Đề tài : Tìm Lại Giá Trị Bản Thân

Ngỏ
Trong Kitô giáo, điều gì không đạt đến mức độ “bản thân” thì chưa trọn vẹn ý nghĩa. Thiên Chúa dân thân chính bản thân Ngài, trong Đức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa nhập thể làm Người; Thiên mạc khải chính bản thân Ngài trong Giao Ước và trong Lời; Thiên Chúa dùng chính bản thân mình để thay thế lễ hy sinh và lễ toàn thiêu; Thiên Chúa trao ban bản thân Ngài cho con người qua ân sủng; Thiên Chúa hiện diện bằng chính bản thân Ngài trong bí tích Thánh Thể. . . .
Có thể nói cách tổng quát, bản thân là cái khác với sự vật. Do đó, con người cũng chỉ có thể dến với Chúa một cách chân chính bằng chính bản thân mình. Không có con đường nào khác.
Khám phá lại giá trị bản thân, sống niềm tin cũng như sống nhân bản Kitô giáo nơi bình diện bản thân, đó là nẻo đường tìm lại sự sống chân chính của ơn gọi con người cũng như sống chân chính lời mời gọi của của niềm tin.

Dàn bài
1. Hiệp nhất trong tự do
1.1 Các mô hình
1.2 Tìm nền tảng hiệp nhất trong tự do nơi tín lý Kitô giáo
1.3 Tìm nền tảng hiệp nhất trong tự do nơi tinh thần Đa Minh

2. Đối diện với Chúa để có thể sống thật bản thân mình
2.1 Hiện tượng                                  : Bệnh so sánh
2.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo        : Tìm hạnh phúc
2.3 Giải pháp tâm linh                     : Đối diện với Chúa

3. Sống với Chúa bằng giao ước bản thân
3.1 Hiện tượng                                  : Bệnh cào bằng
3.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo        : Xác tín phẩm giá con người
3.3 Giải pháp tâm linh                     : Sống Giao ước bản thân

4. Sống như con cái là trao tặng chính bản thân cho Chúa
4.1 Hiện tượng                          : Bệnh hình thức
4.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : Tự do và dâng tặng
4.3 Giải pháp tâm linh             : Dâng trọn vẹn bản thân cho Chúa

5. Đón nhận bản thân của người khác
5.1 Hiện tượng                          : Bệnh xầm xì
5.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo        : Cảm thông và tri ân
5.3 Giải pháp tâm linh             : Bé mọn để lãnh nhận

6. Sống với ơn gọi và sứ vụ để có thể hoàn thành bản thân
6.1 Hiện tượng                          : Bệnh tính toán
6.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : Dám mắc nợ nghĩa tình
6.3 Giải pháp tâm linh             : Ơn cứu độ từ Yêu thương


*******




1. Tinh Thần Hiệp Thông trong nề nếp quản trị Đa Minh

Hay

Hiệp Nhất trong Tự Do

1.1 Các mô hình

            Tôi xin dùng một hình ảnh hình học để diễn tả một cách khái quát ý niệm hiệp nhất trong tự do :
Nếu chúng ta có hai điểm A và B bên cạnh nhau, thì từ hai điểm đó chúng ta có thể có những “vectơ” khác nhau :
- Hoặc là A và B chạy đến với nhau và sát nhâp thành một;
- Hoặc là A và B chạy theo hai chiều hướng đối nghịch và càng ngày càng xa nhau;
- Hoặc là hai điểm ấy luôn gĩư mãi khoảng cách đúng và cố định bằng cách tuân theo một trục thẳng để trở thành hai dường song song chạy dài mãi.
- Cuối cùng, ta có thể cho hai điểm ấy vẫn chạy song song, nhưng không phải là dựa theo một định luật cố định nào để thành hai đường thẳng song song, mà là một sự thuận tình trong “sáng tạo nghệ thuật”, để trở thành hai đường song song bay lượn, vòng lên và vòng xuống, qua phải và qua trái mà vẫn giữ được một sự liên đới đúng đắn.
* Trường hợp thứ nhất là lập trường của những người muốn thống trị người khác, tạo nên sự hiệp nhất bằng cách chinh phục và loại bỏ cái tôi của người khác. Nhưng đó thật sự không phải là hiệp nhất mà là độc nhất. Khi ta muốn người khác làm theo ý mình mà không đếm xỉa gì đến cảm nghĩ của họ, không cần biết đến sự thăng tiến bản thân họ, không tôn trọng phẩm giá của họ… thì ta đã, vô tình hay hữu ý, chọn giải pháp độc tài. Giải pháp đó xúc phạm đến phẩm giá con người, vì đã hy sinh một con người, hoặc hy sinh ý nghĩa làm người để ưu tiên cho một “sự vật” nào đó. Rất nhiều khi người ta, nhân danh ích chung, vì lý tưởng cao đẹp, hoặc tìm mọi cách để đạt được hiệu năng công việc nào đó. . . mà lại đánh mất chính ý nghĩa làm người của mình và người khác. Con đường trở thành bạo chúa là con đường khởi sự từ chỗ chỉ lấy mình làm tiêu chuẩn duy nhất đúng, không muốn trao đổi ý nghĩ với người khác, không muốn sửa đổi lập trường của mình. Trên con đường ấy, người ta muốn coi người khác chỉ là tay sai, phải làm và cứ việc làm một cách máy móc những điều mình ra lệnh. Bình thường nẻo đường đó sẽ vấp phải những trục trặc, vì tha nhân không phải là một cục đất sét. Tha nhân là người, là kẻ có suy nghĩ và có tự do,… những điều ấy thế nào rồi cũng trở thành những lực cản cho tiến trình thực hiện ý định riêng của chính mình. Thế là người ta lại phải tiếp tục đàn áp cái riêng tư và độc đáo của tha nhân cho đến khi tận diệt chính “mạng sống” của họ. Hành trình trở nên bạo Chúa cũng có thể “thành đạt” ở chỗ tiêu diệt phẩm chất hiện hữu của tha nhân khi ta vui thích với sự vâng phục tối mặt, khoái chí với thực trạng : tao có mấy thằng lính mà tao nói gì nó cũng làm răm rắp . . ..
* Trường hợp thứ hai là tình trạng “cá đối bằng đầu”, tình trạng vô chính phủ, mạnh ai nấy sống, mạnh ai nấy làm, không ai “mắc mớ” gì tới ai. Khi người ta đề cao một thứ tự do hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa, người ta cũng rơi vào tình trạng tự phá hủy chính phẩm giá của mình. Con người của thứ tự do ấy cũng lấy mình làm tiêu chuẩn duy nhất đúng, đóng kín trong bản thân mình để cũng “tận diệt” tha nhân, không phải bằng cách áp đặt ý muốn của mình, không phải bằng bạo lực trên tha nhân, nhưng bằng phương cách loại trừ tha nhân ra khỏi mối quan tâm của chính mình và “bạo lực” trên chính khát vọng yêu thương của bản thân mình. Một thứ tự do cá nhân mà không thể tạo nên được gặp gỡ, hiệp thông, chia sẻ với người khác, thì theo tinh thần Kitô giáo, đó không bao giờ là tự do thực sự, bởi vì thứ tự do đó không phải là môi trường thanh thản và chân thật để con người sống đúng khát vọng yêu thương sâu xa của mình, mà chỉ là một thứ nô lệ cho thế lực của ác thần.
* Trường hợp thứ ba diễn tả một sự “hiệp nhất”, nhưng lại là một sự hiệp nhất do một áp lực ở bên trên và bên ngoài. Người ta có thể an tâm khi A vẫn là A; và B vẫn là B; không có sự tận diệt sự hiện hữu của nhau như giải pháp thứ nhất. Người ta cũng có thể khoái chí vì A vẫn ở gần bên B như thể có một sự liên đới, hiệp thông nào đó chứ không phải sự xa lạ như giải pháp thứ hai. Thế nhưng đó cũng chỉ là một sự hiệp nhất bên ngoài. Có một thế lực khác kềm gĩư A và B để chúng không tiêu diệt nhau và cũng không xa nhau. Giải pháp này cũng không phải là hoàn hảo, vì một khi không còn áp lực nào, thì tình trạng cũ sẽ lại đâu vào đấy. Hơn nữa, cái áp lực làm cho A và B vẫn đi theo hai đường thẳng song song cũng lại là một thứ bạo lực, loại trừ tự do của con ngừơi và đánh mất phẩm giá chân chính của con người. Có người nhận xét rằng Nước Mỹ là một nước tự do, người ta dùng cả một hệ thống pháp luật tinh vi, kỹ lưỡng để bảo đảm cho tự do của người dân; nhưng cuối cùng, người dân lại phải làm nô lệ cho chính luật pháp. Phải chăng nước Mỹ chính là hình ảnh  tiêu biểu của trường hợp thứ ba ?
* Trong trường hợp thứ tư, ta thấy những giá trị căn bản của phẩm giá con người đựơc bảo vệ : tôn trọng cá nhân mỗi người, để cho mỗi cá nhân sống trọn vẹn bản sắc riêng của mình. Nơi đây, người ta tìm thấy sự hòa hợp cộng đoàn trong một tinh thần tự nguyện, trong bầu khí tự do và rộng mở cho việc phát huy khả năng sáng tạo bản thân của mỗi người. Nơi đây, mối giây căn bản để nối kết A và B không là gì khác hơn đức ái. Đức ái chỉ có thể sống và phát triển thực sự trong bầu khí tự do, đó là khi người ta được tôn trọng, khi người ta được tin tưởng. Sự hiệp nhất như thế chỉ có được như một thành quả “thuần chất người”, vì nơi đó chỉ có nhân vị, chỉ có tự do, chỉ có tình nghĩa chân thành và tự nguyện chứ không có một thứ “tạp chất” của sự vật nào
Có lẽ điều làm cho người ta ngại với giải pháp thứ tư, đó là vì giải pháp này có vẻ phiêu lưu. Người ta sợ một kết cục không tốt sẽ xẩy ra khi trao trọn chìa khóa của vấn đề vào ý chí tự nguyện của cá nhân. Đó là căn bệnh nhát sợ, không dám tin vào con người, nhưng đặt niềm tin vào các phương pháp kỹ thuật, tin vào các biện pháp kỷ luật, tin vào các phương thức khoa học.
Có lẽ điều làm cho người ta ngại với giải pháp thứ tư này, đó là vì người ta mong có được một kết quả. Đó là căn bệnh “thực dụng”. Xin tạm hiểu từ ngữ thực dụng theo một nghĩa riêng ở đây : thực dụng là khi người ta tìm đạt tới một kết quả nào đó mà lại bỏ rơi mất phẩm giá con người; thực dụng là khi người ta hy sinh tự do của con người để có được một điều gì không phải là sự phát triển thực sự của con người; thực dụng là người ta sử dụng con người như một phương tiện để đạt đến một mục đích nào khác. 
Có lẽ điều làm cho người ta ngại với giải pháp thứ tư là người ta không dám tin vào tình yêu, không dám tin vào sức mạnh của tình yêu, và người ta thay thế tình yêu bằng một nguyên lý khác cho mối tương quan của con người với nhau.
Tôi nghĩ rằng giải pháp sau cùng là một hình ảnh đẹp nhất, lý tưởng nhất của tình yêu chân chính, tình yêu dựa trên nền tảng tín lý về Ba ngôi Thiên Chúa, nền tảng tín lý về sáng tạo, nền tảng tín lý về ơn cứu độ…; và giải pháp sau cùng ấy cũng là hình ảnh lý tưởng của tinh thần quản trị Đa Minh.

