. Nền tảng của nhân phẩm là con người được là người, nhưng con người cũng khác con vật ở chỗ còn cần phải được làm người, nghĩa là được thể hiện mình trong một quá trình, hoàn thành cuộc đời mình trong một lịch sử, “làm nên” bản thân mình bằng một nhân cách phong phú, sung mãn. Chính vì thế mà từ ngữ ngôi vị (personne) để chỉ bản thân con người, khác với con vật, lại luôn bao hàm một khát vọng triển nở không thể bỏ đi, được diễn tả trong các từ ngữ nhân cách (personnalité) hoặc nhân vật (personnage). Người ta muốn khẳng định cá tính của mình, muốn hoàn thành ngôi vị của mình với một nhân cách sung mãn hoặc muốn trở thành một nhân vật tiếng tăm..
Mặc dầu những bản tuyên ngôn và nhân quyền vẫn có những giới hạn cụ thể, nhưng ta cũng phải công nhận việc khám phá và phát triển ý thức nhân phẩm và nhân quyền là một thành quả lớn lao trong tư tưởng nhân loại. Khi không ý thức rõ rệt về phẩm giá con người, con người có thể sẽ bị đối xử tệ hại đến tận cùng. Bản Tuyên Ngôn nhân quyền của liên hiệp quốc nói rằng việc không ý thức phẩm giá con người là nguyên nhân gây ra những tội ác trầm trọng nhất trong lịch sử. Những người theo chủ thuyết Phát Xít đã tiêu diệt hàng loạt người Do Thái, vì họ cho rằng những người Do Thái và người da mầu thuộc về loại dưới-người.
Ngoài ra, ta còn thấy có một nguy cơ khác, đó là sự mập mờ giữa phẩm giá và chức năng. Chẳng hạn, ở thế kỷ XX, khi người ta muốn giải phóng phụ nữ khỏi xó bếp, muốn giành quyền bình đẳng cho phụ nữ thì người ta lại cào bằng mọi chức năng, nghĩa là đấu tranh để người phụ nữ cũng đi lính, xuống hầm mỏ, hoặc coi việc được đi làm ngoài xã hội như người nam là một thành quả của việc đấu tranh cho sự bình đẳng…
1.2 Kitô giáo và nhân phẩm
Trong Sách Thánh, người ta khám phá ra một kho tàng phong phú để xác nhận phẩm giá người. Trước tiên, phải kể đến nền tảng quan trong nhất của khoa nhân học Kitô giáo, đó là : con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23-24).
“Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.". Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. (St 1,26-27)
            Ở vùng cận đông cổ, người ta đã có khái niệm con người là hình ảnh của thần linh, nhưng khái niệm ấy chỉ được áp dụng cho các vị vua. Vua là con Trời, vua thay Trời để cai trị thần dân. Trong khi đó, Kinh Thánh lại áp dụng ý niệm này cho tất cả mọi người; và mọi người được giống hình ảnh Thiên Chúa để cai quản trái đất. Kinh Thánh xác nhận con người nói chung, xác nhận người nam và người nữ, được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, đó chính là nền tảng của phẩm giá con người (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II sử dụng thuật ngữ này khi bàn về phẩm giá con người (s.12) và sách Giáo Lý Công Giáo cũng tiếp tục đường hướng ấy (ss355-361). Càng ngày Giáo Hội càng thấy rõ tầm quan trọng của khẳng định này trong nhiều lãnh vực (X. Văn kiện của Ủy ban thần học công giáo “Communion et Service : L’homme créé à l’image de Dieu, phát hành ngày 23/7/2004). Mặt khác, ngay trong Cựu Ước, người ta đã thấy những luật lệ nghiên cấm không được làm thiệt hại đến mạng sống, tài sản, danh dự của người khác, đặc biệt là những điều khoản nhằm bệnh vực quyền lợi của những “ngoại kiều, bà góa, mồ côi” (Xc. Xh 21,20-23). Trong Dân Israen, ngay cả nhà vua, nếu không tuân theo những mệnh lệnh ấy thì cũng bị phạt, chẳng hạn trường hợp vua Đavít (x. 2Sm 12,7-10) và vua Achab (X. 1V 21,17-24).
            Trong Tân Ước, chúng ta thấy Chúa Giêsu đặc biệt bênh vực những người bệnh tật, động lòng thương xót với những người đau khổ, cảm thông và tìm cách cứu vớt với những người tội… Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa. Sự quan tâm của Thiên Chúa đến cá nhân con người được khẳng định trong việc trao ban cho mỗi người có một thiên thần bản mệnh.
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. (Mt 18, 10)
            Tuy nhiên, con người không phải chỉ hiện diện trên mặt đất như một cái gì đã hoàn tất. Con người cần phải sống cuộc đời mình để hoàn thành phẩm giá là người bằng một tiến trình làm người. Con người và cuộc đời, đó là hai điều không thể tách rời nhau. Phẩm giá là người cần phải được “hoàn tất” khi tính đến một thứ tạm gọi là “phẩm giá làm người” hay “phẩm chất đời người”. Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là một sự hoàn thành chính bản thân mình trong cuộc đời, và điều đó thể hiện trong sự sẵn sàng cho đi ít nhiều chính bản thân mình :
 “Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
Và cuối cùng, cũng chính Thiên Chúa mới thể hiện được một sự tôn trọng “phẩm giá siêu nhiên” của con người, khi mời gọi tất cả mọi người, cả những người nghèo hèn tầm thường nhất, đều đón nhận được trọn vẹn ơn cứu độ :
“Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.  Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. (x. Mt 20, 13-16).
Mặc dầu có tác giả cho rằng sự chậm trễ trong suy tư triết học về xã hội trong một thế giới tây phương tràn ngập tư tưởng Kitô giáo là một điều đáng xấu hổ (Bréhier ???). Điều đó vừa là một lời trách móc nhưng cũng là một khẳng định về nguồn mạch phong phú của Thánh Kinh về vấn đề phẩm giá con người. Không ai có thể phủ nhận là Kitô giáo đã đóng góp rất nhiều trong sự tiến triển về nhân phẩm và nhân quyền. Những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, trong thực tế đều xuất phát từ các nền văn minh chịu ảnh ảnh hưởng của Kitô giáo. Chính đây là lý do khiến những quốc gia Hồi Giáo không chấp nhận những tiêu chuẩn nhân quyền của thế giới Tây phương.
Nguồn gốc gần nhất của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cách mạng Pháp cũng phát xuất từ Giáo Hội Công giáo. Trong trào lưu tìm thuộc địa của các quốc gia Chân Âu vào thế kỳ XVI, có những nhà thần học Tây phương biện minh cho hành động này bằng lý luận : Vũ trụ này của Thiên Chúa, nên những ai tôn thờ Chúa thì có quyền chiếm hữu vũ trụ… Tuy nhiên, nhà thần học Francisco de Victoria (1484-1546), Dòng Đa Minh, giáo sư đại học Salamanca cho rằng việc làm chủ đất đai làm quyền tự nhiên dựa trên bản tính người chứ không dựa trên niềm tin tôn giáo. Những người thổ dân có quyền sở hữu đất đai của họ, và nhà vua Tây Ban Nha không có quyền chiếm hữu. Sự việc này được tranh cãi khá nhiều. Ngày 2-6-1537, đức giáo hoàng Phaolô III  ra sắc chỉ Sublimis Deus, khẳng định :  Các thổ dân, tuy không phải là Kitô hữu, nhưng không thể bị tước đoạt tự do và chủ quyền sở hữu. Họ có quyền được hưởng tự do, sở hữu và thủ đắc tài sản. Không ai được phép bắt họ làm nô lệ”. Chính văn bản ấy đã giúp cha Bartôlômê de Las Casas tìm được nền tảng để đấu tranh cho việc phế bỏ chế độ nô lệ ở Châu Mỹ.

