Giáo Hội Việt Nam :
có chăng một ý thức không cân xứng ?
1. Thiếu ý thức cân xứng
Có lẽ rất nhiều người dân thường trong xã hội Việt Nam thấy
rõ được một ý thức không cân xứng trong những chủ trương của chính phủ Việt
Nam, những điều mà những người đang lèo lái con thuyền đất nước lại không thấy
được : ra những quy định quá tỷ mỷ, quá lý thuyết, không hợp tình hợp cảnh
trong tình hình chung của xã hội; có những biện pháp giải quyết nhiều vấn đề
không đáng hoặc thực sự chẳng là vấn đề trong khi mà xã hội còn có quá nhiều
điều quan trọng hơn cần phải lo; bận tâm bảo đảm những nguyên tắc căn bản của
học thuyết Mác lê đến độ không còn nhận ra được chính xác những nhu cầu thật
trong một hiện tình xã hội rối beng, và trở nên như những nhà "chủ trương
duy vật một cách duy tâm"…. Người tín hữu Công Giáo thì cảm thấy rõ, quá
rõ, một thứ não trạng khó thay đổi của những cán bộ nhà nước, coi tôn giáo như
một sinh hoạt không bình thường của một xã hội vô thần, đó chính là nguyên nhân
sâu xa, là nguồn gốc của những biện pháp, những phương thức giải quyết không
cân xứng trong nhiều vấn đề dính dáng đến tôn giáo… Chẳng hạn, có một cán bộ
nhà nước, rất thân thiết với các linh mục và cũng có nhiều thái độ cởi mở,
trong lúc vui vẻ, buộc miệng tâm sự rằng : khu vực ông đáng chịu trách nhiệm là
một khu vực phức tạp, vì có mấy nhà chùa, mấy nhà thờ…. Chúng ta có thể
hiểu rằng : dù nhà nước có "tôn trong tự do tôn giáo", hoặc "có
nhiều tiến bộ trong chủ trương tự do tôn giáo", thì thật sự đó cũng chỉ là
những thứ "tự do tôn giáo" hoặc những "tiến bộ" được nhìn
từ một não trạng nào đó, phát xuất một nền tảng suy tư nào đó. Chính điều đó
tạo nên những giải pháp "không cân xứng" trong vấn đề tôn giáo.
Có một ý thức không cân xứng khi mà người ta không sáng tạo
ra được một phương sách, một đường hướng như một tia sáng "minh
triết" giữa mây mù của tình huống thực tế; khi mà người ta không làm được
một sự hoà hợp khôn ngoan, đúng đắn, giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý
thuyết và thực tế, giữa kế hoạch dài và kế hoạch ngắn hạn, giữa nét căn bản của
học thuyết hay đạo lý với những đòi hỏi đổi mới trong vận hành của dòng đời…
Trong khi những nhà sáng lập tôn giáo, dòng tu, hoặc một nhà cách mạng thực sự,
thường lại những người nhạy bén với vận hành cuộc sống, thấm nhập tâm tư của
mình vào lòng dân, tha thiết với cuộc đời, với dân tộc hoặc với Giáo Hội, thì lịch
sử lại cho ta thấy luôn có những lập trường "bảo hoàng hơn vua", hoặc
hiện trạng của những kẻ, không phải là "hậu sinh khả úy", mà là
"hậu sinh khả ố". Những kẻ hậu sinh ấy không còn giữ được nét tinh
anh của tâm hồn dấn thân, nhưng chỉ còn một sự trì trệ của thái độ phòng vệ;
chỉ còn biết giải quyết những "sự kiện" chứ không nhận ra được "chiều
hướng" của lịch sử; chỉ còn biết đề ra những "biện pháp" để đối
phó với vụ việc xẩy ra chứ không có được một chiến lược toàn bộ; chỉ còn biết
thượng tôn một thứ "chân lý" trừu tượng chứ không toát ra được hơi ấm
của cái "thiện" hoặc nét duyên của cái "mỹ" trong cách hành
xử giữa cuộc đời.