1.2 Tìm nền tảng hiệp nhất trong tự do nơi tín lý Kitô giáo

1.2.1 Dựa trên nền tảng tín lý về Ba Ngôi : tín lý cho chúng ta biết rằng Ba Ngôi bằng nhau, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém, Ba Ngôi “một tính một phép”. Trong một nền tảng như thế, Ba Ngôi lại luôn hiệp nhất với nhau để vẫn luôn là một Thiên Chúa duy nhất chứ không phải ba Chúa. Có thể nói được rằng sự hiệp nhất được nhìn trong ánh sáng mạc khải của Ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta thấy một mầu nhiệm, chẳng những là một mầu nhiệm nội tại của Ba Ngôi, nhưng là một mầu nhiệm diễn tả tính cách sống động, “phiêu lưu”, sáng tạo của tình yêu và sự hiệp nhất đích thực. Hiệp nhất đích thực dĩ nhiên không thể là thái độ mặc ai nấy sống như thể là ba Chúa khác nhau; nhưng hiệp nhất đích thực cũng không bao giờ có thể thực hiện được bằng sự triệt tiêu phía bên kia, để trở thành một ngôi duy nhất. Ngoài ra, ta cũng có thể khẳng định rằng chẳng có một định luật nào khác bên ngoài và cao trọng hơn Ba Ngôi để có thể bắt ép các Ngôi Vị Thiên Chúa phải chấp nhận một sự hiệp nhất theo kiểu hai đường thẳng song song. Như thế, theo cách nhìn của con người, chúng ta thấy chỉ có thể có một giải pháp duy nhất để tìm được sự hiệp nhất, đó là sự hiệp nhất của tự do dâng tặng, hiệp nhất trong hành trình sống động của một sự sáng tạo bản thân liên lỉ, hiệp nhất thể hiện trong một tình yêu bằng một thái độ tự nguyện dâng tặng chính bản thân của mình. Thiên Chúa là tình yêu, và chúng ta hiểu được rằng phẩm chất căn bản của thứ tình yêu chân chính ấy phải là : tuy Ba mà Một, tuy Một mà Ba.
1.2.2 Dựa trên nền tảng tín lý về sáng tạo : Giáo Hội phải đấu tranh để chống lại một thứ học thuyết sáng tạo theo kiểu lưu xuất. Cuộc đấu tranh ấy không phải là không có ý nghĩa cho thân phận con người, cho ý nghĩa làm người. Chân lý ấy không phải chỉ là một chân lý “duy tín” nhưng là một chân lý cứu độ. Vũ trụ và con người, theo tín lý Công giáo, không phải là một mảnh của Thiên Chúa lưu xuất ra khỏi bản thân Ngài; con người không phải là một kết quả của một giọt máu thần linh nào đó từ Thiên Chúa rơi ra…Tín lý Công giáo khẳng định vũ trụ và con người được sáng tạo tự hư vô; nghĩa là được Thiện Chúa sáng tạo như một sự mời gọi bước ra từ hư vô, để hình thành nên chính mình trong một quá trình lịch sử, để đi đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Như thế, con người không cùng bản chất thần linh với Thiên Chúa theo mức độ “hữu thể học”, nhưng con người chỉ được mời gọi hiệp nhất với Thiên Chúa trong tình yêu, nghĩa là hiệp nhất mà vẫn luôn là mình.  Tín lý Công Giáo không chấp nhận kết quả của hiệp nhất như là một sự hòa tan vào trong Chúa để làm tan biến đi hoàn toàn bản ngã của bản thân mình. Lối hiệp nhất hòa tan ấy không diễn tả được mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, thứ tình yêu có dáng dấp “hiệp nhất trong đa dạng”. Như thế, con người được xuất hiện để hình thành nên chính bản thân mình trong dòng lịch sử, và để mãi mãi, đời đời kiếp kiếp là mình như một con người độc đáo không gì có thể thay thế được. Chính cái tôi độc đáo như thế mới có khả năng đi vào mối tương quan yêu thương chân chính với Thiên Chúa theo kiểu “hiệp nhất trong đa dạng”.
1.2.3 Trên nền tảng của tín lý cứu độ : Chúa Giêsu không chấp nhận đường lối cứu độ của Satan, đường lối cứu độ đầy hiệu năng nhưng lại đanh mất tự do của con người; đó là cứu độ bằng “bánh mì”, bằng sự lạ và bằng quyền bính thống trị (Xc. Mt 4,1-11). Những cách cứu độ ấy có thể mau chóng thu phục mọi người theo Chúa nhưng lại hàm chứa một thái độ coi thường con người và không đếm xỉa đến tự do của con người. Chúa Giêsu đi vào đường lối của Chúa Cha, nghĩa là trao ban một tình yêu lớn hơn mọi tình yêu, rồi kiên nhẫn chờ đợi sự đáp trả tự do của con người. Đó là đường lối tôn trọng con người và mong ước được đón nhận “đối tác” là những con người, tự do và tự nguyện tin tưởng và đáp lại tình yêu mến của Chúa bằng chính tình yêu của mình.
Không bao giờ con người tan biến bản ngã của mình trong Chúa, theo kiểu sự hợp nhất của pho tượng muối đối với đại dương, như Anthony de Mello đã kể; mà cũng chảng có chuyện con người trong Nước Trời mai sau được sống lại sẽ sống như ở mãi tuổi 33 của đức Giêsu . Con người được sống lại cả hồn lẫn xác, nghĩa là con người được đi vào sự hiệp thông với Chúa bằng trọn vẹn cuộc đời mình, trọn vẹn hành trình lịch sử của mình. Khác với Phật giáo đi tìm sự siêu thoát, ơn cứu độ của đức Kitô không bao giờ có tính cách ‘qua sông bỏ lại đò”, nhưng là khám phá chính bến bờ mình đang khao khát đã có ngay trong những phiền lụy của chuyến đò; nghĩa là trân trọng từng niềm vui và nỗi buồn làm nên hành trình lịch sử của mỗi con người.

