Sứ Vụ Ngôn Sứ Hôm Nay
Một cách nào đó, chính các ngôn sứ là người “hình thành” nên
lịch sử cứu độ, theo nghĩa các ngài đã mang lại một cái nhìn của đức tin, soi
chiếu vào lịch sử trần thế, làm sáng lên ý nghĩa siêu nhiên của các sự kiện
trong lịch sử và giúp cho Dân hiểu ra lịch sử đời thường của họ chính là lịch
sử ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Cũng thế, một cách nào đó, trong thế giới hôm nay, khi vai
trò ngôn sứ của các Kitô hữu được thể hiện một cách sung mãn, thì dòng lịch sử
nhân loại sẽ được “nhìn”, được giải thích theo ánh sáng đức Tin, và được hội
nhập một cách trọn vẹn hơn vào lịch sử ớn cứu độ của Thiên Chúa. Khi đó, lịch
sử ơn cứu độ sẽ thể hiện rõ nét mầu nhiệm “Nước Cha trị đến” đang diễn ra ngay
trong chính lịch sử của thế giới cũng như lịch sử của đời sống cá nhân người
Kitô hữu hôm nay.
Nguyễn Trọng Viễn
O.P.
* Tài liệu tham khảo :
- Nguyễn Ngọc Rao O.P., Tìm
Hiểu Các Sách Ngôn Sứ, 1995;
- Tuyển tập : A. Frossard, J Dheilly, M. Halpern, R. Aron, Để Làm Giầu Kiến Thức Kinh Thánh, tập
IV, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, t/p HCM, 1993, tr. 1316.
- Kinh Thánh Tân Ước, Nguyễn Thế Thuấn, phần dẫn nhập
Êdêkien, ngôn sứ về sự sống
Êdêkien ra đời khoảng năm 623 trước công nguyên, thuộc gia
đình tư tế. Tên Êdêkien có nghĩa là “Thiên Chúa dũng mãnh”, hay “Thiên Chúa làm
cho hùng mạnh”. Ông là môn đệ của Giêrêmia.
Sau biến cố thành Giêrusalem bị phá lần thứ nhất năm 598,
vua Jechonia và một số người có địa vị trong dân, trong đó có Êdêkien, bị phát
lưu. Ông đến ở tại vùng phía nam Babylon,
bên bờ sống Koba. Tại đây, vào khoảng năm 593, ông lãnh nhận ơn gọi làm “người
canh gác nhà Israel”
(3,17). Êdêkien thi hành sứ vụ khoảng 20 năm. Chúng ta không biết ông mất vào
năm nào. Theo truyền thuyết, Êdêkien bị kết án tử hình do một vị thẩm phán đã
từng bị ông khiển trách nặng lời.
Êdêkien là mẫu người được “thần nhập”. Ông là “ngôn sứ hành
động” và là nhà “thần mộng vĩ đại”. Ông có nhiều hành động tượng trưng hơn các
ngôn sứ khác; và đón nhận nhiều thị kiến. Thị kiến “Xa Giá của Giavê” là một thị
kiến vĩ đại nhất và cũng huyền bí nhất, được viết trong chương đầu của sách.
Êdêkien được coi như người khai mở cho lối văn khải huyền trong Sách Thánh.
Êdêkien cho rằng đại họa đã xẩy ra là do Dân không tuân giữ
lề luật của Chúa. Ông loan báo thời phuc hưng của Dân, nhưng nhấn mạnh tới khía
cạnh uy quyền và tình thương của Thiên Chúa, một Thiên Chúa không bị ràng buộc
vào giao ước, vì chính Dân đã vi phạm giao ước. Ngài cứu Dân vì chính uy danh
của Ngài (x. Ed đoạn 20) và Ngài thay thế giao ước cũ bằng giao ước mới cũng
chỉ vì lòng thương xót của Ngài mà thôi (x. Ed 16, 62-63).
Cứu thế luận của Êdêkien mang nặng mầu sắc quốc gia. Nhãn
giới của Êdêkien vẫn không vượt qua được tầm mức của Dân Chúa trong huyết
thống; và việc thiết lập nước Thiên Chúa thời sau hết gắn liền với cuộc phục
hưng của nước Do Thái sau lưu đầy. Ông tiên đoán tương lai của một chế độ thần
quyền như sự phục hồi quốc gia Israel
mà trung tâm vẫn là vùng đất Palestin. Ông khơi dậy một sự tự hào Do Thái có
tính cách quá khích và suy đồi. Êdêkien thường bị coi là kẻ tạo nên chủ nghĩa
Do Thái, một Dân Do Thái khép kín, kỳ thị như trong nhóm Biệt Phái sau đó.
Tuy nhiên, người ta có thể “bào chữa” cho Êdêkien một chút
khi đặt mình vào hoàn cảnh đất nước lúc đó. Ông chỉ muốn khơi dậy nơi dân Do Thái
lưu đầy niềm xác tín về một Dân được Thiên Chúa chọn, để khuyến khích họ giữ lề
luật của Người, để có thể nuôi dưỡng lòng trông cậy của họ.
Êdêkien quan tâm đặc biệt đến Đền thờ, nhưng không chấp nhận
Thiên Chúa bị ràng buộc vào Đền thờ. Đặc biệt, Êdêkien là người khởi đầu cho
quan niệm về trách nhiệm cá nhân trong giao ước (x. đoạn 18-23); và ông cũng là
người đề cao một sự hoán cải nội tâm, tiên báo một giao ước mới trong “trái tim
và tinh thần mới” (x. Ed 18,31); nhờ đó, Êdêkien tạo được một trào lưu sống đạo
sâu xa trong Do Thái giáo.
Ở đây, chúng ta chỉ lưu ý đến khía cạnh “sứ điệp sự sống”
trong “thị kiến về Những Bộ Xương Khô” của Êdêkien và cố gắng nhận ra một vài
điều gợi ý cho sứ vụ “ngôn sứ về sự sống” trong xã hội hôm nay.
1.1. Thị kiến về những bộ xương khô (Ed 37, 1-14)
”Tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. ĐỨC
CHÚA dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng ; thung lũng ấy đầy
xương cốt. 2Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những
xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. 3Người
bảo tôi : "Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không
?" Tôi thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều
đó." 4 Bấy giờ,
Người bảo tôi : "Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy ; ngươi hãy bảo
chúng : Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. 5ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy : Đây Ta sắp cho thần khí
nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. 6Ta sẽ đặt
gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các
ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy
giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA." 7Tôi
đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm ; có
sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. 8Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân ; thịt đã mọc lên và da
đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng. 9Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí ;
tuyên sấm đi, hỡi con người ! Ngươi hãy nói với thần khí : ĐỨC CHÚA là Chúa
Thượng phán thế này : Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những
người đã chết này cho chúng được hồi sinh." 10Tôi tuyên
sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết ;
chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên : Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.
11Bấy giờ, Người phán với tôi : Hỡi con
người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói :
"Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi
đã rồi đời !" 12Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm,
hãy nói với chúng : ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau : Hỡi dân Ta, này
chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các
ngươi về đất Ít-ra-en. 13Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là
ĐỨC CHÚA, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi
dân Ta. 14Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và
các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi.
Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó
là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Ed 37,1-14)
Thị kiến được chính Thiên Chúa giải thích ngay sau đó, theo
đó, những “bộ xương khô” là hoàn cảnh cụ thể của Dân Israel khi đó đang bị lưu
đày. Tình trạng bi đát của họ giống như những “bộ xương khô”. Dân Chúa giờ đây là
một Dân đã chết, khô khẳng, rời rạc, hoang tàn. Họ không còn chút hy vọng nào
về tương lai, họ không dám tin mình sẽ được tái lập, họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã
hoàn toàn bỏ rơi Dân của Ngài.
Thế nhưng Thiên Chúa lại có thể thực hiện được điều mà không
ai có thể nghĩ tới, điều chỉ có Ngài mới có thể thực hiện được. Thiên Chúa mở
tung nấm mồ, thổi sinh khí mới và làm cho những bộ xương khô được sống. Thị
kiến cho thấy Thiên Chúa sẽ đưa Dân trở về xứ sở của sự sống, xứ sở của lời
hứa.
Trong một dụ ngôn khác, dụ ngôn về Cây Bá Hương, Êdêkien
cũng mô tả việc Thiên Chúa phục hồi sự sống cho Dân, nhưng qua một vận hành
lịch sử phức tạp : có một con phượng hoàng khổng lồ trên núi Liban ngắt một
chồi cây đưa đến vùng đất ngoại đạo, đó là việc vua Nabuchodonosor của Babylon,
năm 598, đã chinh phạt vua Joachim và bắt đưa đi đầy ở Babylon. Rồi một con
phượng hoàng lại ngắt một chồi khác, cùng một gốc, đặt vào nơi đất phì nhiêu,
có sẵn nước, và cây trở nên tươi tốt như một cây nho …. Nhưng cây nho lại bị
con phượng hoàng cũ trở lại, đem theo gió nóng và làm cho nó héo khô đến tận
rễ… Cuối cùng chính Giavê mới đem ngắt một chồi non khác từ gốc rễ ấy, rồi đem
trồng lên núi Sion và chồi non ấy sẽ trở thành một cây to cho chim trời trú
ngụ… Cuối cùng Êdêkien còn tiên báo sẽ có một vị vua tương lai, một Davíd mới
chăn dắt Israel…
Việc Thiên Chúa phục hồi sự sống cho Dân, được diễn ra qua
một vận hành lịch sử phức tạp như trong du ngôn Cây Bá Hương; hoặc diễn ra một
cách kỳ diệu như trong thị kiến “Những Bộ Xương Khô”, đều là những lời tiên báo
mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho Dân. Kết cuộc sẽ đến là sự sống của Dân,
sự sống do từ tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
1.2 Từ sứ điệp của Êdêkien
Mặc dù Êdêkien chỉ nghĩ tới lời tiên báo trong dụ ngôn các bộ
xương khô như một sự phục hưng vương quốc Israel, nhưng chúng ta cũng có thể
thấy được sứ điệp của ông, dù sao, khơi lên niềm hy vọng của một sự sống mới,
và dĩ nhiên niềm hy vọng ấy chỉ có thể thực hiện toàn vẹn trong Đức Giêsu Kitô,
sự sống đích thực cho nhân loại :
- “Đức Giê-su đáp : "Chính Thầy là con đường, là sự thật và
là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Ga 14,6; Xc. Ga
11, 1-44).