2. Để tìm lại ý nghĩa của chức năng

            Việc trở về với bình diện phẩm giá bao hàm nhiều ý nghĩa phong phú. Tuy nhiên, trong vấn đề huấn luyện tri thức và mục vụ, việc trở về với phẩm giá là nhằm để xác định rõ ý nghĩa của chức năng. Khi người ta “nhìn xuống”, khi lương tâm con người bị chất vấn do sự hiện diện của những người cùng khổ, thì vấn đề phẩm giá sẽ trở nên nóng bỏng. Tuy nhiên, khi thế giới đang phóng mình trên con đường tiến bộ, khi mọi người trong xã hội đua nhau để thăng tiến, khi tầm mắt con người thích “nhìn lên”, thì có lẽ chính vấn đề chức năng cần được làm sáng tỏ hơn hết. Chúng ta có được một vài kinh nghiệm quí báu trong dòng lịch sử.
Trong 300 đầu của lịch sử Giáo Hội, khi mà Giáo Hội chỉ là một thiểu số, đang gồng mình chịu đựng sự bách hại của chính quyền Roma cũng như sự nghi kỵ của thế giới “ngoại giáo”, thì nội bộ Giáo hội có được một sự đoàn kết chặt chẽ, đồng thời cũng có ý thức về sự bình đẳng căn bản. Trong thời gian ấy, người Kitô hữu ý thức phẩm giá căn bản của mình là Kitô hữu, được ban tặng qua bí tích Rửa Tội, và mọi Kitô hữu đều bình đẳng với nhau trong phẩm giá cao quí ấy. Mặc dù, ngay từ ban đầu, Nếp sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai đã có những cơ cấu căn bản của các tác vụ trong cộng đoàn, tuy vậy cha Congar ghi nhận rằng Tân Ước “không nhấn mạnh tới sự phân biệt giữa giáo dân và linh mục trong Giáo Hội, nhưng nhấn mạnh tới sự phân biệt giữa Dân Chúa và những người không phải là dân Chúa” (Xc. Y. Congar, Les Laic et Mission de L’Église, trích lại trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Ed. Cerf, 1987, p.612.). Trong bầu không khí ấy, những ân huệ khác, chẳng hạn bí tích Truyền Chức, không làm cho giáo sĩ trở nên cao quý hơn giáo dân, những là đảm nhận một chức năng khác đối với cộng đoàn. Chỉ sau khi hết bị bách hại, bầu khí Giáo Hội mới bị phân rẽ do sự khác biệt nội bộ, trong đó, giáo sĩ và tu sĩ dần dần trở thành những thành phần cao quí hơn so với giáo dân. Những giá trị ấy biến mô hình Giáo Hội trở thành “kim tự tháp”, trên đầu là giám mục, rồi linh mục, rồi tu sĩ, và ở cuối của bậc thang giá trị là giáo dân. Chỉ với Công Đồng Vatican II, Giáo Hội mới tìm lại được ý nghĩa cao quí ban đầu, theo đó mọi Kitô hữu đều bình đẳng về phẩm giá làm con cái Chúa; và từ đó mới xuất hiện nền thần học tác vụ :
“"Vì như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể, nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể lẫn nhau" (Rm 12,4-5). Thế nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: "chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Thánh Tẩy" (Eph 4,5), cùng chung một phẩm giá của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội, không còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi lẽ "không còn là người Do Thái hoặc Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô" (Gal 3,38, bản Hy Lạp; x. Col 3,11).
Vì thế, tuy trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa (x. 2P 1,1). Mặc dù theo ý Chúa Kitô, có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô”.(GH 32)
            Lối nhìn của Vatican II đã biến đổi mô hình Giáo Hội. Giáo Hội trước đây như một kim tự tháp, trở thành mô hình một sự thông hiệp bình đẳng trong Thánh Thần, trong đó, mỗi thành phần đều có chức năng riêng để phục vụ Giáo Hội.