1.3 Tìm nền tảng hiệp nhất trong tự do nơi tinh thần Đa Minh

            Thánh Đa Minh không để lại một bản văn nào diễn tả linh đạo của mình. Đó là một điều hiếm thấy trong các Đấng lập dòng. Người ta chỉ còn giữ được một vài chứng thư của thánh Đa Minh cấp những người lạc giáo quay trở lại và một bức thư viết cho các nữ tu. Người ta có hai nguồn để khám phá linh đạo  của thánh Đa Minh, đó là chính cuộc sống của ngài, được tường thuật lại qua các nhân chứng; và nhất là nhờ những dấu ấn của Ngài trong bản văn Hiếp Pháp sơ khai và trong đường lối quản trị của Ngài.
            Trong cuốn “Thời Khai Nguyên của Dòng”, chân phước Jourdain de Saxe viết về cha thánh như sau : “Người rộng lòng bác ái đón nhận mọi người và vì người yêu mến mọi người, nên cũng được mọi người mến yêu. ‘Vui với người vui, khóc với người khóc’, đó là điều người chọn làm tôn chỉ cho mình : giàu lòng từ bi, hết lòng săn sóc tha nhân và xót thương những người túng cực”. Những mô tả đơn giản ấy, cùng với nhiều lời chứng khác, cho chúng ta thấy một dung mạo hết sức nhân bản của cha thánh : cha sống hồn nhiên với con người, cha thể hiện tình yêu với người khác chứ không phải chăm chăm với công việc. Cha không “làm việc” với anh em như những công cụ của việc tông đồ, nhưng trước tiên là như những người anh chị em của mình. Ngài cảm thông và hiệp thông với khó khăn, với niềm vui và nỗi buồn của người khác; rồi từ chính mối giây hiệp thông ấy, ngài khuyến khích và nâng đỡ anh em của mình vươn lên.
            Tuy nhiên, nguồn mạch căn bản của tinh thần thánh Đa Minh chính là dấu ấn của ngài trong bản văn Hiến Pháp mà Dòng luôn muốn bảo tồn, đặc biệt trong những số Hiến Pháp Nền Tảng.          Trong chín số ngắn ngủi của Híến Pháp Nền Tảng cô đọng nhứng điều không thể thay đổi của tinh thần Đa Minh, ta thấy có hai số diễn tả nét hiệp thông Đa Minh, nét hiệp thông không phải do cơ chế nhưng từ tinh thần tự do, đó là số VI và số VII..
1.3.1 Tìm sự hiệp thông trong tinh thần
            Đầu tiên, chúng ta thấy một nét rất đặc biệt của Dòng là khẳng định luật không buộc thành tội :
“Cũng do chính sứ vụ của Dòng, trách nhiệm và ân sủng riêng của anh em được xác nhận và cổ võ theo một cách thế đặc biệt. Vì một khi hoàn tất việc đào tạo hiến định, mỗi anh em được kể như người trưởng thành, vì sẽ hướng dâm những người khác và đảm đương những phận vụ khác nhau trong Dòng. Chính vì lý do này, Dòng đã muốn rằng các luật riêng của Dòng không buộc thành tội để anh em đón nhận những luật ấy một cách khôn ngoan, “không như nô lệ dưới ách luật, mà như con cái trong ân sủng” (Hiến Pháp sơ khởi, tự ngôn) (HPNT VI)
            Chúng ta thấy có hai lý do được nêu lên để giải thích khoản luật “kỳ lạ” này :
+ Nhằm để anh em sống “không như nô lệ dưới ách luật, mà như con cái trong ân sủng” (Tu Luật Âu tinh, số 8.)
+ Vì anh em, sau  khi hoàn tất việc đào tạo hiến định, phải được coi như những người trưởng thành, cần phải khôn ngoan và tự do để đảm đương nhiều phận vụ khác nhau.
Điều khoản đó cho thấy một nỗi ưu tư của thánh Đa Minh là ưu tư về chính bản thân của mỗi người tu sĩ chứ không phải ưu tư về một nề nếp trật tự ổn định của cộng đoàn; đó cũng là mối ưu tư về một cách sống hiệp thông chân thực trong tinh thần chứ không phải là ưu tư về những hình thức đúng đắn bên ngoài. Quả thật, đó là một sự tin tưởng hết sức vào chính anh em của mình; tin tưởng không phải chỉ trong những điều mà mình chưa hiểu rõ về sự kiện bên ngoài, nhưng cả trong những điều đã rõ là ngược với những quy định của hiến pháp. Không muốn đồng nhất việc vi phạm Hiếp Pháp với tội, đó là khẳng định có một yếu tố khác có thể làm thay đổi bản chất của hành vi vi phạm bên ngoài. Đó không là gì khác hơn muốn tin tưởng vào tinh thần bên trong của anh em, tin tưởng và tạo điều kiện trong sự trưởng thành thật sự của anh em. Tinh thần tin tưởng nhau như thế nhằm loại trừ thái độ xầm xì dòm ngó nhau, cũng như loại bỏ kiểu giữ luật cho qua lần chiếu lệ đối với Chúa. Khi đó, ta mới có được một bầu không khí trong lành của một sự cảm thông thực sự giữa anh em với nhau cũng như của một tâm tình chân thành không tính toán đối với Chúa. Niềm tin tưởng ấy kêu mời, chất vấn, để người tu sĩ Đa Minh không phải chỉ sống với Chúa và sống với anh em mình bằng lớp vỏ của những qui định bên ngoài, nhưng bằng tinh thần tự do của con cái Chúa. Chính niềm tin tưởng như thế, có thể mở đường để anh em sống một sự trưởng thành thật sự. Thật sự, nhiều khi ta thấy không có gì làm cho người ta dốt hơn là làm học trò, nghĩa là nhiều khi chính hoàn cảnh làm cho người ta ấu trĩ.
Tinh thần tự do đối với lề luật như thế còn được nhấn mạnh thêm bằng một qui định luật pháp : luật chuẩn chước. Hiếp Pháp nền tảng IV nói tiếp :
“Cũng do mục đích của Dòng, bề trên có quyền miễn chuẩn “mỗi khi thấy thích hợp, nhất là trong những gì xem ra cản trở việc học hành, giảng thuyết và lợi ích của các linh hồn” (HPNT VI)
Như thế, chuẩn chước không còn là chuyện tối kỵ hoặc bất đắc dĩ nữa, nhưng là chuyện bình thường, đặc biệt là khi thấy cần thiết cho việc học và việc tông đồ. Ra Luật nhưng lại dự trù luật chuẩn chước, đó là một thái độ không phải là thượng tôn luật pháp bất cứ giá nào, mà là đặt ưu tiên cho bản thân người tu sĩ và ưu tiên cho sứ vụ mà Dòng đã lãnh nhận từ Hội Thánh.
Một cách nào đó, ta có thể thấy nơi đây một khẳng định vừa hết sức nhân bản, vừa hết sức Tin Mừng. Nhân bản vì bản thân con người có giá trị trên luật lệ xét như là luật lệ thuần túy; điều đó cũng có nghĩa là luôn hiểu rằng luật luôn luôn là luật chung cho mọi người, nhưng mỗi cá nhân con người lại có cứu cánh nơi bản thân mình. Con người được dựng nên vì chính mình, để sống trọn vẹn bản thân mình, để đạt được cứu cánh nơi bản thân mình và không bao giờ được biến bất cứ một con người nào trở thành một phương tiện hoặc trở thành “con dê tế thần”, cho dù cho Chúa hay cho một sự ổn định của tập thể.
“Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính ho, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến dâng” (MV 24)
Hơn nữa, mỗi con người có cứu cánh nơi chính mình, đó là nền tảng căn bản và độc đáo nhất của lập trường nhân bản Kitô giáo. Chính vì thế mà chúng ta hiểu được câu nói độc nhất vô nhị của Chúa Giêsu :
“Người nói tiếp : "Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát.” (Mc 2,27)
            Và cũng chính vì lẽ đó là chúng ta được mời gọi để sống sự tự do bát ngát của con con cái Chúa : “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta.”(Gl 5,1).
            William a Hinnebrusch O.P, trong tác phẩm Linh Đạo Đa Minh, có trích lại lời của Tổng Giám Mục Pascal Robinson, một sử gia dòng Phan Sinh nói về luật chuẩn chước như sau :
“Tôi sẽ nêu lên một nét mới lạ nổi bật trong tu luât của thánh Đa Minh; và đây thực sự là nét đặc trưng đối với Dòng của ngài, đó là nguyên tắc chuẩn chước. Nguyên tắc chuẩn chước này được nói dến ở phần đầu của  Hiến Pháp khi đề cập tới mục đích của Dòng. Điều này cho thấy rằng việc chuẩn chước, điều chỉnh và dung hòa việc ứng dụng các luật lệ, một điều hoàn toàn chưa hề có trong các tu luật trước đó. Hiểu một cách chính xác, việc chuẩn chước này đúng là kiệt tác của việc lập pháp Đa Minh. Hơn nữa, nó cho phép Dòng có thể đáp ứng nhứng nhu cầu mới mà vẫn duy trì được sự thống nhất. Nó cũng là một khí cụ hoàn hảo của tinh thần khổ chế, vi khi thực hiện nó, đòi hỏi một sự từ bỏ những cách nhìn hẹp hòi và những mục tiêu tầm thường ở mọi thời đại” (trang 60, bản dịch đầu tiên)
            Về điều này, cha Timothy Radcliffe, trong bài “Tự do và trách nhiệm, hướng tới một linh đạo về quản trị” có một đoạn văn dài rất hay như sau :
“Mục đích mọi cuộc đào tạo của chúng ta đều nhằm gíup cho anh em thành những con người tự do và có trách nhiệm. Và đó là lý do tạo sao Hiếp Pháp nói rằng người có trách nhiệm tiên quyết đối với việc đào tạo là chính ứng sinh (HP 156). Việc quản trị đặt căn bản trên lòng tin tưởng vào anh em. Chúng ta bày tỏ lòng tin tưởng của chúng ta khi nhận cho anh em tuyên khấn. Cũng một thái độ tin tưởng ấy hiện diện trong việc bầu cử các bề trên. Các bề trên cũng phải tin tưởng anh em, những người mà các ngài chỉ định vào các chức vụ. Đôi khi chúng ta có thất vọng, nhưng đó không phải là lý do để từ khước thái độ tin tưởng lẫn nhau như thế. Anh Simon Turgwell viết : “Nói cho cùng, nếu tu sĩ Đa Minh phải làm công việc của mình một cách đàng hoàng, thì phải sẵn sàng chấp nhận một số may rủi nào đó, và họ cần phải được tin tưởng để có thể đương đầu với những may rủi đó. Và Dòng cũng phải chấp nhận một số, có thể là nhiều, những cá nhân có thể lạm dụng sự tin tưởng ấy”
     Một thái độ tin tưởng như thế, đòi chúng ta phải vượt thắng nỗi sự hãi, sợ điều có thể xảy ra nếu không kiểm soát anh em. Chúng ta phải đào tạo anh em biết sống với sự tự do của thánh Đa Minh như thế. Anh Felicissimo Martinez viết : ‘không có việc gì phục vụ con người vĩ đại hơn là giáo dục họ để họ biết sống tự do… Nỗi sợ hãi tự do có thể bắt nguồn từ thiện chí của những người cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác, và có thể được cho là hợp lý khi nại đến thực tế. Nhưng điều này lại cho thấy một cái nhìn thiếu tin tưởng vào năng lực và sức mạnh của kinh nghiệm Kitô giáo. Sợ hãi và thiếu đức tin thường đi dôi với nhau”.
(Timothy Radcliffe, Hát Lên Bài Ca Mới, Tự do và trách nhiệm, hướng tới một linh đạo về quản trị, tr. 99)
1.3.2 Tính cách dân chủ như một cơ chế bảo đảm cho sự hiệp thông trong tự do
            Cha Timothy Radcliffe cho rằng tính dân chủ là điểm trọng tâm của linh đạo Đa Minh trong Dòng (Timothy Radcliffe, Hát Lên Bài Ca Mới, Tự do và trách nhiệm, hướng tới một linh đạo về quản trị, tr. 105-106). Trong định chế dân chủ của chúng ta, nhiều người đã nói rồi, không thể hiện ở việc bỏ phiếu, theo luật chơi “đa số thắng thiểu số”. Thứ dân chủ ấy chỉ là một phương pháp giải quyết những xung đột hoặc những khác biệt bằng một luật chơi mà không phải là không có bất công. Tính dân chủ của Dòng, sâu xa hơn, chính là việc hội họp, trao đổi trong anh em để tìm một sự hiệp nhất thật sự, sự đồng tâm nhất trí, tình hiệp thông huynh đệ, sự cộng tác tông đồ . . . tu luật Au Tinh và Hiếp Pháp Dòng đã nhắc nhở.
“Để sự cộng tác tông đồ và hiệp thông huynh đệ đem lại kết quả phong phú hơn, thì sự đồng tâm nhất trí tham gia của mọi anh em rất quan trọng : “vì điều thiện được mọi ngượi chấp thuận sẽ được xúc tiến cách mau lẹ và dễ dàng”. Vì thế, trong mọi tu viện, phải tổ chức những cuộc hội họp để cổ võ đời sống tông đồ và tu trì. (Hiến pháp 6)
Quả thật, tinh thần dân chủ của Dòng thể hiện ở tầng sâu hơn trong cơ chế dân chủ, đó là : tạo điều kiện để có một sự bàn bạc, trao đổi một cách bình đẳng  Tinh thần Dân chủ Đa Minh không phải chỉ là bỏ phiếu nhưng là cả một hệ thống quản trị, trong đó, mỗi thành viên chính thức của Dòng đều được công nhận như một thành phần toàn vẹn của cộng đoàn. Mỗi thành viên đều có quyền được hội họp, được bàn bạc, nghĩa là mỗi người được chấp nhận như chính bản thân họ là, cho dù là tính tình hay trình độ hiểu biết thế nào. Mỗi thành viên là chủ thể của những quyết định trong cộng đoàn, có quyền và có nghĩa vụ đóng góp vào việc quản trị chung của cộng đoàn. Nền tảng sâu xa nhất của thể chế này cũng không là gì khác hơn một sự chân nhận phẩm giá của mỗi người trong tập thể, không lấy lợi ích trước mắt của tập thể để bắt một ai phải chịu, phải chấp nhận một cách miễn cưỡng. Nền tảng ấy “qui định” việc chấp nhận quyết định chung qua việc bỏ phiếu như một lời mời gọi mỗi người hãy chấp nhận bản thân người anh em của mình hơn là đặt ưu tiên cho hiệu năng của công việc.
“Việc quản trị hữu hiệu trong các cộng đoàn đòi chúng ta sống mối tương quan quyền lực theo đường lối này, đem lại quyền lực cho anh em hơn là làm cho anh em suy yếu. Điều này đòi chúng ta phải cam đảm dám chịu thương tổn” (Timothy Radcliffe, Hát Lên Bài Ca Mới, Tự do và trách nhiệm, hướng tới một linh đạo về quản trị, tr. 99)
“Việc quản trị hữu hiệu tiến hành suông sẻ khi chúng ta nhìn nhận và tôn trọng quyền bính mà mỗi anh em đều có, và từ chối tuyềt đối hóa bất cứ hình thức quyền bính nào. Nếu chúng ta tuyệt đối hóa quyền bính của các bề trên, thì Dòng chúng ta hết huynh đệ. Nếu chúng ta uyệt đối hóa quyền bính của các nhà tư tưởng, thì Dòng chúng ta trở thành một viện hàn lâm ký quặc. Nếu chúng ta uyệt đối hóa quyền bính của các mục tử, thì chúng ta phản bội lại sứ mạng của chúng ta trong Hội Thánh. Nếu chúng ta cho rằng quyền bính của những người cao niên là bất khả bàn luận, thì chúng ta sẽ không có tương lai. Nếu chúng ta cho rằng quyền bính chỉ thuộc về người trẻ, thì chúng ta sẽ mất gốc. Sự lành mạnh trong việc quản trị của chúng ta phụ thuộc vào việc để cho mọi tiếng nói ảnh hưởng qua lại để tạo nên cộng đoàn.(Như trên, tr. 100-101)
Như thế, việc tìm ý Chúa trong quyết định chung được “phó dâng” cho niềm tin của tình huynh đệ; và như thế, đây thực sự là cuộc phiêu lưu của tình huynh đệ chứ không phải là biện pháp để nhằm hiệu quả. Cha Timothy Radcliffe nói :
 “thể chế dân chủ đáng yêu của chúng ta cần có thời giờ. Đó là thời giờ chúng ta mắc nợ lẫn nhau. Nó có thể làm cho chúng ta chán nản. Một số người, cũng như tôi, chán ngán những cuộc hội họp kéo dài. Không hiệu quả. Tôi không tin rằng Dòng chúng ta sẽ là một trong những Dòng hiệu quả nhất trong Hội Thánh. Và tìm cách để được như thế là sai lầm. Cảm tạ Thiên Chúa vì có nhiều dòng hiệu quả hơn chúng ta. Cảm tạ Thiên Chúa vì chúng ta không cố gắng ganh đua với các dòng ấy. Một mức độ hiệu quả nào đó là cần thiết nếu chúng ta không đánh mất tự do vì tình trạng trì trệ của mình. Nhưng nếu chúng ta lấy hiệu quả làm mục đích theo đuổi, thì có thể chúng ta làm băng hoại sự tự do vốn là tặng phẩm chúng ta dành cho Hội thánh. Chúng ta có truyền thống cho mỗi anh em được quyền có tiếng nói, nhưng tiếng nói đó sẽ là chứng tá cho các giá tri Tin Mừng mà chúng ta cống hiến cho Hội Thánh và đó cũng là điều mà Hội thánh hiện nay cần hơn bao giờ hết” (nt tr. 109)
1.3.3 Một sự hiệp nhất trong đa dạng
Tinh thần Đa Minh nói chung là một nỗ lực nối kết những điều tưởng chừng như đối nghịch. Những điều xem ra đối nghịch và thực sự cũng có nhiều đối nghịch trong một thực tế nào đó, thì tinh thần Đa Minh lại tin tưởng ở một sự hoà hợp sâu xa hơn và nếu ta đạt đến một mức độ “cao hơn” : tinh thần Đa Minh nối kết ân sủng với nỗ lực thực hành nhân đức, nối kết trí tuệ và đức ái, đề cao cộng đoàn nhưng lại áp dung phương cách dân chủ . .  và nhất là nối kết giữa sứ vụ chung với thiên tư của mỗi cá nhân anh em. Trong chiều hướng đó, thánh Thomas đã để lại một câu châm ngôn vàng, diễn tả một cách nào đó chính tinh thần Đa Minh mà ngài được sống, tinh thần “hòa điệu trong khác biệt” : “Ân sủng không phá hủy tự nhiên nhưng kiện toàn tự nhiên”.
Hiến Pháp Nền tảng VI nói :
“Cũng do chính sứ vụ của Dòng, trách nhiệm và ân sủng riêng của mỗi anh em được xác nhận và cổ võ theo một cách thế đặc biệt. Vì một khi hoàn tất việc đào tạo hiến định, anh em được kể như những người trưởng thành. . .”
            Trong nền tảng của một đời sống Đa Minh mà yếu tố đầu tiên chính là “chung sống” (HPNT IV), thể chế quản trị Đa Minh lại nhắc nhở chúng ta một điều ra như trái nghịch : “Trách nhiệm và sứ vụ riêng của mỗi người anh em được xác nhận và cổ võ…”. Hai điều xem ra đối nghịch nhau như thế, được Hiếp Pháp khẳng định trong Hiếp Pháp nền tảng như là những yếu tố không thể thay thế được của Dòng; và Hiếp Pháp cũng tinh tế để nói lên một ngõ mở của sự hòa hợp thâm sâu bên trong rằng : “chung sống đồng tâm nhất trí” chứ không phải chỉ là cứ “chung sống” và không chỉ chung sống một cách hình thức. Cũng thế, Hiếp Pháp Nền Tảng nói : “Trách nhiệm và sứ vụ riêng . . . . .  được cổ võ theo một cách thê đặc biệt”, chứ không phải là thứ cổ võ thứ cá nhân chủ nghĩa lệch lạc.
Có lẽ chúng ta khó tìm được điều gì rõ hơn để giải gỡ vấn đề một cách logíc. Có lẽ chúng ta không có một công thức hay một biện pháp để giải gỡ sự mâu thuẫn trên bình diện hữu hình, trừ khi là chúng ta phải xác định ưu tiên cho một bên nào đó, để rồi loại trừ bên kia và cũng loại bỏ cả nét linh diệu của tinh thần Đa Minh. Một sự hòa hợp giữa sứ vụ, ân điển riêng và chung sống đồng tâm nhất trí chỉ có thể có được ở một bình diện khác, bình diện tinh thần. Đúng hơn, việc chung sống và thể hiện tài năng riêng, chỉ có thể thể hiện được mà không bên nào tiêu diệt bên nào, khi chúng ta nhận ra cuộc sống là một cuộc phiêu lưu, sự hiệp nhất là một cuộc phiêu lưu, trong đó, mỗi cá nhân là một phẩm giá độc đáo và càng trở nên cao cả hơn trong phẩm giá cũng như trong sự độc đáo của mình khi dám tự nguyện chấp nhận hy sinh vì nhau; và ngay cả cộng đoàn cũng được mời gọi để dám hy sinh một thứ trật tự nề nếp đẹp đẽ nào đó để cho cá nhân được thể hiện trọn vẹn ân điển riêng của mình.
Hiến Pháp số 20, II nói :
“Vì Chúa Thánh thần cũng hưỡng dẫn Hội Thánh bằng những tài năng và những đặc sủng đặc biệt, nên các bề trên khi hành sử quyền bính, phải xem xét cẩn thận các ân huệ riêng của anh em cũng như thẩm định và sắt xếp nhứng gì đã được Chúa Thánh Thần khơi lên trong Dòng, tùy theo thời đại và nhu cầu để mưu ích cho Hội Thánh. Vì thế cả khi thực hiện các phận vụ lẫn khi đưa ra những sáng kiến, trách nhiệm tương xứng của anh em phải được nhìn nhận và tự do được dành cho anh em trong những giới hạn của công ích và theo tài năng của mỗi người.”