- “Đức Giê-su liền phán : "Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. (Ga 11,25)
Mặt khác sự chết và sự sống mà Êdêkien loan báo không phải
là một sự sống/chết của thân xác một con người, nhưng là sự phục hồi một tập thể chính trị - xã hội của một
Dân tộc. Đó là một sự sống bao gồm tất cả những khía cạnh cụ thể, thiết thân và
toàn diện của một Dân, trong đó mỗi cá nhân như một thành phần của Dân cũng
được chia sẻ trọn niềm hy vọng. Giáo Hội của Đức Kitô là sự tiếp nối và hoàn bị
hình ảnh Dân Chúa trong Cứu Ước, Giáo Hội cũng đón nhận và là một dấu chỉ trọn
vẹn hơn về Nước Trời của Chúa, trong đó những niềm hy vọng chính đáng của Dân
trong Cựu Ước không bị phá hủy, nhưng được hoàn trọn. Đức Giêsu làm cho người
chết sống lại và chính Ngài cũng trải qua cái chết để Phục Sinh vinh hiển, điều
đó chẳng những loan báo về một sự phục sinh sau cái chết thể xác của con người,
nhưng cũng trở thành một niềm hy vọng chắc chắn về một sự sống toàn diện, “sự
sống” của một cuộc sống nhân sinh phong phú và sung mãn ngay trong cuộc sống
này. Như thế, Giáo Hội cũng tiếp tục nền tảng của một niềm hy vọng chắc chắn về
sự sống mới của Chúa Kitô, một sự sống phong phú và toàn diện, ngay ở đây và
lúc này. Niềm hy vọng về sự sống mai sau phải thúc bách người Kitô hữu nỗ lực
làm cho men sự sống đích thực của Chúa được sinh sôi nẩy nở phong phú hơn trong
chính cuộc sống hôm nay. Công Đồng Vatican II nói :
“Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng cánh chung không làm
giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái lại còn tạo thêm
những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản
là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con
người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn
về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con
người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.”(MV 21c).
Như thế, chúng ta có thể thấy, từ sứ điệp của Êdêkien, một
niềm hy vọng về một sự sống toàn diện của con con người. Ơn cứu độ Kitô giáo
không đóng khung trong việc “cứu rỗi các linh hồn”, nhưng là một “SỰ SỐNG”, sự
sống mới âm thầm nhưng mạnh mẽ, cung cấp nhựa sống cho toàn bộ cuộc sống nhân
loại, thể xác và tâm hồn, cá nhân và tập thể, văn hóa cũng như khoa học… Đó là Sự
Sống của một nền “văn hóa sự sống” :
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn
trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào”. (Ga 10,10)
2. Ngôn sứ về sự sống trong thế giới ngày nay
Sứ điệp của Êdêkien, trong viễn tượng ơn cứu độ nơi Đức
Giêsu, có thể được đón nhận như là một lời mời gọi sống vai trò ngôn sứ về sự
sống toàn diện cho thế giới ngày nay, một thế giới bị chìm ngập trong “nền văn
minh của sự chết”. Hình ảnh những bộ xương khô có thể nhìn thấy được nơi những
trào lưu hưởng thụ, thực dụng, dễ dãi… cũng như việc đánh mất niềm khao khát sự
thiện trong thế giới hiện nay; hình ảnh những bộ xương khô có thể nhìn thấy
được nơi những tâm hồn mất hết ý nghĩa cuộc đời, mất hết niềm vui cuộc sống,
mất hết lý tưởng cao đẹp để chỉ còn biết lao mình vào hưởng thụ ở đây và lúc
này; hình ảnh những bộ xương khô cũng có thể nhìn thấy được nơi những phát minh
khoa học, càng ngày càng mạnh mẽ và kỳ diệu, nhưng cũng càng ngày càng có nguy
cơ đụng đến những phẩm tính căn bản của phẩm giá con người; hình ảnh những bộ
xương khô có thể là những nỗi bất lực, bất lực trong chính tâm hồn một con
người, bất lực trước hoàn cảnh trước mắt đổ ấp xuống những mảnh đời khó khăn,
và nhất là sự bất lực của những nỗ lực luân lý và tôn giáo trước những tệ nạn
của cuộc sống văn minh …
Hình ảnh những bộ xương khô là hình ảnh một thế giới của nền
“văn minh sự chết”, một thế giới đã chết trong mạch sống của niềm hy vọng.
2.1. “Văn hóa sự sống toàn diện” chất vấn đời sống Kitô hữu
Giáo lý Kitô giáo khẳng định những điều tốt đẹp nhất cho sự
sống con người. Theo cách nói của thông điệp Tin Mừng Sự Sống, thì “Tin Mừng về sự sống nằm ở trung tâm của sứ
điệp Đức Giêsu” (s. 1). Hoặc nói một cách khác, sự sống con người và sự
sống toàn diện chính là biểu hiện cụ thể của phẩm giá con người… Điều đó không
phải chỉ là một lựa chọn trong một hoàn cảnh cụ thể, trước những nguy cơ đe dọa
sự sống của thế giới văn minh hiện đại, nhưng thực sự là giáo huấn căn bản của
Kinh Thánh cũng như của tín lý Kitô giáo. Giáo Hội trong thế giới hiện nay cần
phải mang trách nhiệm làm sáng lên một nền văn hóa sự sống để chống lại một thứ
“văn hóa sự chết” đang phát triển ồ ạt trong thế giới này.
Thế nhưng, có một nghịch lý là chính Giáo Hội Công Giáo cũng
đã và đang bị tố cáo như là những kẻ làm nhiễm độc sự sống. Trong quá khứ và
ngay trong thói đại hiện nay, chúng ta có thể thấy khá nhiều lời tố cáo về cách
sống “vu khống sự sống” trong đời sống Giáo Hội. Chúng ta có thể nhắc nhớ lại
một vài nét :
Phản ứng của thời Phục Hưng Châu Âu là một cách chống lại
bầu khí của Giáo Hội Công Giáo quá nhấn mạnh đến “vũng lầy nước mắt”, đề cao
lối sống khắc khổ, dè dặt với niềm vui và sự phát triển tự nhiên của con người,
tính cách nghiêm nghị của cuộc sống nên thánh,… để tái khám phá ra vẻ đẹp tự
nhiên của con người, khám phá ra những năng lực lớn lao của con người, khám phá
lại niềm vui sống, khám phá tính cách độc đáo và có “cá tính” của cá nhân . . .
Đến thế kỷ XIX, triết gia F. Nietzsche vẫn nhân danh sự sống
phong phú và mạnh mẽ đã tố cáo bầu khí ảm đạm mà Kitô giáo đã phả vào cuộc sống
con người : “Cho tới bây giờ, người ta
chưa dám tấn công Kitô giáo, hơn nữa, lại tấn công không đúng chỗ. Bao lâu chưa
cảm thấy rằng luân lý Kitô là một tội ác căn bản đối với sự sống, thì các người
bênh vực vẫn chống trả lại dễ dàng”… hoặc “…cái nhìn của linh mục, gương mặt xanh xao, xa cách, làm hại cho sự
sống hơn là những lợi ích do lòng hy sinh tận tụy của họ mang lại; lối sống
cách biệt như thế vu khống sự sống”…
Đến tận giữa thế kỷ XX, triết gia B. Russell vẫn tỏ bầy ý
kiến của mình về tôn giáo nói chung là “Xét chung thì tôi cho rằng tôn giáo đã
có nhiều hậu quả tai hại, nó thần thánh hóa chủ nghĩa bảo thủ, cứ bám lấy những
tục lệ thời trước, nhất là nó thần thánh hóa sự cố chấp, bất bao dung và lòng
căm thù. Cái thái độ, những hành động cố chấp, bất bao dung trong tôn giáo;
nhất là ở Châu Âu, quả thực là ghê tởm”…; và đặc biệt với Giáo Hội Kitô giáo,
ông nói : “Đế quốc La Mã sụp đổ, nhưng các linh mục trong Giáo Hội có quan tâm
tới cái đó đâu. Họ chỉ lo làm sao phụ nữ giữ được trinh khiết thôi. Cái đó, đối
với họ mới là rất quan trọng… ngày nay nhân loại cũng đương sụp đổ và tôi thấy
nhiều giáo sĩ địa vị rất cao chỉ nghĩ tới vấn đề làm sao ngăn được sự thụ thai
nhân tạo; họ cho việc đó quan trọng hơn nhiều việc ngăn ngừa thế chiến nó sẽ
tiêu diệt nhân loại không còn lấy một mạng. Theo tôi, họ như thiếu ý thức về
cân xứng, cái quan trọng thì cho là tầm thường và ngược lại…”[1].
Chúng ta còn có thể kể ra một danh sách thật dài những nhân
vật lớn và những lời tố cáo nặng nề về hậu quả của nền luân lý Kitô giáo. Đứng
ở phía Giáo Hội chúng ta có thể cho rằng những lời như thế thật là quá đáng;
nhưng nếu thành tâm nhận định, có lẽ ít nhiều chúng ta cũng có thể nhận thấy
không phải tất cả những lời ấy là bất công.
Chẳng hạn, chúng ta có thể cảm nhận được, một cách không khó
lắm, ngay trong hiện tình đời sống của Giáo Hội, một bầu khí tôn giáo không có
đủ tính chất ủng hộ sự sống.