3. Đi đến cùng ý nghĩa của phẩm giá và chức năng

            Thật ra, phẩm giá luôn phải được liên kết với chức năng, ngay trong bình diện căn bản nhất của hiện hữu người. Nếu không, khi người ta đòi hỏi một sự bình đẳng về phẩm giá, thì đó chỉ là một sự tôn trọng tối thiểu; và khi người ta nói về chức năng, thì chỉ là những chức năng trong tổ chức xã hội, dành cho những người đảm nhận trọng trách nào đó. Giữa phẩm giá và chức năng có một khoảng cách là đời sống riêng tư của mỗi người.
Có lẽ khoảng cách “đời sống riêng tư” chính là mấu chốt của vấn đề. Đối với các tổ chức xã hội, các quốc gia, thì việc tôn trọng một khoảng đời sống riêng tư của mỗi người là điều hết sức cần thiết, nếu không, quốc gia hay tổ chức đó sẽ rơi vào chủ thuyết toàn trị (totaritarisme), trong đó mỗi cá nhận chỉ được coi như một con số, chỉ có nghĩa trong kế hoạch chung của nhà nước. Nhà nước hay tập thể không sinh ra cá nhân và cũng không có quyền ban phát phẩm giá cho cá nhân. Nhà Nước hay tập thể chỉ có quyền đòi hỏi cá nhân trong những đóng góp vì lợi ích chung trong chức năng riêng của mỗi thành phần. Như thế, phẩm giá người chỉ gắn liền với nhân quyền, nghĩa là những quyền lợi căn bản của một con người, trong đó khoảng cách “đời sống riêng tư” cần được coi như một nơi bất khả xâm phạm, như một đòi hỏi tối thiểu của phẩm giá người. Thế nhưng, nếu coi phẩm giá người chỉ như một sự tôn trọng cái tối thiểu, thì cá nhân cũng chỉ “được tôn trọng” trong mức độ tối thiểu. Khi ấy, “đời sống riêng tư” có thể là “được tôn trọng” hoặc là “bị tôn trọng”, nghĩa là để cho mỗi người có quyền sống và quyền chết, có quyền phát triển và quyền tự hủy hoại đời sống của mình, quyền ăn mặc hoặc quyền “tự do chết đói”,…. miễn là không vi phạm đến ai khác, không đụng chạm đến công ích. Đây chính là bầu khí của những nước tây phương.
Khi đó, “khoảng không riêng tư”, một cách trái ngược, lại luôn luôn tìm cách tái lập lại những gì mà nhu cầu đòi hỏi về nhân phẩm đã phá hủy đi. Để đi đến khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi người, thì phải loại bỏ chế độ nô lệ, loại bỏ mọi thứ giai cấp xã hội, mọi sự phân biệt chủng tộc, mầu da, phái tính, tín ngưỡng…Thế nhưng, trong thực tế, con người lại không bao giờ loại bỏ được tính ích kỷ, tính ganh tỵ hơn thua. Con người có nhu cầu khẳng định chính mình như một như cầu chân chính để có thể làm-người, nhưng chính nhu cầu khẳng định chính mình sẽ lại là “đầu mối tội” để con người tái lập lại những những thứ giai cấp mới, nhưng thứ phân biệt mới, tái lập lại những thứ bất bình đẳng khác, theo địa vị xã hội, tài năng, tiền bạc, thậm chí cả trong đức độ.
            Mặt khác, khi người ta không tìm thấy được nền tảng nào sâu xa và trọn vẹn hơn sự công nhận của nhà nước, hoặc vì ngôi vị người có linh hồn, người ta cần phải dừng lại ở mức độ tôn trọng, tôn trọng để con người ấy được “tự do chết đói”, hoặc khá hơn một chút là tôn trọng cái tối thiểu để không nhắm mắt khi có ai đó bị chà đạp. Trong thực tế, người ta chỉ nhận ra phẩm giá người khi có những người bị xúc phạm, bị chà đạp, bị khinh rẻ, bị đối xử cách bất công. Phẩm giá người chỉ xuất hiện trong ánh mắt “nhìn xuống”, dân gian thì thể hiện một sự tôn trọng phẩm giá người khi người ta chết (nghi lễ chôn táng), các triết gia khắc kỷ thời kỳ Roma thì muốn đấu tranh để xóa bỏ chế độ nô lệ, những bản tuyên ngôn nhân quyền của thời đại mới xuất hiện để tổ chức một xã hội không còn những giai cấp, để bênh vực những người nghèo khổ… Trong lịch sử, chính sự hiện diện bi đát của những người cùng khổ đã giúp nhân loại khám phá ra ý nghĩa của phẩm giá con người.
Thật ra, phẩm giá không phải là điều tối thiểu, nhưng là điều tối đa. Con người có phẩm giá, đó là nền tảng để xây dựng tất cả mọi sự như là những con người. Nói một cách nào đó, con người có “phẩm giá là người” và “phẩm giá làm người”. Nơi con người, bản thân (là-người) và cuộc đời (làm người) luôn là “tuy hai mà một”. Tất cả mọi sự, mọi thành công và phát triển của một con người chính là diễn tả, thể hiện phẩm giá con người. Cũng như cuộc sống hiện sinh của con người cần được thể hiện một cách chính thực, để hoàn thành vận mạng của một con người, thì tất những gì con người sống và hoạt động cũng đều là sự triển khai của phẩm giá cao quý của con người.
Từ đó, chúng ta nhận ra ý nghĩa trọn vẹn hơn của phẩm giá người trong đức Tin Kitô giáo. Con người được Chúa sáng tạo từ hư vô. Đó là cái mong manh của thân phận con người. Nhưng từ hư vô, con người lại được sáng tạo “giống hình ảnh Thiên Chúa”, đây lại là nền tảng vững chắc nhất của phẩm giá người. Phẩm giá ấy được thể hiện một cách xuyên suốt trong địa vị là-người và hành trình làm-người, nghĩa là chẳng những đòi hỏi phải được tôn trọng như cái tối thiểu, nhưng còn có quyền làm chủ vũ trụ, đặt tên cho muôn vật, quyền phát triển, thăng tiến, quyền được sống phong phú trong trọn vẹn hành trình đời người như cái tối đa. Phẩm giá cao quí ấy không tự nhiên mà có, và cũng không có cách nào con người có thể tự mình giành lấy, hoặc đổi lấy được. Phẩm giá chỉ có thể có được do Thiên Chúa tặng không; phẩm giá ấy có tính cách “siêu hình”, nghĩa là gắn liền với bản tính con người, ở mọi thời mọi nơi, chứ không phải do một nhà nước nào cụ thể nào công nhận.
Thật ra, đối với Kitô giáo, việc con người được sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên Chúa” mang ý nghĩa trọn vẹn nhất là để sống-với Chúa. Phẩm giá “giống hình ảnh Thiên Chúa” chỉ có thể phát triển trọn vẹn, phong phú khi con người được sống-với Chúa. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ của Đức Giêsu. Với Đức Giêsu, con người được mời gọi phát triển trọn vẹn phẩm giá người vì được mời gọi để sống-với Chúa Giêsu và trở nên nghĩa tử của Chúa Cha. Trong đời sống đức Tin, chính bí tích Rửa Tội làm nên phẩm giá Kitô hữu, và mọi sinh hoạt của đời sống đức Tin, theo đức Gioan Phaolô II, chỉ là sự triển khai nền tảng bí tích Rửa Tội, nghĩa là một giao ước bản thân của Chúa với ta. Ý nghĩa cao quí nhất của phẩm giá người luôn hướng tới khả thể “được kêu gọi”. Phẩm giá không phải là cái tối thiểu, nằm ngủ yên ở đáy sâu phận người, và chỉ bật lên tiếng nói khô khốc để khẳng định mình khi bị chà đạp. Những phẩm giá là-người chỉ nên trọn vẹn khi được đánh thức, được chỗi dậy và được làm-người trong mối tương quan có tính ngôi vị (personnel), mối tương quan luôn bao hàm sự chân nhận phẩm giá. Như thế, ở đây, cái “khoảng cách riêng tư” không còn có nghĩa “số lượng” nhưng là “phẩm tính”. “Cõi riêng tư” không phải là một thứ “không gian”, một vài lãnh vực mà không xã hội nào được đụng chạm tới, nhưng là một chủ quyền mà chỉ riêng mỗi người có quyền quyết định. Tôi có chủ quyền để giữ lại bản thân và cuộc đời tôi, hoặc cống hiến cả bản thân và cuộc đời tôi cho ai khác.
Ta có thể nói được rằng vấn đề phẩm giá và chức năng, trong Kitô giáo, được giải đáp bằng “mầu nhiệm” ơn gọi và sứ mạng. Với ơn gọi, con người được trao tặng phẩm giá một cách “miễn phí”, được trao tặng một phẩm cao quí hơn hết mọi sự khác trong bản thân và cuộc đời; để rồi, từ cõi riêng tư của chủ quyền, tôi có thể sẵn sàng cống hiến tất cả, thể hiện chức năng phục vụ bằng cách ban tặng lại cách miễn phí cả bản thân và cuộc đời. Cuộc sống không có ơn gọi chỉ là một cuộc đấu tranh để bảo vệ cái phẩm giá tối thiểu; cuộc sống không có sứ vụ chỉ là một chức năng đối phó với những đòi hỏi bó buộc từ tổ chức chung. Trong ơn gọi và sứ mạng, không có một thứ tài năng, địa vị, hay đức độ nào cao quí hơn phẩm giá “được gọi” và có thể thay thế cho phẩm giá ấy. Trong ơn gọi và sứ mạng, mọi thứ ân ban tặng không đều là điều củng cố và diễn tả phẩm giá cao quí cũng như đều bao hàm lời mời gọi phục vụ như chức năng. Ai đó lấy ân ban chỉ nhằm thể hiện chức năng để làm nên như một thứ phẩm giá giả tạo của mình, đó là kẻ ăn gian.