Kết luận

Khi một đứa trẻ sống lang thang đầu đường xó chợ, nó được sống một cách “tự do”, nhưng nó sẽ dễ dàng bị lây nhiễm những thói hư tật xấu. Người ta đưa đứa trẻ về nhà, sống trong nhà để được giáo dục, để được biết những nét văn hóa tốt đẹp của cuộc sống; nhưng rất có thể, trong ngôi nhà đó, đứa trẻ không còn tự do. Thay vì niềm vui được sống trong gia đình, nó lại phải giữ lễ nghĩa một cách bó buộc. Chính điều đó làm cho đứa trẻ muốn bỏ gia đình để lại đi bụi đời. Có lẽ người ta thường chỉ giải gỡ tình trạng đứa trẻ trên bề mặt và không đi rốt ráo vấn đề. Muốn “giải quyết” vấn đề đứa trẻ, chẳng những cần đưa nó về nhà, nhưng cũng cần cho nó được sống tự do trong một bầu khi yêu thương thực sự của một đứa con trong nhà, chứ không phải là kẻ nô lệ. Lề luật nhiều khi lại làm có cho người ta thêm tội là như thế, nếu khi người ta không đạt đến được sự tự do Kitô giáo đích thực.
 “Tôi thiết nghĩ : bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản.  Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định.  Chúng ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ.  Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,  để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.  Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : "Áp-ba, Cha ơi !"  Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gl 4,1-7)



2. Đối diện với Chúa

để có thể sống thật bản thân mình

2.1 Hiện tượng : Bệnh so sánh

Học trò thường ít khi nhận thực khả năng của mình với môn học, nhưng chỉ so sánh số điểm của mình với số điểm của bạn bè để vui hay buồn. Cũng thế, người ta thường chỉ thấy hài lòng hoặc không hài lòng về cuộc sống của mình khi so sánh với những người chung quanh. Lý do sâu xa của hiện tượng ấy có thể là do người ta thường đi tìm sự sung sướng hơn là đi tìm hạnh phúc.
So sánh, đó là căn bệnh “đứng núi này trong núi nọ”, căn bệnh làm cho người ta luôn bất an vì luôn sống trong nỗi sợ người khác hơn mình; vì nếu mình hơn người này, thì lại có người khác hơn mình. So sánh và chạy đuổi người khác để vẽ nên bản thân mình, đó là thực trạng của rất nhiều ngừơi trong chúng ta. Quả thật, con người khá yếu đuối, thường xao xuyến khi đối diện với tha nhân :  chỉ cần một ánh mắt nhìn của người khác, một thái độ của người khác đã có thể làm cho bản thân mình xao xuyến : đối diện với người có cử chỉ bối rối, ta cũng trở nên ngượng ngịu; nói chuyện với người “nổ” một chút, ta cũng muốn “nổ” để bản vệ bản thân mình; đối diện với người giỏi, người giầu, người có thế lực… , bản thân ta đã có thể rơi vào tình trạng hoặc muốn chống lại, hoặc bị khuất phục bằng muôn ngàn hình thức…
Bệnh so sánh, trong đời sống đức tin chính là căn bệnh giả hình của những người biệt phái : thích phô trương, thích được kính trọng trong những nơi công cộng…. Bệnh phô trương như thế cho thấy mối quan tâm lớn trong lòng của những ngừơi biệt phái không còn là sống công chính trước mặt Chúa cho bằng hơn bận tâm so sánh hơn thua với những người khác.
* Ý nghĩa 
Từ căn bản, hiện tượng so sánh chính là thái độ nhìn tha nhân như là người đe dọa; coi tha nhân không phải như bạn đồng hành nâng đỡ, nhưng như những người có khả năng tước đoạt mất của mình một điều gì đó. Nẻo đường này chính là hành trình, nói theo kiểu của J.P Sartre, đưa đến một bên trở thành khổ dâm và một bên trở thành bạo dâm, nghĩa là một bên vui khi thống trị người khác, và một bên vui khi bi thống trị, chứ không có sự gặp gỡ đích thực của hai chủ thể.. Đó cũng chính là cách thức chọn “giải pháp I”. Trong giải pháp này, người ta giống như người bơi dưới nước sâu, chân không chạm đất mà đầu thì cứ muốn trồi cao lên trên mặt nước để “bằng chị bằng em”. Trong giải pháp này, người ta chọn hướng ưu tiên thứ nhất là vươn lên, nhưng chính khi đó, người ta hổng giò và tay chân chới với. Trong giải pháp này, người ta phải đạp, phải đẩy người khác ra nếu như nó bám vào bản thân mình, vì có nguy có mình bị chìm xuống   . . .
* Hệ quả
Bệnh so sánh tạo nên lối sống giả hình. Người ta sống với nhau và với Chúa bằng mặt nạ; nghĩa là luôn phải tìm một thái độ để đối phó, chứ không phải là một sự diễn tả đơn sơ, trong sáng, chân thật về bản thân mình. Rồi vì quá quen với vai trò của mình trong xã hội, người ta lại thường đồng nhất bản thân mình với vai trò ấy (xem tiểu thuyết Nữ Diễn Viên).
Trên hành trình này, nỗ lực của cuộc sống chỉ còn là đấu tranh, đấu tranh nhằm khuất phục được người khác để khẳng định bản thân mình. Đó không là gì khác hơn “hành trình trở thành bạo chúa”; đó là rơi vào cuộc đấu tranh của con vật. Đấu tranh khuất phục người khác là qui luật của con vật chứ không phải của con người. Nói cách khác, đó qui luật của kỹ thuật chứ không phải qui luật của nghệ thuật. Trong qui luật của con vật, người ta càng ngày lại càng cô đơn; trong khi qui luật thâm sâu của con người chính lại là tìm thấy một sự hiệp nhất trong hiệp thông chân thật. . . .
Rồi người ta ghen tức vì người khác hơn mình, mặc cảm vì mình thua sút, không có khả năng chia vui với người khác. “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), đó là câu mà thánh Đa Minh chọn làm châm ngôn cho mình và chính vì thế, ngài luôn có thể sống chân thật với mọi người. Châm ngôn đó không phải dễ thực hiện, nhất là không thể thực hiện được bằng kỹ thuật, bằng phương pháp tâm lý nào cả, nhưng phải bằng cách nối lại mối tương quan chân chính…

2.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : tìm hạnh phúc

Hạnh phúc khác với sung sướng. Sung sướng bao giờ cũng là kết quả của một cuộc so sánh. Ngày xưa người ta không sung sướng bằng con người hiện nay, nhưng ngày xưa người ta vẫn có thể thấy mình sung sướng khi so với những người chung quanh thời ấy. Hạnh phúc thì chưa chác ngày xưa hay ngày nay có nhiều hơn; hạnh phúc chưa chắc có nhiều hơn ở những nơi người ta sung sướng hơn…
Hạnh phúc là khám phá ra ý nghĩa sống của bản thân mình mình và mình được là mình một cách trọn vẹn. Hạnh phúc không có do so sánh với người khác, với thời đại… Hạnh phúc là thái độ quay lại với chính mình, khám phá ra bản thân mình và khám phá ra nhu cầu yêu thương, nhu cầu hiến thân để phục vụ người khác.

2.3 Giải pháp tâm linh : Đối diện với Chúa

Người môn đệ Chúa được mời gọi đối diện với Chúa để nhận ra bản thân mình cách chân thật (MT 6,1-6,16-18). Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ, thay vì bận tâm đối chiếu đời mình với người khác, thì cần vào trong phòng, đóng kín cửa, đừng cho tay phải biết việc tay trái làm, khi ăn chay thì hay có bộ mặt tươi tỉnh . . ., để chỉ đối diện với Cha anh em ở trên trời. Dưới cái nhìn của Chúa, người môn đệ có thể sống một cách ngay chính, chân thật; vì “cái nhìn” của Chúa là một cái nhìn trong sáng hoàn toàn, không mặc cảm, không hợm hĩnh, không đe dọa, không bao che, không đòi hỏi, không kết án, không kích thích bản năng con vật của chính con người. . .
Thế nào là cái nhìn trong sáng ? Đó là cái nhìn có thể xóa được nỗi xao xuyến của con người; nỗi xao xuyến về việc hoàn thành vận mạng của mình; đó là cái nhìn chấp nhận bản thân ai khác, đó là cái nhìn có khả năng giúp con người tìm lại bản thân mình và đón nhận bản thân trong sự bình an, đó là cái nhìn chan hòa tình yêu và có khả năng chấp nhận người khác vô điều kiện. Ta có thể kiểm nghiệm điều ấy khi diễn giải cuộc đời mình dưới cái nhìn của Chúa; khi đó ta sẽ không còn bị kích thích một thái độ chống đối, bực tức, bào chữa, nhưng thanh thản và có thể cười được trước những sai sót lỗi lầm của chính mình.
Biết Chúa để có khả năng biết mình nhiều hơn, và biết mình nhiều hơn thì lại càng nhận ra mình cần Chúa hơn. Quả thật, lời cầu nguyện của thánh Âu Tinh, “xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con” là lời cầu nguyện có khả năng giúp con người thoát được bệnh so sánh, tránh được lối đấu tranh nhằm thống trị của con vật, vượt lên con đường tìm sung sướng, để khám phá ra bản thân và an vui với bản thân.
Cần khám phá lại bản thân, không phải để hơn thua ai, nhưng đó là con đường  khám phá tình yêu của Chúa cho bản thân mình một cách rõ rệt, đó là khám phá ra nét đẹp bản thân, khám phá cái hài hòa, cái  duyên riêng. Chỉ khi là mình trọn vẹn để có thể hiệp thông thực sự với người khác. Tuy nhiên, đây không phải là nỗ lực “tu sửa” như người ta thường làm một cách vô vọng, mà là cấu trúc lại bản thân trong tình yêu của Chúa.



3. Sống với Chúa

bằng giao ước bản thân

3.1 Hiện tượng : Bệnh cào bằng

Nhân loại có một sự bất bình đẳng khó có thể giải quyết ở mức độ công bằng xã hội hay nói chung là ở mức độ con người : Có người muốn hợp thức hóa sự bất bình đẳng (các triết gia Hy Lạp, đặc biệt là Aristote); có người lại muốn cào bằng một cách khiên cưỡng (K. Marx), hoặc như chúng ta thấy trong thời bao cấp. Bao giờ thì xã hội chủ nghĩa có thể đạt đến giai đoạn “ làm theo khả năng, hưởng thụ theo nhu cầu” ? ? ?
Căn bệnh cào bằng ấy, trong nhà tu, thánh Âu Tinh đã từng nêu lên như một sự bất công : “…vì không phải tất cả anh em đều khoẻ mạnh như nhau, nhưng ai cần bào nhiêu sẽ cho bấy nhiêu… và cũng đừng cho là bất công” (Tu Luật thánh Au Tinh giám mục, số 1). Chủ trương ăn đồng chia đều trong nhiều nhà dòng cũng là một thứ cào bằng…
Sâu xa hơn, đó chính là sự cào bằng trong luân lý : lấy một tiêu chuẩn chung của luật pháp, của thói quen để kết án người khác; sinh ra bệnh xầm xì trong đời sống chung. Bởi vì mỗi người có một khởi đầu khác nhau và có một hành trình khác nhau, nên khi ta lấy một tiêu chuẩn chung nào đó để đoán xét nhau, đó cũng là cào bằng và cũng là bất công. Tinh thần Đa Minh chủ trương luật không buộc thành tội… và chỉ can thiệp trong mức độ lối sống của anh em ảnh hưởng tới nề nếp chung, chứ không đoán xét anh em trong lương tâm của anh em trước mặt Chúa. Đó chính là cách thức giải quyết nề nếp chung trong sự tôn trọng phẩm giá lương tâm của người khác. Khi quan niệm cá nhân con người chỉ là một thành phần phụ thuộc của xã hội, người ta lấy tiêu chuẩn luân lý của một thời đại, tiêu chuẩn luân lý của một lập trường chính trị, không phải chỉ để kết án về hệ quả chính trị, nhưng lại kết án về luân lý đối với người người đó, người ta vi phạm đến phẩm giá con người. Lối kết án luân lý quá dễ dàng, với những lời lẽ nặng nề về luân lý trong các nước xã hội chủ nghĩa thường làm nên những chuyện dở khóc dở cười, có những kẻ bị coi là phản động, phá hoại, đốn mạt… rồi bỗng chốc lại trở nên anh hùng, … Căn bệnh cào bằng đã làm nên không ít bất công hơn căn bệnh bóc lột. 
* Ý nghĩa 
Cào bằng là một phương cách tìm sự hiệp nhất trong sự đồng loạt, bằng một kiểu thống nhất nghèo nàn. Đó cũng là cách thức “hiệp nhất” của sinh vật cấp thấp, là “đồng nhi bất hòa” chứ không phải “hòa nhi bất đồng”. Cào bằng là cách phá hủy tính cách riêng biệt độc đáo của cá nhân; chủ trương đồng nhất luôn tạo nên tính cách đoàn lũ trong cách sống.
Quá đề cao “công bằng vật lý” chia đều lợi tức, theo tinh thần duy vật, điều đó không thể tạo nên cơ hội để mỗi người là mình một cách chân thực và là mình để thực sự thực thi bác ái, bao bọc, hy sinh cho nhau… Quả thật cuộc sống con người không thể giải quyết được bằng giải pháp duy vật, mà chỉ có thể giải quyết được bằng giải pháp tinh thần, đúng hơn là giải pháp tôn giáo và giải pháp tình yêu.
* Hệ quả
Bất công vẫn hoàn bất công, vì cào bằng không có khả năng tính đến hành trinh cá nhân, không có khả nằn tính đến tấm lòng con người, không có khả năng đi vào hoàn cảnh riêng của mỗi người. Cào bằng làm được một sự “ra vẻ công bằng”, khi chỉ xét đến hiện tượng bên ngoài, nhưng lại tạo nên một sự bất công sâu xa khác khi tính đến tấm lòng, tính đến tinh thần của con người, tính đến thiện chí, tính đến huyền nhiệm của mỗi vận mạng con người.
Cào bằng gây nên một số oan ức, xúc phạm phẩm giá một số người khác : luật chung không phải bao giờ cũng đúng cho mọi trường hợp; nhất là khi người ta lấy luật chung để tạo nên một tiêu chuẩn đạo đức; rồi dùng tiêu chuẩn đạo đức đó để kết án người khác.