Trong hành trình đi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đến thành
Giêrikhô. Có một người mù tên là Bartimê đã khẩn thiết kêu cầu Chúa chữa bệnh
cho anh. Tiếng kêu khẩn thiết của anh mù Bartimê : “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”, được lập đi
lập lại nhiều lần như một khát vọng vươn lên của sự sống. Sự sống kêu gào được
sống, được sống một cách toàn diện và phong phú. Thế nhưng, trong đoàn người theo
Chúa Giêsu, có nhiều người quát nạt anh “im đi”. Những lời quát nạt trấn át sự
sống để bảo vệ cho một sự thánh thiêng, trật tự nào đó, để bảo vệ cho một
chương trình hay một tổ chức nào đó… không phải là hiếm trong sinh hoạt của
Giáo Hội. Nhìn một cách nào đó, có lẽ chúng ta thấy những lời quát nạt “im đi”
vẫn lấn át những lời dễ thương có tính cách ủng hộ sự sống “Cứ yên
tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” (Xc. Mc 10,46-52). Những quan tâm quá
mức về lễ nghi, về trật tự, về những hào nhoáng của danh giá, về luật lệ….;
thái độ sống đạo dựa trên “nhân đức chịu vậy” vì không khám phá ra được những
nét đẹp nhân bản của đời sống đức tin… thường làm cho đời sống đức tin trở
thành một lối sống sợ hãi, dúm dó, an thân, nhiều hơn là một sự sống phong phú
và triển nở…
Không kể những người có thiên kiến lệch lạc đối với tôn
giáo, chúng ta phải thật sự đau lòng khi thấy có những tấm lòng tha thiết với
cuộc đời, tha thiết với vận mạng con người, lại phải tìm cách bênh vực con
người bằng cách chống lại Thiên Chúa cũng như chống lại Giáo Hội. Nhìn lại
những lời chỉ trích Giáo Hội nhân danh giá trị nhân bản, hoặc nhân danh sự
sống, chúng ta có thể nhận ra rằng : trong khi Giáo Hội, ít là trong quá khứ,
đã chỉ chú trọng đến những giới luật cấm đoán từ Thiên Chúa về một vài tình
huống trong cuộc đời, phá thai, ngừa thai, tự tử…mà chưa triển khai được một hệ
giá trị nhân văn về phẩm giá con người, thì những nhà vô thần nhân bản lại lưu
ý nhiều hơn tới điều tạm gọi là “con người toàn diện”, lưu ý tới một thứ tạm
gọi là “sự sống toàn diện”.
Những người chủ trương phá thai, cái chết êm đềm, ngừa thai,
thụ thai nhân tạo… không hẳn là những người gian ác, thích hưởng thụ hoặc ích
kỷ,… nhưng có nhiều chủ trương xuất phát từ thái độ “vì con người”, xét theo
một khía cạnh nào đó. Chúng ta cần nhìn nhận nơi những chủ trương ấy một phần
thiện chí, nhằm mục tiêu làm điều tốt hơn cho con người. Đặc biệt, có thể đó
cũng là thái độ muốn chống lại một “bầu khí sự chết” mà Giáo Hội Công giáo
không phải không có phần trách nhiệm.
Lý do của một thái độ không ăn khớp giữa lập trường căn bản
và cung cách diễn tả trong lòng Giáo Hội, có lẽ, là do một biện chứng sâu xa
trong giáo lý của Giáo Hội, biện chứng đời này và đời sau : “…ơn gọi siêu nhiên này nhấn mạnh tính cách
tương đối trong sự sống trên trần gian của người nam và người nữ. Thực vậy, sự
sống này là một thực tại, không phải là “chót” mà là “áp chót”…”[2].
Giáo Hội ủng hộ sự sống ở đời này những lại đặt tầm quan
trọng chính yếu vào sự sống mai sau. Hơn nữa, việc tha thiết với cuộc sống mai
sau lại thường được diễn tả như đòi hỏi phải “coi thường”, hoặc nhiều khi là
“khinh chê” cuộc sống ở đời này. Như thế, nếu phải lựa chọn một trong hai thì
dĩ nhiên người Kitô hữu chỉ có thể lựa chọn đời sống mai sau, một đời sống
trường cửu, vững bền và chung cuộc.
Thật ra, nếu chúng ta không lý giải được mối tương quan biện
chứng giữa hai đời sống ấy, thì chúng ta sẽ rất dễ rơi vào một sự chọn lựa “một
mất một còn”, một sự lựa chọn bi đát, đã chọn bên này thì phải bỏ bên kia. Nếu
như thế, người Kitô hữu đã chọn cuộc sống mai sau thì phải “chịu vậy” trước
những khó khăn, những kỷ luật, những đòi hỏi mà “giá vé” của cuộc sống mai sau
đặt ra cho cuộc sống này. Và nếu không lý giải được mối tương quan biện chứng
ấy, người ta khó có thể triển khai được một nền văn hóa sự sống toàn diện, có
khả năng làm sáng lên những nét đẹp của chính đời sống này. Thực sự, Giáo Hội
Công Giáo vẫn còn rất ít triển khai được những giá trị nhân bản mang phẩm chất
đặc trưng và tuyệt đẹp của tinh thần Kitô giáo trong cuộc sống hằng ngày. Có
khá nhiều giá trị nhân bản gắn liền với đạo lý chính thống của Giáo Hội đã
không được ý thức, không được huấn luyện và không được thể hiện một cách rõ nét
trong đời sống của Giáo Hội; để rồi, khi Giáo Hội trình bày đạo lý của mình,
Giáo Hội lại rơi vào tình trạng “hồn Trương Ba da Hàng Thịt”. Ta có thể nhìn
thấy những “bộ xương khô” ngay trong chính đời sống Giáo Hội không ? Chẳng hạn
tinh thần sống đạo theo kiểu “đạo sinh hoạt”, đạo luật lệ không có Thần Khí …???
Thật ra mối tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau
không phải là mối tương quan bi đát, nghĩa là tương quan loại trừ nhau, nhưng
phải là tương quan ủng hộ nhau. Người ta chọn cuộc sống mai sau không phải vì
khinh chê cuộc sống này, nhưng là vì rất trân trọng nó. Ngay cả khi chấp nhận
làm giảm thiểu hoặc chấp nhận chết đi trong cuộc sống đời này vì cuộc sống mai
sau, thì đó cũng không phải là làm giảm nhẹ giá trị của nó, mà chính là làm
tăng giá trị của cuộc sống đời này, hay đúng hơn là làm trọn ý nghĩa của cuộc
sống đời này. Đó là một thứ biện chứng chứ không phải là một mối tương quan bi
đát giữa đời này và đời sau. Như thế, để có thể làm sáng trọn vẹn lên ý nghĩa
của cuộc sống đời này và góp phần và một nền văn hóa ủng hộ sự sống, chúng ta
phải làm sáng lên mối tương quan biện chứng ấy.
Trong hình ảnh cuộc đấu tranh “chủ - nô” mà triết gia Hégel
trình bày, người ta thấy bắt đầu nổi lên một khía cạnh mới về sự sống : ý nghĩa
của sự sống cao hơn chính sự sống. Trong cuộc chiến của hai người, kẻ nào dám
coi thường sự sống thể lý để lao vào cuộc đấu tranh cho được một cuộc sống làm
chủ, nghĩa là một cuộc sống có ý nghĩa chân chính, thì kẻ ấy sẽ là người thắng
cuộc. Ngược lại, kẻ ham sống sợ chết, kẻ muốn bảo vệ sự sống của mình bằng bất
cứ giá nào, cho dù là một cuộc sống mất tự do như một người nô lệ, thì kẻ ấy sẽ
là người thua cuộc. Ý nghĩa sự sống cao hơn chính sự sống, hay nói một cách
khác, sự sống con người không chỉ đơn thuần là một sự sống sinh vật, sự sống con
người cần đạt đến mức độ sự sống phong phú và cao cả. Từ đây, ta đã có thể thấy
thấp thoáng hình bóng của sự sống một cách rõ nét hơn. Sự sống không phải chỉ
là sự nhịp đập của con tim, nhưng còn là trọn vẹn phẩm giá của một con người. Sự
sống con người chỉ sáng lên giá trị của nó khi nó thực hiện ý nghĩa của đời
sống con người.
Dưới ánh sáng của lý trí tự nhiên, người ta cũng có thể thấy
được một vài hiện tượng biểu lộ tầm quan trọng của chính ý nghĩa sự sống quan
trọng hơn chính sự sống thể lý; chẳng hạn trong tình yêu, hoặc trong việc đấu
tranh cho phẩm giá con người, đấu tranh cho tự do, cho bình đẳng, cho sự độc
lập của quê hương đất nước… Với những giá trị nhân bản chân chính, người ta có
thể sẵn sàng hy sinh mạng sống; và việc hy sinh ấy được thể hiện một cách anh
hùng đối với bản thân của người hy sinh, cũng như một cách đáng kính trọng đối
với những người khác.
Như thế, trong ý nghĩa sâu xa của sự sống, người ta thấy sự
sống có thể đi đôi với cái chết, sự sống vẫn có thể bao gồm những hình thức hãm
mình, hy sinh, hoặc một lối sống khắc khổ nào đó… khi mà những điều đó thực sự
nằm trong chiều hướng thể hiện chính phẩm giá của sự sống con người. Một sự
sống như thế toát lên vẻ đẹp của nó, và có khả năng chinh phục được nền văn hóa
của sự chết. Nói cách khác, khi sự sống thể lý tìm được một ý nghĩa chân chính,
cao đẹp, thì cuộc sống con người lại thể hiện chính nó trong một thứ biện chứng
của sống và chết: “… vì chính khi hiến
thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc tìm được bản thân.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi chết đi là khi vui sống
muôn đời”[3].
Trong chiều hướng ấy, chúng ta có thể nói rằng, theo quan
điểm Kitô giáo, sự sống của con người ở đời này phải được nhìn trong tính biện
chứng, nghĩa là trong mối liên hệ với cái chết thì mới có thể thể hiện được
trọn vẹn giá trị. Bởi vì với Đức Giêsu Kitô, sự chết không còn phải là dấu hiệu
sự chiến thắng của sự chết, nhưng một cái chết tự nguyện vì yêu thương lại
chính là biểu hiện một một sự sống sung mãn, sự sống có tình yêu lớn hơn mọi
tình yêu, tình yêu dám “vét” hết sự sống của mình để trao tặng. Một cái nhìn
hời hợt, một thái độ vun quén cho sự sống của mình, tranh đấu cho sự phát triển
sự sống của bản thân mình… thực sự không phải là bênh vực sự sống, nhưng chính
là coi thường sự sống, là giảm thiểu ý nghĩa sự sống con người xuống hàng sự
sống của sinh vật cấp thấp.