4. “Cộng đoàn phẩm giá” và “cộng đoàn chức năng”

Trong cuộc sống bình thường hiện nay, cả trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, người ta vẫn cứ chao đảo giữa phẩm giá và chức năng…
- Mỗi người tu sĩ cần thiết tha với sự vụ riêng của mình, hay là an tâm với phẩm giá của mình ? Tông Huấn Đời sống thánh hiến một câu trả lời…

            Lòng tôn trọng đối với phẩm giá người là điều kiện căn bản để con người có thể sống trong thế giới yêu thương đích thực.
            Trong cuộc sống cộng đoàn, ta có thể kể ra ba loại hội họp : họp thảo luận, họp học hỏi hay huấn đức và họp chia sẻ. Trong buổi họp thảo luận, những người giỏi sẽ là những người đóng góp nhiều nhất và tốt nhất. Đôi khi chúng ta có một chuyên viên giỏi, trình bày thấu lý một vấn đề, người khác có thể im lặng lắng nghe và chấp nhận hoàn toàn. Trong buổi họp học hỏi hoặc huấn đức, người chịu trách nhiệm sẽ đưa ra những bài học khúc chiết, hoặc những mẫu gương sáng để mọi người cùng noi theo. Họp chia sẻ thì mọi người cùng chia sẻ, không phải cái hay cái tốt của mình, nhưng có thể là những tâm tư, những trăn trở, những cảm nhận và mọi người lắng nghe sẽ hiểu, thông cảm để chấp nhận nhau nhiều hơn.
Họp thảo luận là những buổi họp có tính chức năng, để nhằm giải quyết một vụ việc xẩy ra; trong đó một người nào đó giỏi dang hoặc có điều kiện cần thiết thì có thể làm thay cho mọi người khác. Họp học hỏi hay huấn đức thì có liên quan đến mọi người, nhưng tầm quan trọng vẫn là người chịu trách nhiệm, sự thiếu vắng của một thành viên không trực tiếp ảnh hưởng đến cộng đoàn. Họp học hỏi hay huấn đức cũng nặng tính chức năng nhiều hơn. Trong buổi họp chia sẻ, mỗi người đều được mời gọi hiện diện một cách tích cực, điều chia sẻ của một thành viên nào đó là điều bất khả thay thế và phải được tôn trọng. Chủ đích của buổi họp chia sẻ không phải để giải quyết một tình huống, một tình trạng, một vụ việc gì cả, mà chỉ là để mọi người đón nhận nhau.
Từ các mô hình hội họp cộng đoàn, ta có thể mở rộng ra để hiểu hơn về phẩm chất của chính cộng đoàn. Một bầu khí cộng đoàn nặng tính chức năng thì có những thành viên trở thành dư thừa, có những người có quyền nói nhiều, có quyền phê phán người khác. Hơn nữa, khi những tiêu chuẩn chung được xác lập một cách quá nhiều, hoặc như những tiêu chuẩn tri thức, hoặc như những tiêu chuẩn luân lý, thì những hoàn cảnh, những tâm tình riêng tư sẽ càng dễ bị phê phán. Một bầu khí cộng đoàn nặng tính chức năng sẽ không có chỗ để đón nhận, để đồng hành, để liên lụy những thành viên có vấn đề. Một cộng đoàn nặng tính chức năng, những người ưu tuyển sẽ là những người đắt giá nhất, và những kẻ bé mọn sẽ lại những kẻ dễ bị loại trừ nhất. Từ tiêu chuẩn này, ta có thể thấy một sự lệch lạc nào đó của bầu khí cộng đoàn đối với nhiệm cục cứu độ ưu tiên cho những người bé mọn mà Chúa Giêsu đã công bố như mầu nhiệm Nước Trời. Ta có thể thấy ở đây một thứ thần khí thế gian khác với sự tác động huyền nhiệm của Thần Khí Thiên Chúa.
Tạm kết
2. Thái độ ăn gian
- Thật sự người ta luôn rơi vào tình trạng lấy chức năng để làm nên phẩm giá. Đó là một sự ăn gian. Trong bầu khí xã hội hiện nay, phẩm giá con người lại được tô vẽ bằng những gì tầm thường nhất, không phải do chức năng của con người, nhưng là chức năng của sự vật : một đôi dép, hoặc thuốc gội đầu có thể làm cho người ta tự tin hơn. !!!
Chúa Giêsu không cào bằng, nhưng kêu gọi một cá nhân, yêu thương một cách đặc biệt; nhưng luôn luôn là một tình yêu rộng mở, có trách nhiệm… Khi đó, Chúa Giêsu đưa đến phẩm giá cao quí nhất của con người chính là ơn gọi, và sứ mệnh.
Từ một sự trân trọng phẩm giá của từng thành viên trong cộng đoàn, chúng ta có được những chứng ta của đời sống đức tin, chứng ta sự hiện diện của Chúa, chứng ta quyền năng và tình yêu kỳ diệu của Chúa. Ngược lại, thiếu sự trân trọng phẩm giá của từng thành viên, cộng đoàn sẽ rớt vào thái độ duy luân lý hoặc duy lý.
            Lập trường của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa tôn trọng con người, tôn trọng cả trong phẩm giá là người cho đến phẩm chất làm người. Đặc biệt, Chúa Giêsu mở đường cho Nếu phẩm giá là người là một gia sản chung của mọi con người mà Thiên Chúa ban cho, một cách nào đó, theo kiểu đồng đều cho mọi người, thì phẩm chất làm người lại được xác định trong một thái độ tôn trọng hoàn cảnh riêng, tâm tính riêng, điều kiện sống riêng của mỗi người. Không có một sự đồng đều “khách quan” theo kiểu một bài thi chung cho mọi học sinh, nhưng là một sự nhìn-đến, tính-đến nét đặc trưng của cá nhân mỗi người. Ở đây, một sự đồng đều khách quan lại chỉ có thể là một sự thiếu công bằng và coi rẻ chính phẩm giá làm người. Nếu phẩm chất làm người không tính đến hoàn cảnh riêng của cá nhân, thì phẩm giá là người trở nên vô nghĩa lại trở thành một sự kết án trước cho những kẻ bé mọn.