3.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : xác tín phẩm giá con người

Con người sinh ra đã có một sự bất bình đẳng mà không thể nào xóa đi được bằng các biện pháp cào bằng : nam - nữ, khoẻ - yếu, tài - kém, đẹp - xấu…; nhưng không ai được quyền xúc phạm đến phẩm giá làm người của một người xem ra thua sút mọi sự đối với người khác. Phẩm giá là người không nằm trong những điều ấy. Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp cũng không phân biệt được “tài năng” và phẩm giá con người.
Nhưng phẩm giá của con người đặt căn bản ở đâu ? Trong công ước của nhân loại ư ? Nhưng nếu “công ước” của nhân loại hay luật lệ của nhà nước cũng chỉ là những thành tựu ngẫu nhiên của lịch sử, thì một người nào đó vẫn có thể chối từ khi họ có quan điểm khác; thì một người nào đó, khi bị đe dọa đến sự sống của mình chẳng hạn, vẫn có thể vi phạm; thì ai và lấy tiêu chuẩn nào để hình thành nên lý tưởng trọn vẹn của đời mình ? Và ai cũng như lấy tiêu chuẩn nào để xét xử, để ra hình phạt cho người khác ?
Thật sự người ta chẳng thể tìm được căn bản của phẩm giá con người nếu không tìm thấy nơi tình thương của Thiên Chúa, và đặc biệt nơi giáo huấn của Đức Giêsu :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Chính mặc khải ấy đã soi chiếu cho lịch sử nhân loại một luồng ánh sáng cao quí mà nhân loại không thể chối từ, ánh sáng làm nổi bật lên phẩm giá con người. Dưới ánh sáng ấy, mọi con người đều bình đẳng với nhau về phẩm giá là người, cho dù tài năng của mỗi người có khác nhau, có hơn kém, có chênh lệch thế nào đi nữa. Một khi ta xác tín manh mẽ về phẩm giá là người, phẩm giá bình đẳng của mọi con người, ta thoát được sự tự ti hoặc tự tôn để biết trân trọng bản thân ta và trân trọng bản thân của mọi người khác.
Hơn nữa, vận mạng của con người không phải đã hoàn thành. Con người không thể an tâm về phẩm giá là người của mình, rồi mặc kệ cuộc đời. Con người cần phải nỗ lực trên hành trình làm người nữa. Trên hành trình này, vẫn tồn tại một sự bất bình đẳng, rất cụ thể và rất gay gắt. Những người có nhiều tài năng vẫn được hưởng nhiều lợi thế, nhiều ưu đãi mà nhiều khi người ta không khỏi mong muốn giải quyết bằng giải pháp cào bằng. Ở đây, Chúa Giêsu lại cho chúng ta một giáo huấn về sự bình đẳng trên hành trình làm người.
“Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12, 43-44)
Như thế, phẩm giá làm người không hệ tại người ta có nhiều tài để làm được nhiều chuyện lớn lao hơn người khác và để coi thường người khác. Nhưng phẩm giá làm ngừơi hệ tại khả năng cho đi nhiều hay ít chính bản thân mình; người mẹ già có thể chẳng có bao nhiêu tại năng và vốn liếng để ban tặng cho con, nhưng bản thân người mẹ lại hết sức cao quí đối với đứa con, đó là vì mẹ dám cho hết, cho hết những gì mình có và cho cả bản thân mình. Chính tâm lòng trân trọng con người của Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết nét cao cả của phẩm giá là người và phẩm giá làm người. Điều đó khác hẳn đường lối cào bằng một cách khiên cưỡng; đường lối đó thật hơn và cho thấy rõ hơn ý nghĩa của sự tự do, của tình yêu, của sự hoàn thành vận mạng của con người trong niềm tin vào Chúa. Quả thật, đê con người bình đẳng về phẩm giá với nhau, phẩm giá là người và phẩm giá làm người, người ta không thể qui chiếu vào qui luật biện chứng của vật chất, nhưng chỉ có thể tìm thấy nơi mạc khải của Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.
Phân biệt để hiệp nhất, đó là một nét tinh thần của thánh Thomas, (dựa theo tinh thần của Dòng ?). Khi người ta không biết phân biệt để hòa hợp, người ta chỉ còn biết cào bằng…. Khi phân biệt, người ta trả về cho cá nhân khả năng là người và làm người của chính họ, trả về để mời gọi mỗi người tự nguyện công hiến, tự nguyện cho đi. Ở đây, chúng ta thấy xuất hiện nguyên tắc tự nguyện như một đức tính nhân bản Kitô giáo cần thiết trong qui trình hiệp nhất đích thực mang tầm mức con người. Muốn có một sự hiệp nhất đích thực mang tầm mức con người, con người phải được trả lại phẩm giá tuyệt đối của họ, nghĩa là xác định con người có cứu cánh nơi chính mình. Không bao giờ được quyền biến con người thành một phương tiện, nhất là không bao giờ được coi con người như một phương tiện để làm phân bón cho một sự vật nào, một hòa điệu nào khác. Theo tôi, tự nguyện là điều cần được nhấn mạnh hơn bao giờ hết trong đời sống đức tin của người tín hữu Việt Nam.
“Con người là tạo vật duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ; nên con người chỉ có thể tìm gặp được chính mình nhờ thành thật hiến dâng” (MV 24)
Người ta chỉ có thể hòa hợp với người khác đích thực khi biết phẩm giá của mình và dám sống trọn vẹn phẩm giá bản thân mình bằng cách cho đi chính bản thân mình.

3.3 Giải pháp tâm linh : Sống giao ước bản thân

Con đường tìm công bằng trọn vẹn không thể có được trong phương thức cào bằng hoặc hợp thức hóa sự bất bình đẳng, nhưng chỉ có thể thực hiện được bằng một cộng đồng, chảng hạn một gia đình, một cộng đoàn đầy tình huynh đệ, và nhất là trong một ý nghĩa của đời sống đức tin sâu xa; nghĩa là tìm thấy nơi Chúa một cộng đồng ngôi vị, nơi đó, mỗi người được là mình một cách bình đẳng trong phẩm giá là người và phẩm giá làm người, để rồi hướng tới một sự trao tặng toàn vẹn bản thân mình cho người khác.
Một em bé mồ côi cả đời chỉ mong ước tìm được một mái ấm gia đình. Đã có một lần em được nhận vào một gia đình làm con nuôi, nhưng đó chỉ là một sự lợi dụng. Lần khác, em tìm gặp được chính người mẹ ruột và được sống trong nhà với mẹ. Nhưng người mẹ ấy không chấp nhận nỗi những xáo trôn gia đình vì đứa con rơi và tìm cách chối từ đứa con của mình một lần nữa. Năm nay em đã hai mươi bốn tuổi và vẫn lủi thủi đi về một mình trong nỗi cô đơn.
Một lần em đến hỏi ý kiến của tôi về việc một gia đình nọ muốn nhận em là con nuôi. Tôi mừng cho em. Tuy nhiên,sau khi suy nghĩ, tôi góp ý với em đại khái như sau: theo tôi, em không nên nhận lời; bởi vì, nền tảng của một đời sống gia đình chính là tình nghĩa thuộc về nhau. Trong gia đình, dù có những tính khí khác biệt nhau, dù có những xung đột chuyện này chuyện kia, những thành viên trong gia đình vẫn còn có một nền tảng để gắn bó với nhau.
            Những trục trặc trong gia đình, bình thường, chỉ là sự lỏng lẻo”trên kèo cột”; nền móng củangôi nhà gia đình ấy vẫn còn vững bền, vì mọi người trong gia đình, bình thường, vẫn còn nhận ra mình thuộc về nhau. Nhờ nền tảng ấy, những người cha mẹ, con cái, anh chị em vẫn còn liên đới với nhau. Trái lại, Khi em vào trong một gia đình, nền móng ‘thuộc về nhau” ấy chưa có. Dù có cố gắng lắm, em chỉ nối kết với người khác bằng cách sống tốt, bằng việc “gắn kết kèo cột”; nhưng nền tảng thì chưa xây dựng được. Trong tình hình ấy, chỉ cần một chút khác biệt cũng có thể làm đổ vỡ mọi sự. Điều cần thiết nhất để một gia đình  được bền vững chính là tâm tình thuộc về nhau, đó là nền móng mà khi không xây dựng được thì mọi” kiến trúc thượng tầng” đều có nguy cơ đổ vỡ bất  cứ lúc nào.
Tôi khuyên em nên can đảm sống tình trạng hiện tại, cho đến khi nào chính cách sống hiện tại của em gắn kết với người khác, dần dần xây dựng với nhau một bề dầy nghĩa tình. Đừng vội vã tìm cho mình bất cứ một”mái ấm” gia đình nào, kẻo lại thêm một lần thất vọng đau thương. Bởi vì nếu không xây dựng được một thứ thuộc về nhau bằng chính bản thân, thì mọi cố gắng nối kết khác đều có nguy cơ đổ vỡ.
Khi chúng ta mua bán ngoài chợ, chúng ta chỉ trao đổi với nhau một chút tiền bạc và của cải của nhau. Khi chúng ta ký hợp đồng với một công ty, chúng ta trao đổi với nhau, tiền bạc và tài năng của mình. Khi chúng ta kết nghĩa đệ huynh, chúng ta thường chỉ đón nhận nơi nhau những điều tốt đẹp mà thôi. Nhưnng khi đi vào hôn nhân, chúng ta trao cho nhau trọn vẹn cuộc đời. Đó là một cộng  đồng ngôi vị; nghĩa là một sự cộng thông của chính bản thân người này với người kia. Giao ước bản thân, trước tiên, là rắc rối hơn nhiều, vì tất cả sự đều dính dáng tới người phối ngẫu của mình; nhưng đó cũng là cách để chúng ta có thể tin tưởng giao phó trọn vẹn bản thân mình cho người khác, trong mọi tình huống của cuộc đời vốn thăng trầm, bấp bênh của mình. Tuy nhiên, điều có ý nghĩa hơn nữa là khi giao ước bản thân, đó là người ta biết phó thác trọn vẹn bản thân, thì cũng biết hy sinh trọn bản thân. Chẳng hạn như những linh mục triều, khi về già, khi bắt đầu chớm bệnh, mà nếu không có đời sống tâm linh sâu xa, thì rất dễ rơi vào tình trạng chơi vơi, tôi không thuộc về ai mà cũng không ai thuộc về tôi. Tôi không dám để mọi lo lắng cuộc đời tôi, căn bệnh của tôi cho người khác lo, mà tôi cũng chẳng dám trao phó hết tiền bạc của tôi cho ai, hy sinh trọn vẹn bản thân tôi cho ai. Tôi phải dự phòng cho bản thân tôi, tôi phải tính toán cho bản thân tôi chứ đừng cậy dựa vào ai khác… Như thế, được chấp nhận bản thân, đó là một con đường giải thoát của con người, để con người có thể vượt qua nỗi cô đơn và sợ hãi của phận người. Bởi vì gặp gỡ đích thực là gặp gỡ bản thân của nhau.
Trong ý nghĩa đó, Thiên Chúa ký kết với chúng ta một giao ước có khả năng thấm nhập vào tận cùng mọi chi tiết trong bản thân ta. Giao Ước cũ chỉ được ký kết giữ Chúa và Dân, một giao ước với tập thể, mà trong đó, mỗi người vẫn phải, vừa bảo đảm được giao ước chung, vừa phải tự mình lo cho bản thân mình. Chính vì thế mà người dân vẫn chưa an tâm về bản thân mình, và họ thường xuyên vi phạm giao ước. Vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên, Giêrêmia, rồi Edêkien đào sâu ý nghĩa trách nhiệm cá nhân đối với giao ước, nhưng (hình như ?) vẫn chưa khẳng định quyền lợi của cá nhân trong giao ước ấy.  Giao ước mới : vượt qua cựu ước, hướng tới sự chấp nhận bản thân của mỗi người : gọi tên từng con chiên một, bỏ chín mươi chín con để đi tìm một con chiên lạc, không còn người này phải dạy người kia, nhưng mọi người sẽ được biết Chúa, được biết Chúa trong trái tim bằng thịt….
Như thế, khi lãnh nhận bí tích rửa tội, mỗi người kitô hữu vừa gia nhập vào Giáo Hội, vừa ký với Chúa bằng chíh bản thân mình. Trọn vẹn bản thân của mình được chết đi, để sống cho con người mới, con người làm con của Chúa. Bí tích Rửa Tội không chỉ là rửa tội tổ tông và tội riêng rồi sau đó người Kitô hữu phải tự lo gìn giữ bản thân mình cho khỏi tội nữa, nhưng bí tích Rửa tội làm cho ta trở thành con Chúa, trở thành một công đoàn ngôi vị với Chúa, trở thành thuộc về Chúa trong từng chi tiết nhỏ nhất của cuộc đời mình.
Chính Chúa đã muốn sống giao ước bản thân với ta : Ngài xuống thế làm người, hy sinh và lễ vật Chúa không ứng nen này đây con đến để thực thi ý Chúa; chọn đường lối cứu độ khác với các cám dỗ, hy sinh mạng sống, và cuối cùng là trao ban thịt máu của Ngài trong bí tích Thánh Thể.
Sống giao ước bản thân là dám tin vào Chúa trong trọn hành trình bản thân chứ không phải chỉ là một cuộc mua bán trả vay công đức với Chúa. Có thể nói là trong giao ước ấy, Chúa trở nên đồng trách nhiệm với chính bản thân ta. Sống trọn hành trình bản thân với Chúa có nghĩa là sống trong sự bình an, cho dù cuộc đời mình vẫn còn đầy tội lỗi; đó không phải là ỷ lại, nhưng chính là sống luật tiệm tiến, nghĩa là từng bước khát khao, từng bước mở tấm lòng và ở cuộc đời mình để Chúa thực hiện ơn cứu độ của Ngài.
            Đặc tính của thái độ sống với bản thân là : nhận ra giao ước dính dáng sâu xa đến bản thân mình; dám từ bỏ chương trình của mình để chiều ý Chúa; và hướng tới một sứ mệnh trong đời sống, nghĩa là cuối cùng, người ta lao trọn cuộc đời mình vào trong giao ước. 
Sống giao ước bản thân là dám vui khi nhận ra những yếu đuối của bản thân mình, bởi vì tinh yêu của Chúa còn lớn hơn bản thân mình. Đó cũng là nét đặc trưng của ơn cứu độ Kitô giáo.
“Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2Cr 12,10)
Sống giao ước bản thân là xác tín tôi là người được Chúa yêu. Nhận ra khả năng lãnh nhận trong con đường của tình yêu, lại chính là con đường bình đẳng dành cho mọi người.