Điều khó khăn là những ý thức, hoặc cụ thể hơn là những biện
pháp không cân xứng ấy, bình thường, chính những người trong cuộc lại không
thấy được. Cái gọi là ý thức bất cân xứng ấy thuộc về một thứ gọi là não trạng,
mà não trạng thì người ta không biết lấy tiêu chuẩn nào để đo lường, để nhận
định. Não trạng là một thứ không có tiêu chuẩn chính xác để phân định, giống
như kẻ ở vào độ tuổi bốn mươi thì cảm nghĩ rằng những đứa ở vào tuổi ba mươi
còn quá trẻ, những vị ở vào tuổi năm mười thì đã quá già; rồi kẻ ở vào độ tuổi
năm mươi lại cũng suy nghĩ như thế với những thế hệ đi trước và đi sau thế hệ
của mình. Ngay cả khi có những tiêu chuẩn minh nhiên của "đạo lý",
thì tiêu chuẩn ấy vẫn có thể được giải thích một cách "thành tâm" tùy
theo não trạng.
2. Ý thức không cân xứng trong Giáo Hội Việt Nam
Triết gia B. Russell tỏ bầy ý kiến của mình về tôn
giáo nói chung là : “Xét chung thì tôi
cho rằng tôn giáo đã có nhiều hậu quả tai hại, nó thần thánh hóa chủ nghĩa bảo
thủ, cứ bám lấy những tục lệ thời trước, nhất là nó thần thánh hóa sự cố chấp,
bất bao dung và lòng căm thù. Cái thái độ, những hành động cố chấp, bất bao
dung trong tôn giáo; nhất là ở châu Âu, quả thực là ghê tởm”…. Riêng với
Giáo Hội Kitô giáo, ông nói : “Đế quốc La
Mã sụp đổ, nhưng các linh mục trong Giáo Hội có quan tâm tới cái đó đâu. Họ chỉ
lo làm sao phụ nữ giữ được trinh khiết thôi. Cái đó, đối với họ mới là rất quan
trọng… ngày nay nhân loại cũng đương sụp đổ và tôi thấy nhiều giáo sĩ địa vị
rất cao chỉ nghĩ tới vấn đề làm sao ngăn được sự thu thai nhân tạo; họ cho việc
đó quan trọng hơn nhiều việc ngăn ngừa thế chiến nó sẽ tiêu diệt nhân loại
không còn lấy một mạng. Theo tôi, họ như thiếu ý thức về cân xứng, cái
quan trọng thì cho là tầm thường và ngược lại…”[1].
Dĩ nhiên, chúng ta khó đồng ý với Russel trong quan điểm về
tôn giáo, nhưng đối với nhận xét về một thứ "thiếu ý thức về cân
xứng" thì có lẽ chúng ta nên ghi nhận. Nhận xét của Russel cho thấy nhiều
khi những thế lực tạo nên sự trì trệ không phải là một chủ trương trái khoáy,
không phải một thái độ ác độc hay một biện pháp tàn bạo, nhưng lại xuất phát từ
những lập trường đạo đức, do những con người có địa vị đáng kính trong xã hội. Ở
đây, chúng ta lại nhận ra một bình diện khác khiến cho con người có có thể vạch
mặt chỉ tên tình trạng "thiếu ý thức về cân xứng". Ý thức hoặc thái
độ bất cân xứng xuất phát từ tư cách cũng như địa vị xã hội của người chủ
trương, và như thế, nó được bảo đảm bằng một lớp vỏ kiên cố của luân lý, nghĩa
là được bao bọc bằng "cỗ xe bọc thép" của luân thường đạo lý. Khi mà
người ta còn chưa nhận ra được rõ ràng hệ quả của một lập trường, thì chính
"nguồn gốc" của lập trường ấy là một bảo đảm đáng giá. Trong khi đó,
điều gọi là ý thức bất cân xứng lại muốn nêu lên một sự so le giữa một lập
trường với chính vận hành của cuộc sống. Nguồn gốc của một lập trường là một điều
có vẻ dễ thấy, có vẻ dễ đánh giá; còn nét "hòa" cần thiết của một lập
trường với vận hành của cuộc đời lại là một điều chỉ có thể cảm nhận được một
cách mơ hồ, bằng một thứ "linh giác" nào đó.