Dĩ nhiên, một cái nhìn tự nhiên như nói ở trên chưa đủ để
bênh vực sự sống con người theo quan điểm Kitô giáo; vì người ta vẫn có thể
nhân danh tình yêu để chọn cái chết êm đềm chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ
rằng những điều đó, ít nhiều, nằm trong cùng một chiều hướng ủng hộ sự sống với
lập trường Kitô giáo. Điều mà đức Gioan Phaolô II nói đến như là “văn hóa sự
chết”, theo tôi, trong số đó có nhiều điều có thể nói được là một nền văn hóa
sự sống không toàn diện. Và như thế, nhiệm vụ của Giáo Hội có lẽ cũng không
phải chỉ nhằm “chống đối” mà còn là, một cách nào đó, “đồng hành” để đưa đến
một nền văn hóa sự sống toàn vẹn hơn. “Đồng hành” cũng có nghĩa là thừa nhận
những giá trị chân chính mà những chủ trương “không toàn diện” ấy chủ trương, và
tha thiết thăng tiến những giá trị ấy thêm hơn. Nói một cách triệt để hơn và
cũng “có thực chất” hơn, đồng hành nghĩa là chính Giáo Hội cũng phải nhìn lại
bầu khí chung cũng như những nỗ lực làm cho sự sống phóng phú và sung mãn của
Chúa Giêsu trở nên một hệ giá trị nhân bản đẹp và tích cực có khả năng góp phần
làm cho sự sống toàn diện được triển nở phong phú.
Giáo Huấn của Kinh Thánh cho ta thấy phẩm giá của sự sống
con người, trước tiên, đặt nền tảng trên sự tôn trọng của chính Thiên Chúa :
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng
tiêu vong.Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo
trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại.
Âm phủ không thống trị địa cầu”. (Kn 1, 13-14)
Và :
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường
tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng
chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó
đều phải nếm mùi cái chết”.(Kn 2,23-24)
Niềm Tin vào một Thiên Chúa ủng hộ sự sống không thể làm cho
sự sống đời này trở nên tầm thường, “nhẹ ký”, bọt bèo… nhưng gia tăng tối đa
giá trị cuộc sống ở đời này, qua một sự thay đổi ý nghĩa có tính cách biện
chứng. Niềm tin bổ túc cho cái nhìn tự nhiên là làm trọn khát vọng tuyệt đối
của con người. Sự sống của con người ở đời này và đời sau, mặc dầu có một sự
“cách quãng” do một sự biến đổi thực sự của Chúa, nhưng ta vẫn không bao giờ
được bỏ mất tính cách “liên tục” của một sự sống nơi một con người, đời này và
đời sau. Chính sự sống của một con người nơi trần gian, hình thành nên ý nghĩa
của mình trong dòng lịch sử và được hồng ân của Chúa trợ lực, biến đổi nên cuộc
sống vĩnh cửu mai sau. Trong trọn vẹn hành trình ấy, sự sống, dù là sự sống ở
đời này, vẫn luôn luôn được tôn trọng và luôn luôn nằm trong chiều hướng thăng
tiến đến mức độ hoàn hảo hơn, cho dù đó là một sự hy sinh, một đời sống khắc
khổ….
“Mặc dù nhiều khó khăn và bấp bênh, người nào chân thành mở rộng
lòng đón nhận chân lý và điều thiện đều có thể nhờ ánh sáng của lý trí, nếu
không kể tới việc nhận biết – theo luật tự nhiên được ghi trong tâm hồn (x. Rm
2,14-15)- giá trị thánh thiêng của sự sống con người, từ khởi điểm tới tận cùng
của nó; người chân thành có thể khẳng định quyền của mọi người được thấy người
ta tôn trọng toàn vẹn báu vật đầu tiên này của mình…” (T/Đ Tin Mừng Sự Sống, số
2c)
2.5 Những bộ xương khô được phục sinh
Việc loan truyền một nền văn hóa sự sống chắc chắn không thể
dừng lại ở một vài lập trường luân lý, một vài lập trường hoặc một vài cách
giải quyết những vấn đề trước mắt của cuộc sống, nhưng cần được nhìn lại, cần
bị chất vấn, để có thể, nói như Nietzsche, “hát
cho tôi nghe những bài ca hay hơn, để tôi mới chịu tin vào Đấng Cứu Độ của họ”.
Một nền luân lý sự sống luôn là cần thiết để định hướng cho
những xu hướng dễ dãi quen thuộc của con người, nhưng thường cũng lại dễ rớt
vào một thái độ nghiêm nghị khó có thể sống được, hoặc đưa đến kết quả là một
sự sống méo mó lệnh lạc. Nói cách khác, khi tìm nền tảng căn bản của sự sống,
ngoài việc tìm về những nguồn mạch giá trị luân lý vững bền, người ta còn cần
để ý đến phương pháp “xem hạt thì biết cây”.
Lòng tôn trọng sự sống chỉ có thể được triển nở phong phú
trong môi trường văn hoá sự sống toàn diện; nghĩa là sự sống của con người chỉ
có được tôn trọng khi mà người ta xác tín ý nghĩa của sự sống, khi mà môi
trường của một nền văn hóa sự sống có khả năng làm sáng lên những nét đẹp nhân
văn của sự sống, khi mà ý nghĩa của cuộc sống toàn diện được minh định một cách
thuyết phục. Đức Gioan Phaolô II nói đến một thứ “văn hóa sự sống”, điều đó bao
hàm một “hệ giá trị nhân bản”, có một thứ “tinh thần” năng động để có thể nuôi
dưỡng hướng dẫn những cách ứng xử trong nhiều tình huống phức tạp. Cũng thế,
tài liệu đúc kết Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu lần VIII, họp tại Hàn Quốc, từ
17-23.8.2004 đã chọn chủ đề “Gia Đình Á Châu Hướng Đến Nền Văn Hóa Sự Sống Toàn
Diện”.
Lam sao Tin Mừng sự sống của Đức Kitô có thể trở nên một
nguồn sinh khí mới cho “những bộ xương khô” ngày hôm nay ? Chắc chắn đó không
phải chỉ là một vài lập trường luân lý, nhưng là một sức sống mới của Thánh Thần,
một sức sống toàn diện và phong phú có khả năng làm vực dậy chẳng những giá trị
tâm linh mà cả những giá trị căn bản của
nền nhân bản Kitô giáo. Nhưng đâu là một “hệ giá trị” của một nền văn hóa sự
sống ? Đâu là những hình ảnh đẹp và có sức thuyết phục của một sự ủng hộ cho sự
sống toàn diện ? Tôi tin rằng còn có cả một hệ những giá trị nhân bản Kitô giáo
mà chúng ta chưa triển khai phong phú được…
Hôsê, Ngôn sứ về tình yêu
1. Tiểu sử
Hôsê có lẽ thuộc giòng họ Benjamin (thuộc vương quốc Bắc).
Ông rao giảng vào vào quãng giữa năm 750 và 725, tức cuối thời trị vì của
Jêrôbôam II và các vua kế vị sau đó. Sứ vụ của ông có lẽ chấm dứt trước khi
Samarie thất thủ (-721), vì không thấy dấu vết gì về biến cố ấy trong sách
Hôsê.
Thời gian rao giảng của Hôsê là một giai đoạn đen tối trong
lịch sử Israel
: bên ngoài thì có ngoại xâm (từ -734 đến - 732), bên trong thì loạn lạc. Vì
không tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, các vị ông vua thường giao ước với ngoại
bang; và kết quả là hầu hết đều bị giết chết (x. Hs 77, 3-10). Hôsê mất tin
tưởng vào chế độ quân chủ và thấy rằng một cho thấy chế độ vua đã không còn đạt
được mục đích nữa. Về phương diện tôn giáo, đây là một thời kỳ đạo Giavê bị pha
trộn với những nghi lễ tôn giáo của Canaan, nhất là việc vương quốc Israel làm
ra bò vàng để chỉ Thiên Chúa. Sinh hoạt tôn giáo chỉ có tính hình thức. Đời
luân lý thì sa đọa…
Tuân lệnh Chúa, Hôsê trình bày sứ điệp của ông một cách đặc
biệt, ông cưới lấy bà Gomer, có lẽ là một người phụ nữ đã bán mình nơi đền thờ
Cananeo (x. Hs 4,13-14). Hành vi ấy ám chỉ một sứ điệp tôn giáo : Giavê chính
là “chồng” của Dân, một dân nhơ nhớp vì thờ thần Baal. Người đàn bà đó không
phải chỉ phụ bạc Hôsê một lần, nhưng là nhiều lần; điều đó cũng là một sự ám
chỉ sự phụ bạc của Dân đối với Thiên Chúa. Theo lệnh của Giavê, Hôsê cưới người
đàn bà ngoại tình ấy, điều này biểu lộ tình yêu chung thủy của Giavê, tình yêu
có khả năng vượt qua được cả sự phản bội của Dân. Rồi trước khi gần gũi với
nàng, ông bắt nàng phải “kiêng” để thử thách; điều này tượng trưng cho một cuộc
thanh tẩy trong biến cố bị đi lưu đày của Dân.
Nói chung, người ta cho rằng những chuyện nói trên không
phải chỉ là một hình thức diễn tả văn chương, nhưng chính là cuộc đời thật của
ngôn sứ. Cách thức diễn tả sứ điệp bằng cuộc đời như thế là một phương pháp sư
phạm quen thuộc của dân Sêmít, vốn khá bình dân và thực tế, thích sự kiện sống thực
hơn là ý nghĩa trừu tượng xa xôi.
Chương II sách Hôsê giải thích ý nghĩa cuộc hôn nhân của ông
một cách rõ ràng : Israel đã
được Giavê Thiên Chúa yêu thương và cưới lấy như người vợ; nhưng Israel
đã ăn ở như người vợ bất trung; Giavê là một người chồng ghen tương, nhưng
không phải là thù hận. Ngài vẫn yêu thương Dân bằng một tình yêu trung tín.