4. Sống như con cái

là trao tặng chính bản thân cho Chúa

4.1 Hiện tượng : Bệnh hình thức

Trong khi đối với người Hy Lạp, theo tinh thần đi tìm bản chất độc lập của sự vật, thì những gì liên hệ tới thân xác bị coi là xấu, là chất thể không hoàn hảo; và những gì thuộc về tinh thần thì tốt, tinh thần nhận thức được mô thể hay “hình thức” của sự vật. Hình thức là bản chất của sự vật. Nhưng đối với người Do Thái, là đạo sống với, thì thái độ của con người bị biến chất khi mà người Dân chỉ giữ luật, thực hành các nghi thức phượng tự và lo sợ vì những qui định thanh sạch – ô uế một cách máy móc, mà không còn diễn tả lòng trung tín Đó là cung cách thực hành các “hình thức” nhưng nhằm mục đích quay ngược về với chính mình, giữ luật để cho bản thân mình được hoàn hảo, giữ hình thức để đề cao chính mình. Đó là cách diễn tả chỉ chú trọng đến hình thức mà không còn sức sống đích thực của tâm hồn. Do đó, Luật luôn là luật Môsê, vì Môsê là trung gian của giao ước; và gĩư luật luôn là luật Môsê, nghĩa là luôn giữ cho được ý nghĩa trung tín của giao ước. Trong lịch sử cứu độ, cám dỗ nguy hiểm nhất là sự biến chất của những cung cách diễn tả; nghĩa là thay vì giữ lề luật vì trung tín với Chúa, người ta giữ lề luật và tìm thấy niềm tự hào về sự hoàn thiện của bản thân; thay vì thực hành nghi lễ phượng tự để tôn thờ Chúa, người ta lại coi đó như tiêu chuẩn hoàn thành nghĩa vụ tôn giáo và lơ là trong đời sống luân lý cũng như trong lòng tôn trọng những người nghèo; thay vì giữ tấm lòng trong sạch trước mặt Chúa, người ta tìm sự trong sạch bằng cách tránh những uý kỵ hoàn toàn hình thức. Chúng ta thấy các ngôn sứ đã mạnh mẽ tố cáo những cám dỗ nguy hiểm ấy, chẳng hạn Isaia, Amos. .
Trong đời sống đức tin, nhiều người Công giáo chỉ biết đọc kinh mà không biết cầu nguyện; chỉ biết cách tham dự các nghi thức phụng vụ mà không sống tâm tình thờ phượng đích thực; chỉ biết tham gia các sinh hoạt chung mà không bao giờ có được một chút gặp gỡ riêng tư với Chúa… đó cũng là bệnh hình thức.
Bệnh hình thức là cám dỗ của lối sống “chuẩn hoá”. Bệnh hình thức là một cách thức chuẩn hóa phong cách của con người, nhưng càng chuẩn hóa bao nhiêu thì sự “giả dối” lại nhiều bấy nhiêu. Nơi thành thị, người ta chuẩn hóa phong cách và tự coi mình là văn minh hơn những người dân quê chất phát. Xã hội càng văn minh, người ta càng phải chuẩn hoá cung cách sống của con người : chào hỏi, áo quần, nghi lễ, lịch sự... Một con người “văn minh” phải là người biết thể hiện phong thái lịch sự, sành điệu trong cung cách và lời nói. Tuy vậy, khi con người phải sống với nhau bằng quá nhiều tiêu chuẩn mẫu mực, thì nguy cơ của lối sống hình thức càng gia tăng. Người ta đánh giá nhau qua trình độ được chuẩn hoá và mọi người muốn hội nhập vào xã hội càng phải chuẩn hoá bản thân, chuẩn hoá cung cách sống của mình. Người ta gặp gỡ nhau trước tiên qua “lớp vỏ” của văn minh và chính vì thế, càng trong các đô thị, người ta càng phải giữ luật lệ và càng cô đơn. Trong đời sống thành thị, sống giữa một rừng người, ta khó gặp được một người thân quen; sống và làm việc với biết bao người, ta vẫn khó có thể tìm thấy một sự cảm thông.
Trong đời sống Giáo Hội Công giáo, người ta cũng rất thường thấy khuynh hướng “chuẩn hoá” qua nghi thức phụng tự, qua lời kinh chung, qua kỷ luật và nề nếp tu trì . . . Ở trong các tu viện, có tình trạng các tu sĩ “sống chung” nhưng lại không có đời sống huynh đệ; nơi giáo xứ, người linh mục thường thích một sự trật tự, thẳng hàng ngay lối, thích sự đồng đều, rập ràng, giống nhau mà không chú ý đến hoàn cảnh tâm hồn của mỗi con người. Đó cũng là một thứ cào bằng và nhiều khi thái  độc cào bằng ấy “hành khổ” những người có hoàn cảnh riêng biệt, có nỗi khó khăn riêng.
Bệnh hình thức như thế khiến cho người ta chỉ chú ý đến phong cách, phong cách quí tộc, cung cách lịch sự mà quên đi tấm lòng thành của con người. Bệnh hình thức là một thứ đẹp vô hồn, đẹp mà không có duyên, đẹp theo một hình ảnh mẫu mà không có nét hài hòa bên trong, hài hòa nội tại của một con người.
Bệnh hình thức khiến cho người ta chỉ biết đánh giá mình và đánh giá người khác qua những gì bên ngoài; rồi đồng hóa bản thân một con người với những phong thái, cử chỉ bên ngoài. Bệnh hình thức cũng là một thứ “đạo sinh hoạt”, nghĩa là tổ chức phong phú sầm uất, rước sách ì xèo, … và người Kitô hữu công giáo cứ việc tham gia vào các sinh họat mà không có sự tự nguyện, tự do của mình.  
* Ý nghĩa
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này chính là sự phân cách trong con người, phân cách giữa tinh thần và thể xác. Người ta luôn cần diễn tả bản thân mình, nhất là diễn tả tinh yêu qua thân xác, nhưng người ta cũng luôn có nguy cơ đồng hóa mình một cách giả tạo với những diễn tả của thân xác mà không còn là một cách diễn tả của tình yêu qua thân xác.
Nguyên nhân khác là người ta lầm lộn nội dung và hình thức, lấy lễ nghĩa thay cho tình người. Đó cũng là giải pháp thứ III, nghĩa là cuối cùng làm nên một trật tự rất đẹp, nhưng đó là hai đường song song do qui định, do một tiêu chuẩn qui định cho đúng.
Bệnh hình thức là kết qủa của một bầu khí thiếu tự do. Ở những nơi mà tự do sáng tạo bản thân của con người không được tôn trọng, người ta phải giành lấy một chỗ riêng trong tâm hồn mình; và để bảo đảm bản thân mình trước những áp lực bên ngoài, người ta phải tạo ra những hình thức bên ngoài để che chắn. Đây cũng có thể là tình trạng một lương tâm thiếu trưởng thành. Khi áp lực bên ngoài quá lớn, người ta lấy việc thực hành những qui định bên ngoài thay cho tâm hồn.
* Hệ quả
Bệnh hình thức làm nên một hệ thống nghi lễ thay thế cho sự gặp gỡ đích thực của con người với nhau. Phú quí sinh lễ nghĩa : vui buồn, phán đoán giá trị luân lý dựa theo những tiêu chuẩn của lễ nghĩa. Có một cuộc họp của các vị lãnh đạo một nhà dòng kia, trong đó ngời ta dự định lên án việc “dô dô” khi ăn nhậu. Nhưng thật ra điều đó, tự bản chất của nó, không có gi là xấu; hơn nữa nếu so với việc có thói quen xơi rượu tây một cách văn minh thi việc sau còn tệ hơn việc trước nhiều.
Mê tín và nệ luật cũng là một thứ duy hình thức, vi phạm vào giới răn thứ hai (chớ kêu tên đức Chúa Trời vô cớ).
Bệnh hình thức tạo nên một sự an tâm khi chu toàn các hình thức bên ngòai. Có lẽ nhà tu lấy hình thức bên ngoài của kinh nguyện để thay thế cho sự cầu nguyện đích thực cũng là như thế, một thứ duy hình thức…

4.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : tự do và dâng tặng

* Thành thực hiến Dâng : Con người có một khả năng làm trọn hảo mọi sự, đó là cách đưa vào trong mọi sự chính tấm lòng của mình và đem dâng tặng. Khi ta dâng tặng một món quà, món quà đó không còn là nó nữa, nhưng đã biến nên một giá trị nhân văn, đó là dâng tặng một phần bản thân của mình cho người khác. Khi ta ăn tiệc chẳng hạn, gặp một món không ngon lắm, nhưng được giới thiệu là “cây nhà là vườn”, thì tức khắc món ăn đó trở thành quí giá, vì như thế là thực khách được tham dự vào đời sống của gia chủ. Cũng thế, và hơn thế nữa, khi ta dâng tặng bản thân cho nhau, dù “của ít lòng nhiều”, là khi mà tặng phẩm đã trở nên chính bản thân của người trao tặng. Đó là một món quà quí giá mà không có gì có thể mua bán trả vay cho “công bằng” được. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn Kitô giáo : con người ta chỉ xử dụng sự vật như phương tiện để diễn tả bản thân, chứ con người ta không giản lược bản thân con người vào trong sự vật, cho dù là sự vật mắc mỏ thế nào. Quà tặng không phải cao quí do chính bản thân của món quà, nhưng là do chính bản thân của người trao tặng, giống như vấn đề Chúa mạc khải chính bản thân của Chúa qua Lời Chúa và Hành Động của Chúa.
* Giá trị của tự do và chân thật
Người Hy Lạp chỉ biết đến tự do như là quyền phát biểu ý kiến trước mặt người khác. Tự do ban đầu ấy chỉ thuần tuý nằm trong lãnh vực chính trị. Nhưng tinh thần của Kitô giáo lại khác. Thánh Âu tinh triển khai một chiều kích tự do trong tâm hồn. Tự do là không bị những áp lực chi phối của sự dữ trong chính tâm hồn mình. Tự do, trước tiên và một cách căn bản, phải là một sự giải thoát khỏi những áp lực “ngoại lai” chi phối tâm hồn mình. Như thế, tự do trước tiên không còn phải là được làm điều mình muốn, nhưng tự do phải thể hiện sâu xa hơn trong chính bản thân mình với mình, nghĩa là : tự do là thật sự muốn điều mình làm. Như thế, tự do gắn liền với sự chân thực, hồn nhiên; tự do làm cho ta không còn bị đe dọa để phải giả bộ tạo ra một cung cách lẩn trốn, che chắn bằng những hình thức bên ngoài để an toàn cho một cái khác ở bên trong.