Dàn bài khái quát

1. Phẩm giá con người

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, khái niệm phẩm giá con người hay nhân phẩm hoặc nhân quyền đã được hình thành do từ sự hiện diện lù lù, của những người nghèo, những người bé mọn.
* Thời Cận Đại, ta có thể kể cột mốc chính của tiến trình hình thành khái niệm nhân quyền là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp 1789. Không kể nguồn mạch sâu xa của những tư tưởng này trong Kitô giáo (ta sẽ nói sau), người ta có thể thấy, đi trước bản Tuyên Ngôn của Cách Mạng Pháp, đã có một số tư tưởng khẳng định những quyền căn bản của con người như Thomas Hobbes (1588-1679) và J.Locke (1632-1704) ở Anh; đặc biệt là tư tưởng của các triết gia Pháp trong nhóm Bách Khoa như Montesquieu (1689-1755) Diderot (1713-1784), J.J Rousseau (1712-1778)...; và người ta cũng thấy có một số bản tuyên ngôn pháp lý quan trọng khẳng định những điều tương tự : Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1689 của Quốc Hội Anh; Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776). Tuy nhiên, bản tuyên ngôn của Cách Mạng Pháp 1789 là một cột mốc quan trọng, vì nó có một tầm ảnh hưởng rộng lớn khắp Châu Âu.
* Sau đó, trong thế kỷ XX, chúng ta có bản Tuyên Ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc 1948. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc được biểu quyết tại Paris ngày 10-12-1948 . Điều Một của văn kiện viết : “Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ”. Ta thấy Bản tuyên ngôn loại trừ hết mọi thứ kỳ thị về chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, tư tưởng; trong đó có liệt kê những điều khoản về quyền tự do cá nhân và quyền chính trị xã hội.
* Nói chung, người ta thấy có bốn “thế hệ nhân quyền” :
- Quyền tự do và quyền công dân trong lãnh vực chính trị (các bản tuyên ngôn thời cận đại)
- Quyền tự do cá nhân và quyền trong chính trị, xã hội (Bản Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc)
- Quyền của chủ thể người xét như là những nhóm cộng đồng (những suy tư của nhiều học giả và nỗ lực của Liên Hiệp Quốc để cổ võ quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc, các nhóm người như phụ nữ, trẻ em, dân tộc ít người)
- Quyền của nhân loại nói chung : cuối thế kỷ XX, người ta lại lưu tâm nhiều đến quyền sống của toàn thể nhân loại, kể cả thế hệ tương lai, chẳng hạn trong việc bảo vệ môi trường sống của trái đất.
* Điều quan trọng là những nỗ lực của con người trong việc hình thành và phát triển ý thức về nhân quyền luôn được gợi hứng, bị thúc bách do những tình cảnh đau thương, mất mát của những người ở cùng đáy xã hội. Đó là một quy luật lịch sử.
            Chúng ta có thể nói được rằng, càng “nhìn xuống”, càng “đi xuống”, thì người ta càng có nhiều cơ may khám phá ra những gì là căn bản nhất của vận mạng con người. Phẩm giá con người được lộ ra rõ nét hơn hết nơi sự hiện hữu căn bản nhất của kiếp người, khi mà những nét tô vẽ đã được tẩy sạch. Những nét tô vẽ lên bộ mặt của nhân loại, đúng ra, là những đòi hỏi cần thiết và làm cho con người thêm đẹp, nhưng lại luôn có nguy cơ làm mất đi khuôn mặt trung thực nhất của hữu thể người.
* Việc khám phá ra ý niệm nhân quyền có lẽ là một thành quả tốt đẹp nhất của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, ngay trong trong hoa trái tốt đẹp này, đã xuất hiện những nguy cơ khó có thể tránh khỏi, những nguy cơ đe dọa chính ý nghĩa căn bản của phẩm giá con người.
Khi khám phá ra phẩm giá căn bản của con người, người ta được đưa dẫn đến thái độ, chẳng những khẳng định con người có một phẩm giá đặc biệt, khác với con vật, nhưng còn phải tôn trọng từng con người, tôn trọng cá nhân mỗi người. Mỗi người phải được nhìn nhận như một cá nhân độc đáo, được thể hiện được tính cách chủ thể trong đời sống của mình. Không thể coi một con người nào như một con số vô danh chìm khuất trong tập thể; và mỗi con người như một chủ thể độc đáo cũng không thể sống đời mình một cách đoàn lũ, hùa theo đám đông một cách vô nghĩa.
Ở đây, ta có thể thấy ngay mối nguy cơ tiềm ẩn thứ nhất đó là thái độ cá nhân chủ nghĩa. Người ta dễ dàng đi từ chỗ sống phẩm giá bản thân mình một cách phong phú, đến thái độ chỉ biết bản mình mà không biết đến người khác. Khuynh hướng ích kỷ nằm sẵn trong mỗi người và người ta không dễ vượt qua nó. Người ta có thể bào chữa cho kiểu sống “lập di” của mình bằng cách gán cho nó ý nghĩa “độc đáo”. Rồi người ta cũng dễ dàng đòi người khác phải tôn trọng quyền lợi của mình, nhưng lại không dễ tôn trọng quyền lợi của người khác.
Mối nguy cơ tiềm ẩn thứ hai lại là khuynh hướng tập thể chủ nghĩa. Trong ý nghĩa này, người ta thấy rõ tính cách nguy hiểm đe dọa, phẩm giá con người nơi những chế độ toàn trị (totalitarisme) của thế kỷ XX; nơi đó, người ta xoá nhòa ranh giới giữa đời sống chung và đời tư của mỗi người. Đặc điểm chính yếu của chế độ toàn trị là cá nhân bị trưng dụng để phục vụ cho mục đích và lợi ích của tập thể; nơi đó, cá nhân chỉ được coi như một đơn vị trong một tập thể.
Có thể nói những nguy cơ tiềm ẩn trong vấn đề phẩm giá con người như thế được bộc lộ ra trên bình diện chức năng.