Ngài sẽ sửa trị Dân, nhưng không phải để loại trừ mà là để phục hồi lại đời
sống thân tình như thuở ban đầu.
1.2 Sứ Điệp về tình yêu
Hôsê là người đầu tiên dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để
diễn tả tình yêu của Giavê. Sau này các ngôn sứ khác như Isaia, Giêrêmia,
Êdêkien và nhất là sách Diễm Ca sẽ khai thác đề tài này nhiều hơn. Với đề tài
này, giao ước tôn giáo của Dân Israel với Giavê không còn chỉ là một giao kèo
của pháp luật, nhưng là giao ước của tình yêu; điều này chắc chắn cũng chỉ được
thể hiện một cách trọn vẹn trong giao ước bằng máu của Đức Giêsu sau này. Trong
khía cạnh tình yêu, tôn giáo của Giavê trở thành một thực tại gần gũi, sâu xa,
thiết thân hơn với tâm hồn con người. Sự bất trung của Dân là một sự xúc phạm
đến tình yêu; và lòng trung tín của Thiên Chúa là một tình yêu mãnh liệt, vững
bền, vượt qua cả sự phản bội. Hôsê đặc biệt nhắm đến sự bất trung của giới lãnh
đạo trong dân : các vị Vua đã chọn các giải pháp chính trị theo sự suy tính
trần tục, và làm cho “phẩm giá” của Dân rơi xuống mức độ phàm tục như các dân
khác; các tư tế thì dốt nát và tham lam…
Hôsê đặc biệt nhấn mạnh đến sự bất trung về tôn giáo. Đây là
một sự “ngoại tình” của Dân; và họ phải bị trừng phạt. Về phía Giavê, Ngài là
một Thiên Chúa ghen tuông, Ngài không chấp nhận chia sẻ tình thương cho ai
khác. Ngài trừng phạt Dân, nhưng đó là để sửa dạy chứ không phải để loại
trừ.
Trong sứ điệp của Hôsê, người ta thấy một sự kết hợp táo bạo
giữa cái cao vời và sự gần gũi, giữa thánh thiện và nhơ nhớp, giữa tôn giáo và
đời thường … Ông diễn tả tình yêu cao vời của Thiên Chúa bằng hình ảnh tình yêu
vợ chồng; ông trình bầy sứ điệp tôn giáo bằng chính cuộc sống gia đình của
mình; ông dám biểu lộ tình yêu thánh thiện của Thiên Chúa trong thực tại tính
dục đời thường nhất của cuộc sống con người. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa
là đưa Thiên Chúa dính dáng vào nguyên lý phong phú của tính dục một cách “máy
móc”, hoàn toàn có tính nghi thức bên ngoài như các nền văn hóa thờ sinh thực
khí, nhưng là bộc lộ lòng
trung tín, bộc lộ tình yêu
với Thiên Chúa trong cả chuyện chăn gối vợ chồng. Trong Mười Điều Răn của giao
ước cũ, điều thứ 9 và thứ 10 đã dính dáng tới cả những ước muốn của con người;
và ta thấy trong Giao Ước Mới một tính cách tuyệt đối, trọn vẹn dính dáng đến
mạng sống, đến cả xác hồn của con người với Thiên Chúa.
Cách thức diễn tả của Hôsê thực hiện được một cuộc “nhập
thể” táo bạo và đáng yêu. Thiên Chúa “đáng kính sợ” trở nên một Thiên Chúa
“thân mật” trong tình nghĩa vợ chồng; sự thánh thiện của Thiên Chúa được thể
hiện ngay cả trong sự nhơ nhớp và gian trá nhất của cuộc sống trần gian và của
lịch sử con người. Người ta ghi nhận rằng tính cách nhập thể như thế bộc lộ một
tính cách căn bản của đạo thờ Giavê : Giavê không phải là một Thiên Chúa an vị
trên trời cao, nhưng dán thân vào thế giới nhiều tục lụy của con người; Dân Israen
là Dân được đón nhận giáo huấn từ trời cao để sống giáo huân ấy một cách trung
tín trong dòng lịch sử đời thường đầy thăng trầm của đời sống con người. Hành
trình ấy của Dân, dĩ nhiên, sẽ có đầy những nhơ nhớp, phản bội, nhưng cũng lại
đầy nét kỳ diệu bộc lộ ra phẩm chất kỳ diệu của tình yêu. Dân càng “cứng đầu
cứng cổ”, thì tình yêu Thiên Chúa lại càng mãnh liệt.
Riêng đối với Hôsê, tính cách “nhập thể” của đạo Giavê như
thế được biểu lộ nơi chính bản thân ông một cách hết sức “bi tráng”, hay nói
mạnh hơn, một thứ trớ trêu theo kiểu “dở khóc dở cười” : cao vời đấy nhưng cũng
đau thương đấy, cao vời của chính sứ mệnh từ trời và đau thương từ trong cái tự
ái căn bản nhất của một người đàn ông, chấp nhận vợ ngoại tình; đón nhận đau
thương một cách cao cả đấy, những là một sự cao cả không diễn ra nơi một địa
điểm cao cả, nơi “tao đàn” của lịch sử, như Sinai chẳng hạn, mà là ngay trên
giường ngủ nhơ nhớp của mình. Vận mạng cuộc đời của ông là : cam chịu những khổ
đau trong đời sống gia đình của mình khi mà Dân phản loạn cùng Thiên Chúa; và
đón nhận hạnh phúc trong gia đình mình khi mà Dân trở lại cùng Thiên Chúa. Đó
là một cuộc đời thể hiện lịch sử ơn cứu độ, thể hiện những ngang trái của hành
trình đức tin ngay trong chính đời sống xác thịt cụ thể nhất của bản thân một
con người. Đó là một sự hội nhập đời sống đức tin trong hình thức “loài người”
nhất và có lẽ cũng nhục nhã nhất của đời sống con người. Sứ điệp lạ kỳ của Hôsê
mang ý nghĩa một cuộc sống đức tin trong bi kịch hằng ngày của mình, thể nghiệm
những thăng trầm của đức tin trong gia đình và trong xác thịt của mình. Chính
khi can đảm sống đức tin trong cái nhơ nhớp và tầm thường nhất của cuộc sống
con người mà Hôsê chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông.
Quả thật tình yêu là một bài ca hát nhất của đời người, như
chúng ta được nghe trong sách Diễm Ca cũng như trong biết bao nhiêu áng văn thơ
nghệ thuật của con người. Nhưng cũng quả thật tình yêu làm cho người ta phải
điên lên vì cái ngang trái, bẽ bàng. Tình yêu là có khả năng làm thăng hoa con
người nhưng cũng co khả năng “bóp nát con tim” của con người. Trong cuộc sống
con người, cái đẹp nhất bao giờ cũng bao hàm một khả năng trở thành cái “xấu”
nhất, cái thơ mộng nhất thì cũng bao hàm khả năng trở thành cái đau thương
nhất. Chính trong thực tại kỳ diệu ấy mà Đạo của Giavê được thể hiện một cách
quá lạ lùng. Điều ghê gớm trong sứ điệp của Hôsê là, ngay cả Thiên Chúa, khi
dấn thân vào cuộc chơi với con người, Ngài cũng dám đón nhận hết những hệ lụy
của cuộc chơi; và bài ca chiến thắng của Thiên Chúa chỉ có thể cất lên được
trong cuộc chơi ấy đầy bi tráng ấy. Sau này, với đức Giêsu chúng ta thấy rõ hơn
việc Thiên Chúa tỏ mình ra là chính Ngài, Thiên Chúa thể hiện vinh quang của
Ngài không phải khi chứng tỏ quyền năng hủy diệt, nhưng chính là khi Ngài dám
đón nhận cái bi đát đau thương của tình yêu bị biến chất :
“Đức Giê-su trả lời : "Đã đến giờ
Con Người được tôn vinh ! 24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo
vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai
coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy
theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quý trọng người ấy."
27 "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy
biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà
con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ
có tiếng từ trời vọng xuống : "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh
nữa !"(Ga 12, 23-28)
Chính nơi đây, ta
hiểu ra được sứ điệp cao cả của Hôsê, vì điều mà ông loan báo thực sự chỉ có
thể thực hiện được trong Đức Giêsu Kitô, vị Ngôn Sứ duy nhất và cao cả nhất. Vị
Ngôn Sứ Giêsu đã dám chấp nhận bị phản bội ngay nơi nhà của mình :
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga
1, 11).
Ngài đã chấp nhận sự phản bội của người thân yêu nhất :
“Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những
người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : Kẻ đã cùng
con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”. (Ga 13,18)
Ngài đã chịu bao nhiêu nỗi sỉ nhục, bị chỉ điểm bằng một cái
hôn, chịu đội mão gai, chịu nhổ vào mặt, chịu nhạo báng và thách thức, chịu
lưỡi đòng đâu thâu trái tim để đổ hết máu và nước… Và điều quan trọng là Ngài
đã đi đến cùng, trung tín đến cùng trong chính tình yêu phản bội. Chỉ có Tình
Yêu ấy và Con Người ấy mới có thể loan báo sứ điệp chân chính của tình yêu và
có thể giải cứu được cho tình yêu của con người.
2. Ngôn sứ của tình yêu ngày hôm nay
Là ngôn sứ của tình yêu ngày hôm nay, nghĩa là dám nhận ra
và dám tố cáo được những thế lực, những chiêu bài vu khống tình yêu; nghĩa là
dám đi ngược lại lối suy nghĩ và lối sống sa đọa của tình yêu; nghĩa là dám
công bố tình yêu của Thiên Chúa ngay cả trong những tình huống tối đen và bi
đát nhất của tình yêu con người; nghĩa là, nhờ tình yêu của Chúa, dám yêu và
dám đi đến cùng nẻo đường nhơ nhớp và đau thương của tình yêu… Ta có thể nhận
ra rất nhiều điều đáng báo động trong lãnh vực tình yêu của con người, những
điều đáng báo động, những thật ra chỉ là những “biến tướng” của vấn đề muôn
thuở trong tình yêu con người.
2.1 Từ chối nẻo đường yêu thương
Một thi sĩ đã nói rằng : yêu là chết ở trong lòng một tý.