4.3 Giải pháp tâm linh : Dâng trọn bản thân

Dâng trọn bản thân cho Chúa, đó là cách sống tự do của con cái Chúa : người tín hữu, đầu đội trời, nghĩa là chỉ tin vào một mình Thiên Chúa là Cha yêu thương, thì có thể hiên ngang “đạp đất”, nghĩa là coi thường tất cả những thế lực, những giá trị “phương pháp”, luật lệ xét như luật lệ mà thôi… Đó là cách sống sự tự do của con người. Người làm công thì có bản thân mình phải lo, cho nên người ta cố gắng thu vén cho mình càng nhiều càng tốt. Nhưng đứa con, bản thân đã có cha mẹ lo, nên chỉ xin những điều hằng ngày dùng đủ. Lo lắng những điều linh tinh, nhỏ mọn, đó chính là cách sống không dám đóng góp trọn bản thân mình vào cuộc; đó là sống kiểu “giữ ngày giữ tháng” như thánh Phaolô đã khiển trách trong thư Galát. Sống như con cái là sống trọn vẹn bản thân mình trong gia đình, đó là dám tin tưởng và phó thác trọn cuộc đời mình như một cộng đồng sự sống và môt cộng đồng trung tín; là thông chia cho nhau tất cả mọi phúc lợi và tín trung trọn vẹn cả trong những lúc yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ, lúc khó khăn cũng như lúc thuận lợi. Cách sống đó khác hẳn mức độ sống chung của những em mồ côi được sống trong viện mồ côi.
Dâng phó trọn vẹn bản thân nghĩa là sống trong nền tảng chính yếu của tình nghĩa, là một sự liên đới trong móng nền. Khi những anh chị em sống gia đình, họ có thể cãi nhau, và họ cố gắng làm hòa với nhau. Đó là những cố gắng để ráp lại sự ăn khớp kèo cột cho chặt chẽ hơn. Nhưng cố gắng đó luôn nhờ vào nền tảng là chính sự gắn kết trong móng nền. Ngược lại, khi ta chơi với bạn bè, người ta cố gắng nối kết kèo cột mà không có sự liên kết móng nền, như là anh chị em với nhau, thì sự gắn kết ấy vẫn luôn bấp bênh, vẫn luôn có nguy cơ đổ vỡ.
Dâng trọn vẹn bản thân là dám dấn thân trọn vẹn để khẳng định giá trị của Nước Trời. Sống đời tu là sống linh đạo hiện diện, tức là bước cả hai chân vào Nước Trời. Ở đó, người tu sĩ nhận ra và làm chứng về hạt, về men, về muối và về ánh sáng của Nước Trời. Nước Trời như một chiếc xe chở hàng đang hướng về Nhà; trong đó, giáo dân là những người đang chất đồ đạc lên xe, giáo sĩ là những người lái xe, nhưng tu sĩ là những ngừơi ở trong lòng xe để sắp xếp, để mời nước, để lau những giọt mồ hôi cho anh chị em của mình, và để làm nổi bật lên niềm vui của Nước Trời. Người tu sĩ khấn ba lời khuyên Phúc Am để sống trước mầu nhiệm Nước Trời, không phải chỉ là mô phỏng lối sống tương lai, nhưng chính yếu là ở đó để khám phá và cảm nhận được những niềm vui Nước Trời đã có mặt như men như hạt. Căn tính của đời tu không phải là hiệu năng của công việc, như lớp giáo sĩ và giáo dân phải làm, nhưng là dâng trọn bản thân để sống trong mầu nhiệm Nước Trời đang hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.



5. Đón nhận bản thân của người khác

5.1 Hiện tượng : Bệnh xầm xì

Khi hai ba người xúm lại nói chuyện với nhau thì có thể có hai điều xấu, đó là nói tục và nói xấu người khác. Nói nhỏ cười to là nói tục; nói thao thao, cười khinh khỉnh là nói xấu. Nói tục còn đỡ xấu hơn là nói xấu người khác.
Nơi mà người ta sống theo kiểu so sánh, sống theo kiểu cào bằng, sống theo kiểu hình thức, và sống theo kiểu tính toán thì cũng xuất hiện hiện tượng xầm xì. Xầm xì là những lời nói, những cái nhìn có tính dò xét. Xầm xì là thái độ không chấp nhận nhưng lại chẳng biểu lộ ra như một phê bình thẳng thắn và xây dựng, mà lại biểu lộ một cách không chính thức và không quang minh chính đại. Những lời xầm xì thường là lối phản ứng của kẻ nhát sợ trước một thế lực nào khác, và ở đây có thể là thế lực của chân lý mà mình không dám thẳng thắn đối diện; có thể là vì không có đủ tiêu chuẩn để phản đối hay phê bình ngượi khác một cách minh nhiên, nhưng cũng có thể vì người xầm xì chỉ nhận ra một thứ vi phạm đến một nét úy kỵ  mờ mờ nào đó mà thôi.
Việt Nam hình như có rất nhiều hiện tượng xầm xì, và hình như người miền Bắc nhiều hơn người miền Nam : lễ nghĩa, hình thức nhiều thì cũng xầm xì nhiều, người có lỗi công khai thường không sống được trong các xứ đạo, nhất là xứ đạo di cư. Một thanh niên nghiện ngập quyết tâm bỏ, nhưng điều kó nhất đối với anh ta chính là “cái miệng của mấy bà già đạo đức. Có lẽ vì người Việt Nam thường dắt díu nhau trong cuộc sống, với quan niệm “xấu đều hơn tốt lỏi”. Điều đó cho thấy tinh thần người Việt Nam luôn đề cao đời sống của cộng đồng hơn cá nhân. Trong cộng đồng người Việt, cá nhân phải chịu chấp nhận những khó khăn, những từ bỏ để cho đời sống chung của tập thể được ổn định. Tinh thần đó làm cho người Việt Nam thường không thích những kẻ “khác người”, úy kỵ đối với những kiểu sống lập dị; người ta không chấp nhận cho người khác có những biểu hiện khác với thói quen, khác với truyền thống, khác với người khác. 
            Nét đề cao cộng đồng như thế tự nó là tốt, nhưng nó cũng thường đi quá đến mức độ thích chúi mũi vào chuyện của người khác, gây nên chia rẽ và bất công. Thật ra, cuộc đời và tâm tính mỗi người là cả một huyền nhiệm, nghĩa là mỗi người đều có tâm tính riêng, có hoàn cảnh riêng, có thách đố riêng mà người khác không thể nào hiểu hết được. Do đó, thái độ không thông cảm mà chỉ kết án luôn luôn là thái độ không đúng đắn và không bao giờ có thể biện minh được. Đó là khi mà cái chung không dừng lại ở mức độ những qui định cần thiết  cho lợi ích chung, nhưng xâm lấn vào toàn bộ đời sống riêng tư của mọi thành viên như một thứ kỷ luật vô hình, như một thứ tiêu chuẩn luân lý vô hình, như một thứ kiểm duyệt loại trừ mọi các khác thường, nó đụng đến lãnh vực lương tâm của mỗi người….
Khi cộng đoàn chỉ là những tiêu chuẩn chung mà không có sự đồng hành, nghĩa là khi công thức của cộng đoàn chỉ là “cộng đoàn = cộng đoàn” như một số nguyên đồng nhất thì người ta xầm xì về người khác. Ngược lại khi công thức của cộng đoàn là “cá nhân-cộng đoàn =/ cộng đoàn-cá nhân”, nghĩa là cần phải có tử số cá nhân để làm nên một tỷ lệ đặc biệt riêng của mỗi người, hướng tới sự cân bằng trong một tiến trình, thì ngừơi ta được kêu mời để chấp nhận cá nhân của người khác đang hướng tới sự hòa hợp trong một tiến trình, thì khi đó những trục trặc cần phải được đồng hành, cần phải được chấp nhận như một bài toán của chính cộng đoàn cụ thể của mình.
Trong các dòng tu, chúng ta thấy không khác những “xứ đạo di cư” lắm về phương diện này, nghĩa là còn rất nhiều lưỡi rìu treo lơ lửng trên đầu anh em; giống như người làm báo trong xã hội chủ nghĩa vậy. Chính vì thế mà trong báo chí Việt Nam trước đây, có đầy rẫy những bài báo vuốt đuôi, những bài bình luận theo thời cuộc, những lối “suy tư công công” (suy tư như các thái dám, luôn nịnh bợ vua); thì có lẽ trong nhiều cộng đoàn dòng tu, cũng có nhiều người phê phán theo phong trào, có những tiêu chuẩn úy kỵ mơ hồ làm khổ nhiều người. Nhiều khi người tu sĩ về đến gia đình cảm thấy như trút bỏ được một gánh nặng đề trên tâm hồn, vì có thể sống một cách tự nhiên như mình thích, thoát khỏi sự dò xét xầm xì của những ngừơi chung quanh… Quả thật, trong nhiều trường hợp, tha nhân chính là hoả ngục (Sartre).
Cộng đoàn như thế cũng là một cộng đoàn sự vật, nghĩa là ngừơi ta đóng góp vào đời sống cộng đoàn như một thứ thuế lợi tức. Làm sao để phần còn lại của mình được hưởng riêng vẫn có lợi. Trong cộng đoàn sự vật, người ta không thấy có bản thân của người nào cả mà chỉ là những đóng góp phi nhân.
* Ý nghĩa
Thái độ xầm xì chính là một sự loại trừ hành trình cá nhân, mầu nhiệm cá nhân và nhất là không có hoặc ít có sự tôn trọng tự do lương tâm, tôn trọng tâm hồn con người. Bình thường những người hay xầm xì cũng là những người có những biểu hiện coi thường tâm hồn con người, những người ít có khả năng đi vào cuộc tâm sự với người khác. Trong sâu xa, đó là thái độ không nhận phần đóng góp bản thân của con người vào trong cuộc chơi chung.
Ở những nơi mà tự do sáng tạo bản thân của con người không được tôn trọng, người ta thường xầm xì. Bên Mỹ, người ta có một vòng tròn tự do, khi đứng trong đó, người ta có thể làm bất cứ điều gì người ta thích, miễn là đừng đụng tới tự do của người khác. Điều đó cũng bộc lộ trong lối sống hằng ngày của dân Mỹ, nơi mà người ta không thích dòm ngó vào đời tư của người khác… Đó cũng là một giải pháp hay, nhưng có lẽ đó chỉ là giải pháp II, tức là trường hợp mạnh ai nấy sống. Tuy vậy, chúng ta cũng nên ghi nhân một điều là trong bầu không khí ấy, người ta có được một khung trời tự do để sống cho thoải mái bản thân mình,
* Hệ quả
Xầm xì làm cho cuộc sống nặng nề; người ta luôn sống trong lưỡi rìu của dư luận, người ta bận tâm về cung cách diễn tả trước mặt người khác, nghĩa là bận tâm về cái có hơn cái là, nghĩa là bận tâm giải quyết bài toán đối đầu với người khác hơn là bận tâm về chính hành trình của mình. Tâm hồn con người sống trong đó giống như một vòi nước chảy ngày đêm làm mất năng lượng của cuộc sống thực sự. (giống như phụ nữ bận tâm làm đẹp trước mặt người khác quá nhiều làm giảm đi năng lực suy tư sáng tạo bản thân mình).
Sống trong nỗi sợ những lời xấm xì, nhân cách của con người trở nên dúm dó; nỗi lo sợ đối phó làm cho con người không còn có thể hiên ngang sống cuộc đời mình và dám làm dám chịu những hậu quả của việc mình làm một cách ngay chính.
Xầm xì làm cho người ta không còn thanh thản để sáng tạo cuộc đời mình. Nó tiêu diệt khả năng sáng tạo. Người ta không còn bản lãnh sáng tạo mà chỉ có bản lãnh đối phó. Không phải chỉ vì những điều kiện thuận lợi mà nước Mỹ có nhiều phát minh, nhưng còn do chính một nền văn hóa nào đó thuận lợi. Việt nam thì đầy rẫy những sự không vặt, khôn khéo, nhưng ít khôn ngoan thực sự; người Việt Nam chỉ giỏi chạy đua với người khác, giỏi học trong lớp khi làm học trò… mà sau khi ra trường thì chẳng còn khao khát tìm tòi để phát minh hay nghiên cứu sâu xa. Có lẽ chỉ cần nhận xét một chút ta cũng có thể thấy một bản lãnh cá nhân, một sự tự chủ và một chút sáng tạo trong cung cách dâng lễ…???
Xầm xì cũng là một hình thức bất công, và thường là những bất công mà người ta không ý thức đền bù; vì người ta thường làm phát tán những đoán xét vô căn cứ, kể lại những chuyện mình nghe được chứ không phải là những điều mình thấy, và kể lại một cách phiếm diện, vì người ta không khi nào có thể hiểu thấu được lịch sử của vấn đề mà mình thấy nơi người khác. Hầu như luôn luôn những lời xầm xì xúc phạm đến lãnh vực thuộc lương tâm của ngừơi khác.