2. Những hệ lụy của phẩm giá

Thật ra, quá trình khám phá và đấu tranh cho phẩm giá con người luôn dựa trên một nền tảng, đó là việc coi con người như một ngôi vị, hoặc nhân vị (personne). Một cách minh nhiên hoặc mặc nhiên, người ta ý thức mỗi con người là một nhân vị. Từ ngữ ngôi vị cũng phải trải qua một lịch sử dài mới có thể hình thành rõ ý nghĩa.
luôn hàm nghĩa, người ta cũng hình thành quan niềm về ngôi vị. Ngôi vị là một   suy nghĩ đến những tính cách khác nhau để thể hiện bản thân mình. Đó là điều tất nhiên, người ta không chỉ là người, nhưng còn phải làm người. Nền tảng của nhân phẩm là con người được là người, nhưng con người cũng khác con vật ở chỗ còn cần phải làm người, nghĩa là thể hiện mình trong một quá trình, hoàn thành cuộc đời mình trong một lịch sử, “làm nên” bản thân mình bằng một nhân cách phong phú, sung mãn. Chính vì thế mà từ ngữ ngôi vị (personne) để chỉ bản thân con người, khác với con vật, lại luôn bao hàm một khát vọng triển nở không thể bỏ đi, được diễn tả trong các từ ngữ nhân cách (personnalité) hoặc nhân vật (personnage). Người ta muốn khẳng định cá tính của mình, muốn hoàn thành ngôi vị của mình với một nhân cách sung mãn hoặc muốn trở thành một nhân vật tiếng tăm….
Có thể nói cuộc đời của mỗi người là một bài toán, trong đó con người phải đáp ứng được hai nhu cầu căn bản : nhu cầu được chấp nhân và nhu cầu tự khẳng định chính mình.Có người thì chọn đáp án cho mình bằng cách phải khẳng định chính bản thân mình để được người khác chấp nhận. Có người, ngược lại, khao khát được chấp nhận một cách tặng không, để rồi việc khẳng đinh chính bản thân mình có thể trở nên một lời đáp trả nghĩa tình…
            Mặt khác, điều nghịch lý trong thực tế là, khi nhân loại nại đến phẩm giá người để đòi hỏi sự bình đẳng, thì việc khẳng định “ngôi vị” của mình lại luôn đưa đến một sự so sánh, một sự phân cấp thứ bậc, một sự đánh giá cao thấp. Rồi khi lao vào nỗ lực khẳng định bản thân mình, thì người ta lại dễ quên mất điều căn bản làm nên phẩm giá bản thân mình. Khi đó, người ta lại rơi vào một thứ xếp hạng các tầng lớp xã hội, không phải theo tiêu chuẩn của những giai cấp cố định như trong xã hội phong kiến (quí tộc, tăng lữ, giai cấp thứ ba), mà theo một cách đánh giá về tài năng, về địa vị xã hội, hoặc về của cải, hoặc ngay cả về đức độ… Làm sao một linh mục, hoặc một kỹ sư, bác sĩ, giám đốc… dẹp bỏ được một thứ cảm giác “tự tin” vào địa vị của mình, tự hào về vị thế của mình, tự mãn về sự thành công của mình ? Cha ông ta đã từng nói : miệng người sang có gang có thép…là như vậy.
Chiều hướng đó đi dần tới tình trạng, như trong nền kinh tế thị trường, có những mẩu quảng cáo, có vẻ như đã thổi phồng quá đáng sản phẩm của mình, nhưng cũng không phải là không đánh trúng vào thị hiếu vốn có của con người, đánh vào đúng lòng khát khao khẳng định mình để được chấp nhận, hoặc để hơn thua người khác : đôi dép, hoặc mùi nước hoa, nước gội đầu…lại có thể làm cho người ta trở nên tự tin, lịch lãm, vẽ nên được tương lai của đời sống…
            Thật ra, trong mức độ con người với nhau, người ta không thể tìm thấy được một nền tảng nào để có thể khẳng định, có thể bảo đảm cho một sự bình đẳng đích thực. Nếu người ta tìm thấy được sự bình đẳng về phẩm giá là-người, xét như là con người là hữu thể có lý trí, thì người ta lại không thể tìm thấy được sự bình đẳng thực sự trong hành trình làm-người.

 

4. Phẩm giá và chức năng trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô

4.1. Nền tảng của phẩm giá con người ở nơi Thiên Chúa
Một khuynh hướng trái ngược trong một vài cuộc cách mạng là người ta lại muốn “cào bằng” tất cả, ăn đồng chia đều trong tất cả mọi công việc, dù đó là những công việc thực sự không thích hợp cho một số người, mọi người đều phải và được làm những công việc như nhau.
            Cả hai thái độ đó đều do không phân biệt được phẩm giá và chức năng.
Một khi không phân biệt được phẩm giá và tài năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ khinh thường những người có ít tài năng trong cuộc đời. Nguyên nhân sâu xa của việc quên mất phẩm giá cũng là vì một lối đánh giá con người theo một tiêu chuẩn chung của tài năng, tức là khả năng đóng góp nhiều ít cho xã hội. Trong khi đó ý nghĩa của phẩm giá thì lại không thể dựa trên một tiêu chuẩn lợi ích xã hội, và người ta chỉ có thể một chút ánh sáng về điều này trong lãnh vực yêu thương.