Thật không phải một chút, cái “một chút” của thi sĩ chính là cái chết của cả
con người được nghệ thuật hóa. Trong đời sống con người, yêu thương là nẻo
đường phức tạp và thường là nẻo đường của đau khổ và mất mát. Kinh nghiệm đó
bao thế hệ con người đã thấm thía lắm rồi. Tuy nhiên, điều kỳ diệu là con người
vẫn không muốn và không thể rời bỏ con đường yêu thương.
Tuy vậy, ta cũng có thể thấy được nhiều trào lưu, kinh tế,
văn hóa, chính trị…, công khai hoặc ngấm ngầm, muốn chống lại nẻo đường yêu
thương. Con người ai cũng muốn trốn tránh khổ đau, nhưng trốn tránh khổ đau
bằng cách từ chối yêu thương thì, bi đát thay, lại là từ chối chính bản thân
mình, từ chối cả lý do hiện hữu chân chính của con người mình. Khi mà tính
hưởng thụ của con người trở nên “vĩ đại”, khi mà niềm vui của đời người bị rơi
vào mức độ tìm sự sung sướng, khi mà người ta mệt mỏi trong cuộc phiêu lưu của
tình yêu và muốn tìm một sự an nhàn cho đời mình,… thì chắc chắn tình yêu trong
cuộc sống con người cũng bị giảm nhẹ, hoặc bị méo mó. Khi đó, cái méo mó của
tình yêu lại chính là cái méo mó lớn nhất của đời sống con người : cái méo mó
trong hình ảnh một con người không còn biết yêu thương. Một sự sống không yêu
thương là sự sống của sinh vật, chỉ còn biết hưởng thụ cho bản thân mình…
Người ta từ chối nẻo đường yêu thương bằng nhiều cách khác
nhau, nhưng tựu chung, đó là một thái độ thực dụng; nghĩa là từ chối liên lụy
vào hành trình đời người, để đi tìm cho mình một phương thế khác bảo đảm đời
mình mà không có tình thương : sa vào kỹ thuật sống, đặt điều kiện yêu để loại
trừ bản thân của nhau, và không còn dám phiêu lưu với một ngôi vị con người….
2.2 Những thứ tình yêu méo mó
Càng ngày càng có những trục trặc trong đời sống hôn nhân mà
lý do không hẳn là do hôn nhân, nhưng là do một thứ quan niệm, một lối sống sai
lạc của tình yêu :
- Đi tìm sung sướng chứ không phải đi tìm hạnh phúc trong
tình yêu …
- Tình yêu tính toán : Chúng ta có thể thấy một hiện tượng
càng ngày càng phổ biến trong xã hội, đó là một thứ tình yêu tính toán. Nghe
các buổi tư vấn trên sóng radio, chúng ta thấy người ta giải quyết những vấn đề
hôn nhân hoàn toàn theo cách suy nghĩ của lợi ích, chứ không phải là thể hiện
một tình yêu cao cả. Xã hội ngày nay không còn có thể đi được “ba mức độ” của
tình yêu :
1) Yêu vì những điều hay của nhau
2) Yêu vì đồng hội đồng thuyền
3) Yêu là tình yêu hoàn toàn cho không, vị lợi ích hoàn toàn
của người mình yêu chứ không tìm gì cho mình.
Những thứ tình yêu Eros thuần túy, như một thứ “đam mê điên
loạn”; hoặc là một thứ dửng dưng như một phản ứng ngược lại, như lời của những
bài hát “Tình là tình tuy không mà có, tình là tình có cũng như không”; “tình
yêu đến, em không mong đợi gì; tình yêu đi, em không hề nuối tiếc…”
2.3 Kinh tế lấn lướt tình yêu
Cuộc sống xã hội hiện đại cuốn hút con người vào một chuỗi
những liên hệ kinh tế, giống hệt như là một giây chuyền sản xuất, trong đó con
người trở thành một con ốc, một sợi xích không thể thoát ra được. Trong xã hội
hiện đại, con người không thể không có việc làm, con người không thể không có
địa vị, bằng cấp, tiền bạc…, những điều đó không phải là những cám dỗ riêng lẻ
mà ta có thể chống lại một cách dễ dàng, nhưng lôi kéo theo hệ lụy của toàn bộ
cuộc sống. Chẳng hạn, ở Tây phương, người ta đành mất vợ/chồng chứ không thể
mất việc. Mất vợ/chồng thì còn có thể tìm lại vợ hay chồng khác, còn mất việc
thì sẽ mất tất cả, mất nhà, mất xe, mất bảo hiểm, mất bạn bè… và cuối cùng (hay
trước nhất) thì cũng sẽ mất vợ/chồng mà thôi. Giống hệt như một người làm việc
giây chuyển, trở thành như một cái máy, không còn có khả năng sáng tạo; thì
cũng thế, trong vận hành của cuộc sống hiện đại, người ta không còn có thể lựa
chọn thái độ sống chính mình; người ta không còn có thể can đảm, oai hùng, chọn
giải pháp giữ vợ/chồng, cho dù bị mất tất cả… Tình yêu không còn là điều lớn
nhất, vì tình yêu mà không có việc làm thì cũng không thể làm gì được…
Trong xã hội duy kinh tế, mọi thứ khác đều trở thành sản
phẩm phụ : trí thức cũng chỉ để phục vụ cho kinh tế, chính trị cũng phục vụ
kinh tế, một xã hội mất căn tính, chỉ vì người ta bị cuốn hút vào vòng xoáy của
xã hội tiêu thụ. Như thế, rõ ràng thế giới duy kinh tế hiện nay cũng đang biến
tình nghĩa con người thành nên một sản phẩm phụ; một thứ trang hoàng cho cuộc
sống… thêm vào được thì tốt, nếu không thích hợp thì bỏ nó đi, tháo tình yêu ra
khỏi cỗ xe của đời mình, để nó có thể tiếp tục chạy trong hệ thống xã hội duy
kinh tế.
Ngôn sứ của tình yêu hôm nay là người làm chứng cho sự cao
quí của tình yêu, và nhất là, nhờ tình yêu của Chúa Giêsu, khẳng định tính
“tuyệt đối” của tình yêu, có khẳ năng vượt qua được cả một thứ tình yêu bị phản
bội…
Giêrêmia, Ngôn sứ về đời sống tâm linh
1. Tiểu sử
“Giêrêmia” có nghĩa là “Gia vê tôn trọng”. Ông sinh khoảng
650-645 tcn, tại làng Anatot, gần Giêrusalem, trong một gia đình tư tế.
Giêrêmia là một người có tính tình hiền lành, đa cảm, dễ dàng rung động trước
tình yêu. Ông sống độc thân và thích một cuộc đời yên tĩnh. Tất cả những đường
nét về con người của Giêrêmia hoàn toàn trái ngược với sứ vụ mà ông phải đảm
nhận.
Khoảng năm 18 tuổi, Giêrêmia nhận ra ơn gọi làm ngôn sứ. Ơn
gọi ấy không phải xuất phát từ một cuộc xuất thần hay một thị kiến lạ thường
nào, những do một ý thức sống động và rất thực trong đời sống tâm linh của ông;
nghĩa là trong đời sống thân mật với Chúa, trong những giờ đàm đạo nội tâm với
Chúa, trong một cuộc chiến đấu nội tâm với sứ mệnh Chúa trao phó… để rồi trở
thành một xác tín sâu xa; mặc dù, theo tính tình tự nhiên ông vẫn muốn chối từ.
Giêrêmia muốn nại nhiều lý do để từ chối. Ban đầu ông cho là
vì mình quá trẻ (Gr 1,6); rồi ông thấy có quá nhiều thù địch. Nhưng cuối ông
cũng không thể nào từ bỏ được sứ mệnh ngôn sứ. Đó là định mệnh cuộc đời của ông.
Ông kêu lên rằng mình bị Giavê dụ dỗ. Cuộc đời của Giêrêmia, trước khi là một
bi kịch trong lịch sử, thì đã là một bi kịch trong tâm hồn :
“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến
rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho
thiên hạ, để họ nhạo báng con”. (Gr 20,7).
Cuộc đời ông ngập tràn đau khổ, ông bị chống đối từ mọi
phía, ngay cả từ những người trong họ hàng dòng tộc. Ông chỉ được người thư ký
Baruch và một vài người bạn hiểu và thông cảm.
Giêrêmia họat động tại nước Giuđa, qua ba đời vua : Giôsia
(640-909); Gioakim (609-598); Sêdecia
(598-587). Nói chung, thời các vị vua này, đời sống tôn giáo sa sút : thờ quấy,
người ta thờ Giavê nhưng cũng thờ Baalim-Astarot, một cặp thần gốc Canaan mang người ta phải giết trẻ thơ để dâng cúng, dân
chúng giữ đạo hình thức; đời sống luân lý sa sút… Giêrêmia lên án gắt gao. Ông
loan báo sẽ có một cuộc xâm lăng từ phương Bắc (Gr 2,6). Thời Sedecia, ông
khuyên nên thần phục Babylon…
Trong tất cả mọi sự, Giêrêmia luôn gặp sự chống đối, bị đe dọa tính mang, bị đủ
mọi thứ bách hại… Thêm nữa, ông lại bị bênh tật, và hết sức cô đơn.
1.2 Sứ điệp của Giêrêmia
Chúng ta chỉ lưu ý đến một “sứ điệp” của Giêrêmia, sứ điệp
về mối tương quan thân mật với Giavê, đặc biêt là sứ điệp từ chính bản thân của
ông.
Giêrêmia xác tín vào ơn gọi của mình, một ơn gọi có nguồn
gốc siêu nhiên từ chính Chúa mà ông không thể chống cưỡng được :
Gr 20,7-11: “Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để
cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên
trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con .Mỗi lần nói năng là con phải la
lớn, phải kêu lên : "Bạo tàn ! Phá huỷ !" Vì lời ĐỨC CHÚA mà con đây
bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.9Có lần con tự nhủ :
"Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa."
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con
nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được !