Thực sự, Giáo Hội Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng mừng
trong một tình hình xã hội không thuận lợi lắm. Không phải chỉ trong lãnh vực
"số lượng" những cả trong bình diện "phẩm chất" của đời
sống đức tin, nói chung, chúng ta cũng thấy có nhiều biến chuyển tích cực. Tuy
nhiên, hình như những tiến bộ ấy, đặc biệt trên bình diện tư tưởng, vẫn nằm
trong chiều hướng nỗ lực bảo vệ cơ chế và tinh thần cũ; vẫn là một cố gắng củng
cố mà chưa có được một sự thấm nhập vào dòng sự sống của xã hội cũng như những
biến chuyển trong tâm thức của người tín hữu. Có lần tôi nghe một người giáo
hữu nhận xét rằng, trong giáo xứ của tôi, quanh năm chỉ thấy toàn những
"bảng cấm", những bảng cấm treo khắp sân nhà thờ và những "bảng
cấm" trong những "bài giảng cuối lễ của cha xứ" : không để trẻ
em nô đùa, không buôn bán trong sân nhà thờ, không ăn mặc lố lắng khi đi tham
dự thánh lễ, … mà chẳng thấy có được những hướng dẫn mục vụ có khả năng khởi
nguồn cho sự sống đức Tin nào… Đó có phải là bức tranh biếm họa về gương mặt
của chính Giáo Hội Việt Nam
?
Cuộc sống xã hội Việt Nam
đang có nhiều biến chuyển, tâm thức con người Việt Nam, không trừ ra những người giáo
dân, cũng đang có nhiều biến chuyển. Nếu không đồng hành được với thời đại,
những vị hữu trách sẽ có nhiều biện pháp giải quyết đầy nhiệt tâm, những lại
rơi vào tình trạng thiếu cân xứng. Trong rất nhiều sinh hoạt hằng ngày của các
giáo xứ, các giáo phận và trong hiện tình chung của Giáo Hội Việt Nam, chúng ta
có thể thấy một thứ ý thức, cũng như nhiều biện pháp như thế : những quy định
về phụng vụ, những biện pháp chế tài trong lãnh vực hôn phối, nhiều phương thức
quá đề cao trật tự, lễ nghĩa trong các giáo xứ…. Trước hiện tình Giáo Hội Việt Nam, chúng ta
vui vì nhiều tiến bộ, nhưng cũng không khỏi ưu tư : liệu những tiến bộ nói trên
có phải chỉ là một nỗ lực "quát nạt những con trâu già", chứ chưa
phải là dám leo lên chiếc máy cày để đổi mới phương thức canh tác ? Số lượng
những người tín hữu đi lễ và xưng tội vẫn còn rất đông, nhưng cũng có không ít
người tín hữu bị trôi theo dòng thời cuộc, không thích được với những đòi hỏi
trong Giáo Hội và bị loại trừ.
3. Nguyên nhân và hệ quả của ý thức không cân xứng
3.1 Không hòa nhập với dòng đời
Nguyên nhân căn bản của ý thức không cân xứng là do những
người lãnh đạo đã không có được một sự hiệp thông thực sự với dòng chảy của
cuộc sống, không sống như một người trong cuộc với lịch sử xã hội và Giáo Hội. Người
ta nói rằng nếu những kẻ ngồi trong bàn nhậu không bắt đầu nhậu cùng với nhau
thì thế nào cũng có cãi nhau, hoặc đánh nhau. Một bàn nhậu đã bắt đầu từ 11g
trưa; rồi đến 2g chiều, có một kẻ nhập cuộc. Trong khi những người nhậu từ đầu
đã ngà ngà, đã trải qua một quá trình vượt qua bước tường lễ nghĩa, thì kẻ đến
sau lại mang đầy ý thức của một con người phải đối phó với cuộc sống bằng những
quan điểm lập trường của mình… chuyện tất yếu xẩy ra là sự cãi nhau hoặc đánh
nhau.