            Thật sự, trong thế giới Tây Phương, chính Sách Thánh và tư tưởng của Kitô giáo mới là một nguồn mạch dồi dào cho vấn đề phẩm giá con người. Khẳng định căn bản của khoa nhân học Kitô giáo chính là mặc khải con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa.
            Chúng ta có thể tìm thấy một nguồn mạch của phẩm giá con người trong truyền thống Kinh Thánh. Nền tảng của khoa nhân học Kitô giáo là chính là khẳng định con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa (X. St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23-24).
            Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa. Sự quan tâm của Thiên Chúa đến cá nhân con người được khẳng định trong việc trao ban cho mỗi người có một thiên thần bản mệnh.
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. (Mt 18, 10)
            Tuy nhiên, con người không phải chỉ hiện diện trên mặt đất như một cái gì đã hoàn tất. Con người cần phải sống cuộc đời mình để hoàn thành phẩm giá là người bằng một tiến trình làm người. Con người và cuộc đời, đó là hai điều không thể tách rời nhau. Phẩm giá là người cần phải được “hoàn tất” khi tính đến một thứ tạm gọi là “phẩm giá làm người” hay “phẩm chất đời người”. Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là một sự hoàn thành chính bản thân mình trong cuộc đời, và điều đó thể hiện trong sự sẵn sàng cho đi ít nhiều chính bản thân mình :
 “Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
Và cuối cùng, cũng chính Thiên Chúa mới thể hiện được một sự tôn trọng “phẩm giá siêu nhiên” của con người, khi mời gọi tất cả mọi người, cả những người nghèo hèn tầm thường nhất, được đón nhận được trọn vẹn ơn cứu độ, khi Ngài thực hiện một mầu nhiệm cứu độ đảo ngược so với kiểu suy nghĩ sáo mòn của con người :

"Đức Giê-su nói với họ : "Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.(Mt 21,31)
            Lập trường của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa tôn trọng con người, tôn trọng cả trong phẩm giá là người cho đến phẩm chất làm người. Nếu phẩm giá là người là một gia sản chung của mọi con người mà Thiên Chúa ban cho, một cách nào đó, theo kiểu đồng đều cho mọi người, thì phẩm chất làm người lại được xác định trong một thái độ tôn trọng hoàn cảnh riêng, tâm tính riêng, điều kiện sống riêng của mỗi người. Không có một sự đồng đều “khách quan” theo kiểu một bài thi chung cho mọi học sinh, nhưng là một sự nhìn đến, tính đến nét đặc trưng của cá nhân mỗi người. Ở đây, một sự đồng đều khách quan lại chỉ có thể là một sự thiếu công bằng và coi rẻ chính phẩm giá làm người. Nếu phẩm chất làm người không tính đến hoàn cảnh riêng của cá nhân, thì phẩm giá là người trở nên vô nghĩa lại trở thành một sự kết án trước cho những kẻ bé mọn. Nói theo kiểu triết học Kant, con người có “cứu cánh tại thân”, đây là một sự trân trọng phẩm giá người; và xã hội con người cần phải trở nên như một nước “cộng hòa các cứu cánh tại thân”, đây là một xã hội vừa tôn trọng phẩm giá cá nhân vừa mời gọi cá nhân vươn lên đến sự hiệp nhất cao cả.
            Lòng tôn trọng đối với phẩm giá và phẩm chất người như thế là điều kiện căn bản để con người có thể sống trong thế giới yêu thương đích thực.
 
 
 
 
4.2 Tôn trọng phẩm giá và chiêm ngắm nguồn mạch tâm linh nơi người nghèo
            Người nghèo không phải chỉ là người không có tiền bạc, nhưng là người không có đủ năng lực để đi vào thế giới đổi chác. Người nghèo cũng là người tội lỗi, là người thiếu đức độ, là người thiếu uy tín, là người bị người ta khinh dể. Như thế, phẩm giá người nghèo không còn dựa trên một nền tảng nào theo “văn hóa” của con người. Bản thân người nghèo chỉ còn lại một điều, và là điều quan trọng nhất : phẩm giá con người mà Chúa ban cho. Do đó, điều trước tiên và căn bản trong việc phục vụ người nghèo chỉ có thể là sự tôn trọng phẩm giá căn bản của một con người như họ có được trước mặt Chúa. Từ sự chân nhận phẩm giá một con người, một con người “trần trụi” về mọi giá trị thế gian, nhưng lại có đầy đủ giá trị căn bản trước mặt Chúa như thế, chúng ta mới có thể tìm lại thế giới tình thương của Chúa, đó là sự chấp nhận chính bản thân. Người nghèo bị “bắt buộc” vượt qua qui luật đổi chác để đòi được sống trong qui luật nghĩa tình. Thật ra, trong tương quan nghĩa tình, người ta không đổi chác được. Một thanh niên tự hào mình “đẹp trai, học giỏi, con nhà giầu, muốn cô nào chẳng được…” đó là một người không biết yêu. Yêu thương là trao tặng bản thân cho nhau, và không ai có quyền “đem hết gia tài của mình để đổi lấy tình yêu” (diễm ca). Yêu thương là nhận ra mình thiếu bản thân người khác, và khẩn cầu sự tặng không bản thân của người khác, lãnh nhận bản thân của người khác với lòng tri ân. Từ nền tảng đức Tin như thế, chúng ta cũng hiểu được ý nghĩa của tình yêu Kitô giáo đúng đắn hơn. Yêu thương không hẳn là quí mến những phẩm chất “sự vật” bên ngoài bản thân, nhưng là quí trọng chính bản thân một con người. Yêu thương là chấp nhận bản thân một con người, là xây dựng một nền móng thuộc về nhau trong đức tin.    
            Người nghèo là người không có tiếng nói, nghĩa là lời nói của họ không được lắng nghe, không được trân trọng. Người nghèo không có tiếng nói, vì tiếng nói của họ không có được những “phương tiện” hỗ trợ, không có địa vị, tiền bạc. Người nghèo không có tiếng nói, vì những cách diễn tả của họ không có được nét đẹp “văn hoá”, dĩ nhiên đây là văn hóa xã hội trần thế. …Đúng hơn, người ta không nghe được tiếng nói của người nghèo, vì người ta không có được một “chân trời” giá trị mà Thánh Thần mở ra. Như thế, sự trân trọng phẩm giá người nghèo biểu lộ trong thái độ, nhờ một thứ văn hóa đức Tin, lắng nghe được “tiếng nói” của người nghèo. Chính nhờ Tin Mừng của Chúa, nhờ chiêm ngắm nhiệm cục cứu độ lạ lùng của Chúa, người tín hữu mới có thể nhận ra tiếng nói của người nghèo.
            “Tiếng nói” của người nghèo không có “âm thanh” dễ thương, dễ nghe, dễ lọt tai…, nhưng thể hiện trong sự khẩn nài dai dẳng, thể hiện trong một thứ khát vọng lì lợm. Ta có thể thấy thái độ lì lợm như thế trong trình thuật Giacóp quyết không buông tha vị thiên sứ vật lộn với ông trong đêm, cho đến khi được thiên sứ ấy chúc phúc cho mới thôi. Trong Tân Ước, ta cũng thấy thái độ ấy nơi bà góa nghèo, lì lợm đòi vị quan án “không kính sợ Thiên Chúa và chẳng coi ai ra gì” phải giải quyết nỗi bất công của bà…Ta cũng thấy thái độ tương tự trong những ví dụ khác của Chúa Giêsu về việc cầu nguyện.
            Người nghèo không sống được trong thứ “văn hóa thế gian”. Tuy nhiên, trong “văn hóa đức Tin”, trong nhiệm cục cứu độ của Chúa, người nghèo lại là những người sống với bản thân, đòi được chấp nhận bản thân mình cho tới cùng, mặc dù biết rằng mình không có gì để đổi chác trong thế giới “chợ đời”.
Người ta nói rằng : phú quí sinh lễ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là người giầu sống trong một vòng vây của rất nhiều tường rào của lễ nghĩa, của văn hoá, của lập trường tư tưởng... Những điều đó chắc hẳn là tốt, nhưng chúng cũng không phải là không có thách đố. Trong vòng vây của những lớp “lễ nghĩa” như thế, người ta đánh giá nhau qua phong thái lịch sự, người ta lo buồn chỉ vì một lời nói thiếu lịch sự . . . Trong khi đó, người nghèo là những người “bị” bắt buộc đưa chính bản thân mình vào cuộc tương giao. Người nghèo kêu gào cách lí lợm và dai dẳng để được chấp nhận, người nghèo chia sẻ “hai đồng xu”, không phải vì lễ nghĩa hay danh giá, mà là chia sẻ chính sự sống của bản thân mình. Người nghèo không bị dằn vặt nhiều vì những “lớp hàng rào”. Khi người ta túng thiếu thì lễ nghĩa quí tộc như một thứ trang trí chẳng quan trọng bằng chính những điều gắn liền với sự sống.
            Mặt khác, chính vì người nghèo sống trong sự bấp bênh, bấp bênh của chính bản thân, nên họ dễ tin tưởng và phó thác trọn vẹn cuộc đời mình vào Thiên Chúa hơn. Với người nghèo, Thiên Chúa không chỉ là một Đấng cần thiết trong suy tư đấu đá với những lý thuyết vô thần, Thiên Chúa không chỉ là Đấng trợ giúp một vài khó khăn lặt vặt, nhưng Ngài là nguồn mạch ban sự sống đích thực, Ngài thực sự là Đấng vượt qua cái chết và Phục Sinh trong chính cuộc đời của mình.



Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc

Phẩm giá và chức năng

 

1. Phẩm giá và chức năng

* Bài toán của cuộc đời : khẳng định mình để được chấp nhận hoặc được chấp nhận thì khẳng định mình.
- Nhân loại khám phá ra phẩm giá, nhưng không nối kết được phẩm giá và chức năng cho đúng :
. hoặc không phân biệt được phẩm giá và chức năng,
. hoặc khám phá ra phẩm giá, nhưng không thể đi đến cùng được ý nghĩa của chức năng : tìm được sự trân trọng phẩm giá là-người, nhưng không tìm được ý nghĩa của phẩm giá làm-người, nghĩa là thể hiện trọn vẹn phẩm giá của mình trong chức năng. Điều đó được diễn tả trong ý niệm nhân phẩm và ý niệm ngôi vị
- Giáo Hội cũng loay hoay, nếu không trở về nguồn mạch của Tin Mừng : cuộc tranh luận về đời sống thánh hiến hay đoàn sủng…/ Cuộc trở về nguồn của Vatican II khi đưa ra nền thần học về tác vụ…

2. Chức năng phải gắn liền với phẩm giá

* Một gia đình quê, làm ăn thất bại hoài… một người thân cho gọi đứa con út lên thành phố, cho ăn học…
- Phẩm giá ở mức độ con người, chỉ là sự khẳng định cái chung của mọi người (phẩm giá), nhưng con người cần tìm ra bản thân của chính mình trong cái ngôi vị (personne) của mình. Và khi khẳng định cái personne của mình, thì người ta lại thích biến thành nhân cách (personnalité), hoặc nhân vật (personnage) mà quên cái phẩm giá (humanité - dignité humaine)
- Lý do là vì người ta không tìm được nền tảng nào sâu hơn để nối kết phẩm giá. Hoặc người ta phải nại đến ý nghĩa con người có lý trí, hoặc người ta nại đến sự quy định của nhà nước (K. Marx) Giống như vô thần thì chỉ có thể tìm về lập trường “bạn ra bạn, thù ra thù”…
- Một sự chìm lắng sâu hơn, đó là hiểu bản chất người như một “sinh vật chính trị”, đúng hơn là sinh vật sống trong đô thị (chữ politique do từ chữ Polis, nghĩa là đô thị. Trong đời sống chung của đô thị, người ta sống một tình trạng tham dự vào lợi ích chung (chữ koinônia của Aristote có nghĩa là thông hiệp vào sở hữu chung; và con người “sống trong đô thị” (kôinônos) là những người tham dự vào giá trị và thiện hảo chung của đô thị…Ý nghĩa nguyên thủy của từ communicatio là như thế, chứ không phải chỉ có nghĩa là trao đổi thông tin như người ta hiểu ngày nay).

 

 

 




3. Thiên Chúa nhìn xuống

- Khi mầu nhiện cứu độ được “nhìn xuống”, Giáo Hội ý thức được tình thương cao cả của Thiên Chúa thể hiện trong lòng từ bi thương xót.
- Khi mầu nhiệm cứu độ được “nhìn lên”, người ta hình thành nên nền thần học đền thay.

            Một thí dụ khác : trong khi chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám Mục về đề tài Đời Sống Thánh Hiến, có một luồng tư tưởng muốn tìm nét căn bản của nếp sống này trong ý nghĩa của “đoàn sủng” thay vì quy chiếu vào việc thánh hiến. Người ta cho rằng định nghĩa đời tu bằng ý niệm “thánh hiến” thích hợp cho đời sống đan tu nhiều hơn, và không làm rõ nét những đoàn sủng khác sau trong các hội Dòng. Tuy nhiên, sau khi gom góp các ý kiến và viết ra tông huấn Đời Sống Thánh Hiến, đức thánh cha Gioan Phaolô II và muốn sử dụng lại khái niệm căn bản là “thánh hiến”. Ngài trình bày đời sống thánh hiến trong ba chiều kích : (1) hướng thượng : thánh hiến; (2) hướng ngoại : sứ vụ; (3) và hướng nội : đời sống cộng đoàn. Khẳng định của tông huấn có thể hiểu như là một sự khẳng định căn bản về phẩm giá đời tu dựa trên thực tại được thánh hiến. “Thánh hiến” là nét căn bản làm nên phẩm giá bình đẳng giữa mọi thành phần.



 

Phẩm giá người Kitô hữu được thể hiện

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Top