“Con nghe biết bao người vu cáo :"Kìa, lão 'Tứ phía kinh hoàng
!', hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi !". Tất cả những bạn bè thân thích đều
rình xem con vấp ngã. Họ nói: "Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ
thắng và trả thù được nó !". Nhưng ĐỨC CHÚA hằng ở bên con như một trang
chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo,sẽ không
thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề :đó là một nỗi nhục
muôn đời không thể quên.
Ông xác tín, cũng như Samuel, mình được Giavê chọn từ trước,
được thánh hiến từ trong lòng mẹ; được đón nhận Lời của Chúa để công bố cho
Dân.
Giêrêmia là một con người có lòng đạo đức sâu xa, thể hiện đặc
biệt trong một đời sống thân mật với Chúa. Ông trò chuyện thân và với Chúa, tâm
sự với Ngài với tất cả tâm tình mà người ta có thể nói những lời của Giêrêmia
như một cuốn tự thú như của thánh Âu tinh :
“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài quả là chính trực, con đâu dám tranh luận
với Ngài, nhưng chỉ xin thưa về một vài phán quyết : Tại sao kẻ gian ác thịnh
đạt trên đường đời, tại sao mọi quân phản bội cứ bình an vô sự ? Ngài trồng
chúng, chúng liền bén rễ, chúng phát triển rồi sinh hoa trái. Môi miệng chúng
tuy kêu cầu Ngài, nhưng lòng dạ thì lại ở xa. Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài biết con và
Ngài thấy rõ, Ngài dò xét lòng con, lòng con ở bên Ngài. Xin tách biệt quân
gian ác, như tách chiên để đưa tới lò sát sinh. Xin dành riêng chúng ra chờ
ngày tàn sát. Cho đến bao giờ xứ sở còn tang tóc, và cỏ rả ngoài đồng còn héo
khô ? Vì tội ác của dân cư trong xứ mà thú vật và chim muông đều biến sạch.
Chúng nói : "Người không thấy các đường nẻo của tôi". Ngươi chạy với
người đi bộ mà còn nhọc mệt, thì chạy đua với ngựa làm sao ? Nếu ngươi chỉ thấy
an tâm trong một xứ thái bình, thì trong bụi rậm sông Gio-đan, an tâm làm sao
được ? Phải, ngay cả anh em ngươi và nhà cha ngươi, chính chúng cũng phản bội
ngươi; sau lưng ngươi, chính chúng nặng lời chỉ trích ngươi : đừng tin chúng
khi chúng nói ngon nói ngọt với ngươi”. (Gr 12,1-6)(Xc. 15,10-21; 17,14-18;
18,18-23; 20, 7-18…)
Rất nhiều lần ông nói lại lời của Gia vê nói với chính ông
hoặc nói với Dân của Ngài: “Ta ở với con”
:: “Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi", - sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA.” (Gr 1,8; Xc. Gr1,19; 15,20; 30,11; 42,11; 46,28 ). Những điều đó
làm cho hình ảnh Giavê trong sách Giêrêmia không còn dáng vẻ như một ông chủ
nói với tôi tớ, nhưng như một người bạn, người bênh đỡ, người mà ông có thể tâm
sự được.
Lời khẩn nài của ông với Chúa tha thiết đến độ như chính
Chúa cũng sợ sẽ phải chấp nhận lời ông van xin :
Gr 7,16: ” Còn ngươi, ngươi đừng chuyển cầu cho dân này, đừng
cất tiếng than vãn và dâng lời nguyện xin cho chúng, cũng đừng nài nỉ Ta, vì Ta
sẽ chẳng nghe ngươi đâu”.
Gr 11,14 : “Còn ngươi, ngươi đừng cầu nguyện cho dân này, cũng
đừng lên tiếng kêu van và khấn xin cho chúng, vì khi chúng lâm nạn mà kêu cầu
đến Ta, Ta cũng chẳng thèm nghe”.
Gr 14,11: “ĐỨC CHÚA phán với tôi : "Ngươi đừng cầu nguyện
cho dân này được may lành nữa !”
Cũng chính vì một sự thân mật với Giavê như thế, Giêrêmia có
thể dám tỏ bầy sự bất tuân phục của ông với những mệnh lệnh quá đáng của Giavê
: “Có
lần con tự nhủ : "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người
mà nói nữa." (Gr 20,9).
Ông có một ý thức sâu xa về tội lỗi, ông muốn cho người ta
thấy rõ sự xấu xa của tội cũng như thấy rõ bản chất con người vốn yếu hèn,
không biết cầu nguyện… Con người cần ý thức điều đó để trông cậy vào Chúa trọn
vẹn hơn. Về phần mình, mặc dầu bị thử thách và chịu bách hại, Giêrêmia kêu
trách và than vãn, nhưng những điều đó không làm cho ông xa rời Thiên Chúa, mà
ngược lại, còn thúc dục ông sống phó thác vào Thiên Chúa hơn nữa; và sự thân
mật của ông với Giavê, qua những thăng trầm ấy lại càng gắn bó chặt chẽ hơn.
Ông gọi Giavê là “Niềm Hy Vọng của Israen”
(Gr 14,8;17.13;50,7). Về phía Giavê, Ngài như thể cần tới một người thân thiết
để trao những việc khó khăn, cần đến một người thân thiết để có thể “làm phiền”
đến nhau, nên Ngài lại như càng xô đẩy Giêrêmia vào cuộc chiến mỗi ngày mỗi gay
go hơn. Giêrêmia chấp nhận để cho Thiên Chúa chộp bắt bản thân mình, chấp nhận
trả giá bằng khổ đau để đón nhận được sâu xa hơn một Thiên Chúa yêu thương.
Điều này khá giống như mối tương quan của Chúa Giêsu với
Chúa Cha : mỗi lần Chúa Giêsu tình nguyện đi vào công cuộc cứu độ bằng lối hạ
mình, chịu khổ, thì Chúa Cha lại cất lời “Đây
là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”; và Chúa Giêsu, trong khi đón nhận
Thánh Ý Chúa Cha một cách đau khổ nhất trong vườn Cây Dầu thì lại thốt nên lời
“Abba, Cha Ơi” một cách trọn vẹn nhất của một Người Con.
Nhờ kinh nghiệm cá nhân về một đời sống thân mật với Chúa,
Giêrêmia tiên báo về một giao ước mới, nơi đó, những người được tham dự vào
cuộc phục hưng của Giavê sẽ ký giao ước với Chúa trong tim chứ không phải trên
bia đá, trong tình yêu sâu xa chứ không phải tính toán theo hình thức lề luật
bên ngoài :
“Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, 32 không giống như giao ước
Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập ; chính
chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA. 33 Nhưng đây
là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta.
Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. 34 Chúng sẽ không còn phải
dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia : "Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA",
vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng
nữa”.(Gr 31, 31-34)
Quả thật, cuộc đời của Giêrêmia là một sứ điệp sống động của
mối tình thân mật giữa con người với Thiên Chúa, một mối tình thân mật đến độ
dám làm phiền nhau. Ông quả thật là “người linh hứng của đêm tối”; và nẻo đường
của thánh Gioan Thánh giá sau này được gợi hứng và nuôi dưỡng do sứ điệp tình
thân của Giêrêmia.
2. Ngôn sứ về đời sống tâm linh cho ngày hôm nay
2.1 Thế giới đánh mất ý nghĩa của sự thân mật
“Lối sống nhanh” là một nét của xã hội hiện đại. Càng ngày
con người càng đạt tới nhiều sự tiến bộ vĩ đại. Sự tiến bộ ấy giống như người
ta kéo một đầu giây thun đi quá xa, khiến cho sợ giây càng ngày càng căng hơn.
Con người “chân” đạt đất những “đầu” thì cứ phải vươn lên cao hơn. Bộ máy kinh
tế, khoa học… có khả năng “lôi đầu” con người đến những tầm cao mới, nhưng lại
chẳng bao giờ có thể cất lên được “bàn chân” thực tế của một con người đầy
những giới hạn, đầy những yếu đuối, bệnh tật, cả về thể xác lẫn tinh thần. Con
người trong xã hội tiến bộ không còn có thể thảnh thơi thưởng thức cuộc đời,
thấm sâu những giá trị của cuộc sống.
Thế giới ấy cũng có tác dụng lôi con người ra khỏi cõi lòng,
khỏi những tình cảm “lãng mạn”, để buộc con người phải đối đầu với những thách
đố gay gắt, buộc con người phải giải quyết những xáo trộn và bất ổn xẩy ra hằng
ngày trong cuộc sống. Thế giới của tâm hồn càng ngày càng trở nên viễn vông.
Tình bạn trở thành nhất thời, tình yêu trở nên thực dụng, tình nghĩa gia đình
cũng càng ngày càng bị xói mòn vì những toan tính hưởng thụ sung sướng chứ
không phải cùng nhau đi tìm hạnh phúc…
Cuộc sống con người càng ngày càng trở nên hời hợt. Những
điều “thiêng liêng” của tâm hồn, những “tình bạn nối khố”, những lưu luyến vì
quê hương, đất mẹ chẳng còn có ý nghĩa gì ... Nguy cơ của cuộc sống hời hợt làm
cho cuộc sống trở thành như những thành tựu ngẫu nhiên, trong dòng nước vô
tình, trong cơn lốc thời cuộc… nơi đó không còn có những tâm hồn có tâm huyết
với cuộc đời, đau đáu với niềm khát vọng,
Nhưng chính lúc, này, hơn lúc nào hết, con người khao khát
một tình nghĩa thân mật, sâu đậm… mà người Kitô hữu có thể tìm thấy một sự
“thuận lợi” để công bố một tình yêu thương thân mật của chính Chúa Giêsu đối
với con người.
2.2 Tính thân mật vượt qua não trạng chuẩn hóa
Cuộc sống văn minh hiện đại cũng là một cuộc sống được chuẩn
hóa, chuẩn hóa “tận răng”; nghĩa là người ta phát triển một kỹ thuật sống để
thích nghi, để thành công chứ không còn là một nghệ thuật sống như niềm vui thể
hiện nét độc đáo của bản thân. Nhu cầu chuẩn hóa xen vào quá nhiều lãnh vực
trong cuộc sống, từ việc dạy học, việc bán hàng, việc tiếp khách, việc tham dự
tiệc tùng… Chúng ta có thể thấy trong chiến dịch xây dựng nếp sống văn minh đô
thị cả những biểu ngữ tuyên truyền như “lên tiếng trước khi gặp người khác” !!!