Trong Công Đồng Vatican II, Giáo Hội ý thức mạnh mẽ về sự xa
cách giữa Giáo Hội với thế giới, giữa những con người của Giáo Hội, như các
linh mục, tu sĩ, với cuộc sống xã hội; và Hiến Chế Mục Vụ đã trở thành một văn
kiện đặc biệt mở ra với thế giới :
"Vui mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai
đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa
Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong
lòng họ. Thực vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được
qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về
Nước Cha và đã đón nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế, cộng
đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử
nhân loại" (MV 1)
Trong chiều hướng ấy, Công Đồng đã mở ra cả một trào lưu mới
trong sinh hoạt của Giáo Hội, trào lưu vào đời, thực tập… Rồi sau hơn 40 năm
Công Đồng, trào lưu đó không còn sức nóng của nó, và vận hành của Giáo Hội, đặc
biệt là Giáo Hội Việt Nam, hình như lại trở về với sức ì cố hữu. Những con
người của Giáo Hội Việt Nam, tiêu biểu là hàng giáo phẩm và các linh mục, tu sĩ
Việt Nam hiện hay, đã có đủ "âm
hưởng" của những "Vui mừng
và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo
và những ai đau khổ" không ? Tiếc thay, vì một số lạm dụng nào đó
trong trào lưu "vào đời", chúng ta lại thấy trong Giáo Hội Việt Nam có khuynh
hướng muốn củng cố thêm sự tách biệt của linh mục, tu sĩ với giáo dân, chẳng
hạn vấn đề qui định y phục của giáo sĩ trong một số giáo phận… Hậu quả chúng ta
có thể thấy được khá rõ là, trong khi Công Đồng Vatican II nêu lên nét linh đạo
căn bản của người giáo dân là "tính trần thế", thì hầu như các nỗ lực
của giới giáo sĩ lại theo chiều hướng lôi người tín hữu ra khỏi những lo toan
của cuộc sống hằng ngày để chăm chú vào "sinh hoạt nhà đạo" :
"Tính cách trần thế là
tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân. Thực vậy các phần tử trong hàng
giáo sĩ dù đôi khi có thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa
đời, nhưng vì ơn kêu gọi đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là sứ
vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao
quí rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa
được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật. Vì ơn gọi riêng, giáo dân có
bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt
chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như
từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong
gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ.
Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như
men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của
mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng chứng đời
sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng
và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không
ngừng phát triển và bành trướng theo Thánh Ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Ðấng Tạo
Hóa và Ðấng Cứu Ðộ. "GH 31b).
Cũng thế, chúng ta thấy điều mà Công Đồng coi như là một
trong những nguy cơ trầm trọng nhất của thời đại, tức là sự tách biệt đời sống
đức tin khỏi cuộc sống đời thường, thì dường như từ xưa đến nay, vẫn là một nét
"nổi nang" nhất trong bộ mặt của Giáo Hội Việt Nam:
"Công Ðồng khuyến
khích các Kitô hữu, công dân của cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung
thành những bổn phận trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh
thần Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai đang khi biết rằng chúng ta không có
một quê hương trường tồn ở trần thế và đang phải kiếm tìm một quê hương hậu lai
để rồi vì đó tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian, như thế là
không nhận thấy chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó hoàn hảo hơn,
mỗi người tùy theo ơn gọi của mình. Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với
những ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào công việc trần thế như thể các
công việc ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo, vì cho rằng đời sống tôn
giáo chỉ còn hệ tại những hành vi phượng tự và một vài bổn phận luân lý phải
chu toàn. Sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của
nhiều người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta".(MV
43 a)
3.2 Thái độ phòng vệ
Một khía cạnh khác khiến cho người ta có ý thức không cân
xứng là thái độ nhập cuộc mang đầy tính phòng vệ, phòng vệ vì một nét đạo lý,
hoặc phòng vệ vì một lối tổ chức quen thuộc nào đó. Nếu một người sống được
thái độ "hòa mình" với vận hành của cuộc sống, người ấy sẽ cảm nhận
được sự trôi chảy của cuộc đời. Cuộc sống là một lịch sử, và lịch sử luôn biến chuyển.