5.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : Cảm thông và tri ân

* Cảm thông : người ta thường hay đúng hơn là luôn luôn xét đoán người khác như một người đứng bên ngoài cuộc đời của người ấy. Ở vị thế bên ngoài  như thế, người ta không thể nào hiểu được trọn vẹn hành trình cá nhân của mỗi người, rất ít nhận ra giá trị huyền nhiệm của một cá nhân con người. Do đó, những lời đoán xét, có thể nói, luôn luôn là một sự bất công. Cảm thông là một thái độ “hội nhập văn hóa”, nghĩa là hội nhập vào đường nét tinh thần của ngừơi anh em của mình một cách “thấm thía”. Khi ta nghe được lời tâm sự của bất cứ ai, cho dù một người mà ta khó có cảm tình nhất, chắc chắn cái nhìn của ta sẽ khác, tấm lòng của ta sẽ dịu ngọt hơn với ngừơi ấy. Được tâm sự, đó là gặp nhau ở chiều sâu tâm hồn, và đó là cách thức hội nhập vào bản thân của ngừơi khác. Người trẻ hôm nay hình như ít có hoàn cảnh để gặp nhau trong tâm hồn, họ quá ồn ào và họ thường tìm giải quyết những vấn đề sâu xa của mình bằng những trò vui dễ dãi để trốn tránh vấn đề thực của đời mình. Kinh nghiệm lửa dặm đường của hướng đào ngành tráng… Trong nhà dòng, nhất là đối với những tầng lớp lớn tuổi, có lẽ cũng rất ít có điều kiện gặp gỡ trong tâm hồn, ít có dịp tâm sự, nghĩa là cũng ít đón nhận bản thân của nhau. Hình như đây là một nét đẹp của tu sĩ trẻ mà người ta ít để ý tới.
* Tri ân : Khi người ta đón nhận được tấm lòng của người khác, người ta không còn sống trong bình diện thuận mua vừa bán nữa. Người ta có thể mua bán đổi chác được mọi sự, đồng tiền mua lấy vật dụng và sự phục vụ, tài năng mua được một sự nể phục, đạo đức mua được sự kính trọng, địa vị mua được sự vâng phục… nhưng lòng quí mến chân thành của một người này dành cho người khác thì không gì có thể mua bán được. Tấm lòng của con người là một huyền nhiệm vô giá mà không có gì có thể tương xứng để đổi chác. Tấm lòng là điều chỉ có được ban tặng và phải được lãnh nhân trong lòng tri ân. Trong bình diện đời sống nghĩa tình, người ta luôn luôn biết tri ân nhau vì những tình cảm tốt đẹp mà người này dành cho người kia. Có khi người mẹ cho con hai trăm đồng để đi chơi, con tri ân mẹ; rồi con lại dành năm đồng để mua cho mẹ món quà nhỏ, mẹ tri ân con. Trong sự trao đổi ấy, chính tấm lòng con người là thực tại khiến người ta tri ân nhau chứ không phải là hai trăm hay năm đồng.
Cảm thông và tri ân là những tình cảm cao quí thuộc bình diện tương giao đích thực của con người với nhau, và của con người với Thiên Chúa.

5.3 Giải pháp tâm linh : Bé mọn để lãnh nhận

Con người sinh ra đã bất bình đẳng, con người tranh đua nhau để hơn thua, con người khao khát hoàn thành đời mình bởi vì vận mạng của con người không phải chỉ là người, nhưng còn phải làm người… tất cả hành trình ấy vẫn là một cuộc đấu đá hơn thua. Trong cuộc đấu đá ấy, mặc khải Kitô giáo lại mời gọi chúng ta bước vào một bình diện mới, một bình diện hoàn toàn mới, hoàn toàn bình đẳng và hoàn toàn độc đáo : điều quan trọng hơn tất cả những gì con người làm được, đó là khả năng cho đi và cho đi bản thân; và điều cuối cùng quan trọng hơn tất cả mọi sự của con người lại là khả năng lãnh nhận và lãnh nhận bản thân.
Từ căn bản, con người và cả vũ trụ này đã được mời gọi bước từ hư vô vào hiện hữu; đó là một sự lãnh nhận căn bản. Trong cuộc sống, tình người là điều quí giá hơn mọi thứ trong mức độ con ngừơi, và tình ngừơi thì chỉ có thể được trao tặng trong tự do của chủ thể, cũng như được lãnh nhận trong lòng tri ân của thụ nhân. Cuối cùng hành trình của đời người cũng không thể là điều gì khác hơn một sự lãnh nhận trọn vẹn để hoàn thành trọn vẹn cuộc đời mình. Tất cả những thực tại cao quí nhất của cuộc sống, tất cả những phẩm tính tốt đẹp nhất của con ngừoi, tất cả những thành quả vĩ đại nhất của cuộc đời, trong ý nghĩa cuối cùng, không là gì khác hơn một môi trường, một hành trình, một nỗ lực… tạo nên một số chất liệu để hướng tới việc trao tặng tình người cho nhau một cách phong phú và hiện thực. Trong ý nghĩ ấy, khiêm tốn không là gì khác hơn một sự thanh thản để đi vào hành trình trao tặng và lãnh nhận bản thân của mình và của người khác. Ngược lại, kiêu ngạo không chỉ là ảo tưởng trên cái mình có, nhưng còn là ảo tưởng trên cái mình là và ảo tưởng trên cái mình làm; bởi vì tất cả những điều ấy không thể mang lại sự hoàn thành cuộc đời mình, một cuộc đời đã được sáng tạo để đi về Chúa và chỉ được cứu độ trong tình yêu của Chúa.
Hiến chương Nước Trời là một tuyên ngôn của một nhiệm cục mới, trong đó chính Thiên Chúa vào cuộc, và khi Thiên Chúa vào cuộc, điều quan trọng nhất của công dân Nước Trời chính là những người được chúc phúc : Phúc cho anh em….. vì anh em sẽ được lãnh nhận. Mầu nhiệm Nước Trời tỏ bày cho những người bé mọn, đó là một khẳng định của Tin Mừng; bởi vì cuối cùng con người được thông chia “phần thừa tự” của Đức Kitô, hồng phúc mà không ai có thể  đổi chác, chiếm đoạt hay tác tạo nên được.
            Trên hành trình cứu độ, Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta vô điều kiện và đã trao ban bản thân cho chúng ta vô điều kiện (Rm 8,…); con người cũng được mời gọi để đón nhận nhau, đó nhận bản thân nhau vô điều kiện; đó là tính chất cần và đủ để bước vào bình diện trao đổi bản thân cho nhau trong tình yêu chân thật.



6. Sống với ơn gọi và sứ vụ

để có thể hoàn thành bản thân

6.1 Hiện tượng : Bệnh tính toán

Khi ta vào nhà hàng, ta có tiền trong túi, ta có thể mạnh miệng để kêu người phục vụ và ta sẽ được chiều ý từng chút một. Nhìn tới một công trường, bao nhiêu trí tuệ, bao nhiêu máy móc, bao nhiêu tiền bạc; rầm rộ và hoành tráng bao nhiêu ! Cũng thế, thế giới xung quanh ta có một sự ồn ào và mãnh liệt của sự sống con người.… Nhưng tất cả những điều ấy thực chất chỉ là một sự trao đổi sòng phẳng, thuận mua vừa bán, nơi mà người ta luôn phải tính toán hơn thiệt. Đồng tiền, tài năng, chức tước, địa vị, ngay cả đức độ… cũng chỉ là những “đồng tiền” để mua bán đổi chác. Khi ta không có “tiền”, ta không thể bước vào thế giới nhộn nhịp và sầm uất ấy, ta không có chỗ trong cuộc đời. Thế nhưng, thế giới thuận mua vừa bán, thế giới của nhứng thứ có thể mua bán đổi chác lại chỉ là thế giới của sự vật, không phải là thế giới của nhân tính, vì bản thân mỗi con người là thực tại không thể mua bán được.
Khi một người bác sĩ đáp ứng đòi hỏi của bệnh viện, ông ta chỉ làm việc xứng với hợp đồng mình đã ký, và nỗ lực của ông là làm việc làm sao cho liêm chính. Ong ta chỉ sống trong thế giới thuận mua vừa bán. Cũng thế, trong cộng đoàn, khi ta chỉ đáp ứng đòi hỏi của cộng đoàn như một sự trả giá cho thế đứng của ta, ta chỉ là một tu sĩ biết điều mà thôi, ta không thể sống với anh em mình trong sự chan hòa một cách chân thành. Những cách sống như thế được điều hòa như là kết quả của một bài toán mà ta tính toán với người khác. Đôi khi bài toán cân bằng ở mức độ cao, người ta có vẻ như làm việc cật lực, nhưng thật ra vẫn chỉ là làm việc do ngoại lực mà thôi, nghĩa là vẫn nằm trong thế giới sự vật đổi chác, theo kiểu “La noblesse oblige” (sự qúi phái thì đòi hỏi).
* Ý nghĩa
            Trong thế giới ấy, người ta trao đổi với nhau mọi sự, nhưng rất ít có sự trao đổi chính bản thân của nhau. Chính vì thế, không bao giờ người ta có thể huy động tất cả con tim của mình, tất cả nỗ lực của khả năng mình, tất cả bản thân của mình để có thể lao mình vào cuộc đời như một sứ vụ. Cái nguy nhất của thời đại ngày hôm nay là người ta không còn có đủ lý tưởng chân chính, không còn có đủ sức mạnh của sứ vụ từ trong tâm hồn để sống trọn vẹn bản thân mình như một khao khát vươn lên tuyệt đối bằng việc tận hiến bản thân.
* Hệ quả
            Thế giới mua bán trả vay là thế giới không có tình người, một “thế giới phẳng”, một thế giới bèn bẹt mà con người không thể sống được một cách thanh thản và hạnh phúc.
Thế giời mua bán trả vay đánh mất phần tinh túy nhất của bản thân mỗi người, một sự lãng phí, vì con người không phát huy được hết bản thân mình trong một thái độ quảng đại và hết mình thực sự.

6.2 Giá trị nhân bản Kitô giáo : Dám mắc nợ nghĩa tình

            Sinh ra làm người, người đã mắc nợ nhau về rất nhiều điều : ngôn ngữ, văn hóa, những giá trị nhân bản… nhưng nhất là con ngừơi được sống trong tình trạng mắc nợ nghĩa tình. Không phải ngẫu nhiên mà, bình thường, con người có tâm tình mắc nợ nghĩa tình đối với cha mẹ của mình. Lòng hiếu thảo của con người đối với cha mẹ, thật ra, không phải là một sự trả nợ công lao của cha mẹ như một thứ công xá. Công xá, dù có lớn lao đến đâu vẫn là một thứ có thể trả được một cách sòng phẳng. Nhưng công ơn cha mẹ là sự trao tặng của nghĩa tình, là sự trao tặng của cả một đời, của chính bản thân cha mẹ, và điều đó không bao giờ người con có thể đáp đền được. Con cái được ơn mắc nợ nghĩa tình đối với cha mẹ, một sự mắc nợ cần thiết cho đời người, một món nợ ngọt ngào, một món nợ hồng phúc mà nhờ đó con người có thể sống cho ra người, sống trong lòng tri ân và sống trọn vẹn bản thân mình để đền đáp nghĩa tình mà mình đã được lãnh nhận.
“Anh em đừng mắc nợ ai điều gì ngoại trừ món nợ tương thân tương ái” (Rm …  )
            Mắc nợ nghĩa tình làm cho con người không còn sống cho chính mình nữa, nhưng là sống cho tình yêu; mắc nợ nghĩa tình làm cho con người không còn chỉ an tâm sống trong thế giới sự vật nữa, nhưng được móc nối để có khả năng bước vào lãnh vực tình người, lãnh vực bản thân của mình với người khác.

6.3 Giải pháp tâm linh : Ơn cứu độ từ yêu thương

            Thiên Chúa có thể cứu con người khỏi chết, khỏi án phạt bằng nhiều cách. Tuy nhiên, trong Thánh ý của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từ chối các nẻo đường cứu độ mà satan cám dỗ, để dứt khoát chọn nẻo đường hy sinh mạng sống cho con người mà Ngài đã đón nhận như bạn hữu. Đó là cách thức mà người ta có thể tạm nói là “cái tâm của giải phóng là giải phóng cái tâm”; nghĩa là con đường cứu độ từ tình yêu, bằng tình yêu. Yêu thương là một lời mời gọi “móc” vào chích bản thân mỗi người, để mỗi người có thể tự nguyện cho đi chính bản thân mình. Cứu độ bằng cách trao ban một tình yêu lớn hơn mọi tình yêu, rồi kiên nhẫn trong tình yêu để chờ đợi sự đáp trả từ chính tình yêu của con người. Quả thật con đường cứu độ mà Chúa Giêsu đã đi gian khổ quá, lâu đạt hiệu năng quá, và có vẻ phiêu lưu quá. Nhưng đó là con đường của Thánh ý Chúa Cha.
            Chỉ khi nào con người được khởi động từ chính con tim của mình, thì con người mới có thể sống thật và sống trọn vẹn cuộc đời của mình; vì chỉ khi được thúc bách từ chính con tim, con người mới có thể bước vào lãnh vực sứ vụ. Thật sự con người cần phải đạt đến mức độ sứ vụ để có thể hoàn thành cuộc đời của mình. Bản chất con người như được kêu gọi, được hút lên do một sức hút nào đó để hướng tới việc thi hành một ơn gọi và sứ vụ cho cả cuộc đời mình. Không có được ơn gọi và sứ vụ, người ta đánh mất cuộc đời trong những chuyện phù phiếm.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã chọn giải pháp yêu thương để cứu độ con người. Con người được Chúa đổ tràn tình yêu một cách tặng - không dư dật. Như thế, con người, tất cả mọi người diễm phúc sống trong một tình trạng mắc nợ nghĩa tình; để rồi chính từ con tim đau đáu món nợ nghĩa tình mà con người mới có thể lao vào cuộc đời như một ơn gọi và sứ vụ, chứ không phải chỉ tính toán, vay trả sòng phẳng với cuộc đời. Đón nhận tình yêu lớn hơn mọi tình yêu của Chúa Giêsu (X. Ga 15,15), người tín hữu nhận ra mình chỉ có thể yêu như Chúa yêu, nghĩa là trao tặng chính bản thân mình cho người khác, thì mới có thể đền đáp món nợ nghĩa tình với Chúa và với cuộc đời.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Top