Biến chuyển không có nghĩa là đánh mất căn tính; ngược lại, chính trong biến
chuyển mà sự sống mới được thể hiện một cách chân chính. Chính trong biến
chuyển, sự sống mới hình thành được nét thống nhất như một "logos"
(không phải là logique) căn để. Người sống ý thức phòng vệ giống như thái độ
của một ông gác cửa nhà dòng : thay vì chọn thái độ như một người thay mặt nhà
dòng để đón tiếp khách, thì ông ta lại luôn nghĩ tới chuyện bảo vệ nhà dòng
khỏi những kẻ quấy rầy. Do đó mà những người có hoàn cảnh khác thường bị loại
trừ.
Trong bản chất của đời sống con người ở trần gian, chính
lịch sử là một "chiều kích thứ tư" của những thứ "không gian
chân lý ba chiều". Ta có thể thấy rõ tầm quan trọng ấy khi nhận định rằng
chính mặc khải của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, như là mặc khải trọn vẹn nhất
của Thiên Chúa cho con người cũng được đặt trong chiều kích thứ tư của thời
gian :
"Khi nào Thần Khí sự
thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói
điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho
anh em biết những điều sẽ xảy đến". (Ga 16,13)
Một khi những ý tưởng chỉ được suy diễn ra từ một vài nguyện
tắc nào đó mà không nhìn ra được cái toàn thể cuộc sự việc, thì chính trong
dòng lịch sử, những ý thức không cân xứng ấy sẽ lộ mặt như một lực cản cho đà
phát triển của cuộc sống, hoặc đánh mất đi cơ may tạo nên một bước ngoặt quan
trọng trong vận hành của cuộc sống.
3.3 Thái độ giả hình
Về hệ quả, một ý thức không cân xứng thường đưa đến hiện
trạng "giả hình". Nhiều khi giả hình không phải là một thái độ đánh
lừa người khác, nhưng là đánh lừa chính mình. Khi không có đủ dũng khí để hội
nhập vào vận hành của cuộc sống, người ta thường bám vào một vào một số quy
định, một số luật lệ, và tự lấy làm an ổn với lòng mình. Những luật lệ và những
quy định chính thức ấy thì khó có thể sai được. Tuy nhiên, những luật lệ và qui
định thì vẫn có thể rơi vào tình trạng "bất cân xứng". Khi ấy, người bám
vào luật lệ và qui định thường khi nhìn thấy một khía cạnh mà đánh mất tầm nhìn
toàn bộ, và thái độ ấy sẽ rơi vào tình trạng không nhận ra những điều quan trọng
mà lại cứ dưng dưng tự đắc như mình là hoàn toàn đúng. Đó chính là tình trạng
giả hình của những người Biệt Phái mà Chúa Giêsu đã phải nặng lời khiển trách :
"Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người nộp thuế thập phân về
bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là
công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia
thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng ! Các người lọc con muỗi, nhưng lại
nuốt con lạc đà.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả
hình ! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những
chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa
bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.(Mt 23,
23-26)
Kết
Chỉ có một tiêu chuẩn để làm sáng tỏ ý thức không cân xứng,
đó là để cho chính vận hành của cuộc sống sẽ mang lại một câu trả lời cụ thể.
Những ý thức và những biện pháp không cân xứng chỉ sáng tỏ ra khi mà lịch sử
trôi đi, để lại những bài học không thể chối cãi.
Trong giây phút hiện tại của cuộc sống, làm sao và ai có
quyền quả quyết ý thức nào, biện pháp nào là không cân xứng ? Câu trả lại của
chúng ta chỉ có thể là Chúa Thánh Thần; chính Ngài dẫn dắt lịch sử nhân loại và
lịch sử Giáo Hội; chính Ngài đưa Giáo Hội đến sự thật toàn vẹn của Chúa Kitô;
và hơn lúc nào hết, Giáo Hội Việt Nam hôm nay cần tha thiết nguyện xin ơn soi
sáng cũng như dám mở tâm hồn để đón nhận giải pháp của Ngài.
Tư
Cù O.P.
[1] Bertrand
Russell, Thế Giới Ngày nay và Tương Lai Nhân Loại, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn
Hóa,1996
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.