Cuộc sống chuẩn hóa làm cho cuộc sống được, một cách nào đó
“hợp thời”, những lại làm cho con người không còn “hợp” với chính mình nữa; và
đồng thời làm cho sự gặp gỡ con người với nhau, thật sự, cũng chẳng còn một sự
“hợp tình hợp nghĩa” nữa. người ta không còn sống với nhau bằng tâm tình thật,
và cũng không bao giờ có thể chấp nhận con người thật của nhau. Người ta chỉ
biết nhận định nhau qua phong cách, qua những tiêu chuẩn chung…. Khi có một
người, đưa 10 tâm thiệp đến mời các anh em trong cộng đoàn; rồi vì thiếu một
tấm thiệp, người đó đành phải lấy một tờ giấy khác, viết tạm vài dòng để mời…
thế mà tấm giấy đó lại được chọn để gửi cho tôi, thì chắc chắn tôi sẽ vui mừng
lắm, vì mình được coi như người nhà, thân mật, có thể vượt qua được nghi thức…
2.3 Tình thân mật vượt qua não trạng hợp lý
Cuộc đời con người không phải lúc nào cũng diễn tiến một
cách hợp lý. Triết học hiện sinh, một trào lưu rộng lớn trong thế kỷ XX đưa
nguyên tắc của sự phi lý vào trong cuộc sống, hiện sinh của con người đầy những
chuyện nghịch lý. Sống là đối diện và đón nhận sự nghịch lý của cuộc đời. Điều
quan trọng là cách đón nhận của mỗi người. Triết gia Kierkegaard cho thấy con
người chỉ có thể vượt qua sự nghịch lý bằng đức tin. Gióp và nhất là Abraham là
mẫu người đã có thể vượt qua sự nghịch lý bằng đức tin. Abraham tin tưởng hoàn
toàn vào Chúa, một Thiên Chúa đã hứa Isaac sẽ là tổ phụ một dân tộc đông đảo,
và Thiên Chúa đòi sát tế Isaac. Chính lòng tin ấy đã giúp ông đón nhận mệnh
lệnh Chúa một cách “bình thản” lạ lùng, sự bình thản chỉ có được nơi một khuôn
mặt của niềm tin.
Có một tác phẩm nổi tiếng và thuộc vào loại best seller, đó
là cuốn “ Mười Điều Nghịch Lý của Cuộc Đời”. Cuốn sách rất hay để giúp người ta
đón nhận những nghịch lý thường xuyên trong cuộc sống. Nhưng dù sao, tư tưởng
của tác giả cũng chỉ có thể giúp người
ta thêm can đảm đón nhận mà thôi.
Sứ điệp của Giêrêmia lại cho thấy có một “nguyên tắc” khác,
chính sự thân mật giúp con người có thể đón nhận được nghịch lý của cuộc đời.
Chẳng hạn, người cha/mẹ cả đời hy sinh cho con; nhưng lại chẳng bao giờ được
đền bù cho xứng đáng. Làm cha mẹ, ai cũng thừa biết chuyện đó. Nhưng người ta
lại cứ sẵn sàng lao vào cuộc, sinh con, nuôi con, hy sinh cho con… để rồi cuối
cùng lãnh nhận hết mọi khổ đau cho đời mình đến độ có thể hy sinh cả bản thân
vì con… Tình yêu luôn là như thế ! Sự thân mật khiến cho người ta có thể “làm
phiền” nhau, và cũng chính sự thân mật giúp người ta có thể đón nhận sự “phiền
hà” của nhau một cách tự nguyện. Đó là điều mà thế giới ngày nay càng ngày càng
đánh mất.
Amos, ngôn sứ về trách nhiệm xã hội
1. Tiểu sử
Tên Amos, nguyên chữ là Amosyah, nghĩa là Gia vê mang vác.
Tên đó cho thấy một phần nào cuộc đời một vị ngôn sứ dấn thấn mang vác trách
nhiệm với đời. Amó quê ở làng Tequa, nằm ở phía Nam Giêrusalem khoảng 18 cây
số, và ở phía Nam Bethlehem khoảng 8 cây số. Ông làm nghề chăn chiên và châm
sung (Am 7,14). Thế những Amos lại hoạt động ngôn sứ ở phương Bắc.
Người ta ghi nhận trong sách Amos một sự nhậy cảm của những
người chăn đoàn vật ở nơi đồng vắng, luôn lắng nghe và nhận ra được những tiếng
động nguy hiểm cho đoàn vật của mình. Cũng thế, trên hành trình rong ruổi chăn
dắt đoàn vật, ông gặp được nhiều lái buôn và cũng lắng nghe được nhiều tin tức
đáng chú ý, những âm mưu chính trị từ những đế quốc. Từ đó, ông nhận ra được
tiếng nói của Chúa để dấn thân hoạt động. Ý thức về ơn gọi của Amos là một sự
thôi thúc bên trong. Ông nhận ra mình khác với các ngôn sứ chuyên nghiệp
(3,3-8), ông đón nhận ơn gọi như một sự thúc đẩy không sao cưỡng lại được, chứ
không phải là một công việc được phân chia.
Amos là một con người hoạt động, có thể nói ông là người
“chiêm niệm trong hoạt động” và là người dấn thân vào cuộc chứ không phải là
một nhà thần bí.
Trong thời kỳ hoạt động của Amos, Vương quốc phía Bắc nằm
dưới quyền cai trị của Giêrôbôam II (760-750). Đó là một thời kỳ thịnh vượng,
vì nhà vua vừa mới chiến thắng quân Aramei, mở được con đường thông thương ra
biển Đỏ, nên việc buôn bán trở nên thuận tiện, thương mại quốc tế phát triển,
kinh tế phồn thịnh. Chính hoàn cảnh như thế đã tạo nên một nếp sống sa đoạ, đặc
biệt là vấn đề luân lý xã hội. Người ta đua nhau làm giầu, tạo nên bao nhiêu sự
bất công cho những người nghèo; đồng thời cũng học đòi thói ăn chơi trác táng.
Amos là một vị ngôn sứ mạnh mẽ nhất trong việc tố cáo những
tệ nạn xã hội, bằng một ngôn ngữ thô tục, nhưng hết sức mạnh mẽ.
2. “Sứ Điệp” của Amos
Chúng ta chỉ lưu ý đến một vài khía cạnh trong cuộc đời và
sứ điệp của Amos như một bài học về sự dấn thân lãnh nhận trách nhiệm với đời,
với xã hội, đặc biệt là với người nghẻo…
2.1 Người lãnh trách nhiệm với đời
Amos là người phương Nam, sinh sống ở phương Bắc. Ông là
một con người “nhập cư”. Bình thường những người nhập cư là những người thiếu
trách nhiệm xã hội hơn hết. Họ thường không tôn trọng truyền thống văn hóa của
địa phương và có thể làm bất cứ điều gì để kiếm lợi cho mình. Tuy thế, trong
trường hợp Amos, chúng ta lại thấy một sự dấn thân đầy trách nhiệm với vương
quốc. Ông bị các ngôn sứ chính thức chê bai và muốn đuổi ông về phương Nam…
nhưng Amos, bất kể những lời dèm pha ấy, ông xác tín ơn gọi của mình và lao vào
cuộc, mạnh mẽ tố cáo những tệ nạn của xã hội :
“Bấy
giờ ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết Ên, sai người đến gặp Gia-róp-am, vua
Ít-ra-en, và thưa : "A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ
Ít-ra-en, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. 11 Vì A-mốt nói như thế này
: "Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ." 12 Bấy giờ A-mát-gia nói
với ông A-mốt : "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà
kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm ! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri
nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương
triều."(Am 7, 10-13).
2.2 Con người dấn thân vì niềm xác tín ơn gọi
Amos cảm nhận được sự khác biệt giữa ơn gọi và sứ mệnh của
mình khác với những “ngôn sứ chuyên nghiệp”; ông thi hành sứ vụ ngôn sứ không
phải như chọn một nghề, không phải như một chỗ an thân, như một công việc để
kiếm sống, nhưng do một sự xác tín bên trong, một sự thôi thúc của chính Chúa
trong tâm hồn. Chúng ta có thể thấy nơi Amos một thái độ của một con người dấn
thân :
“Hai người có đồng hành được chăng,
nếu đã không hẹn với nhau từ trước ?
Trong rừng, sư tử có gầm lên chăng, nếu nó không có mồi?
Từ trong hang, sư tử tơ có rống lên không,
nếu nó không vồ được mồi ?
Dưới đất, chim sẻ có sa vào bẫy chăng, nếu không có mồi nhử ?
Bẫy có bật lên khỏi mặt đất chăng, nếu nó không bắt được gì ?
Giả như tù và rúc lên trong thành, lẽ nào dân lại không sợ hãi ?
Giả như tai hoạ xảy ra trong thành,
lẽ nào lại không do ĐỨC CHÚA ?
Vì ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng không làm điều gì
mà không bày tỏ kế hoạch của Người
cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết.
Sư tử đã gầm lên : ai mà không sợ hãi ?
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri ? (Am
3,3-8)
2.3 Một con người dấn thân vào một môi trường xa lạ với mình
Chẳng những Amos là người dấn thân vì trách nhiệm với nơi
định cơ của mình, nhưng ông còn là một con người can đảm dấn thân vào một môi
trường xa lạ với mình. Là một con người của đồng quê, ông lao vào nơi đô thị để
tuyên sấm; là một mục đồng, ông thẳng thắn nói những lời sấm sét với những
người có ăn học; là một người nghèo hèn, ông nhẩy xổ vào các nơi sang trọng để
loan báo điều Thiên Chúa sẽ làm. Ta có thể tưởng tượng, hình ảnh Amos, một con
người to lớn, gân guốc sẵn sàng vung gậy lên để đánh đuổi thú dữ, nay nhẩy vào
các phòng tiệc, giơ tay múa chân đe dọa và nói những lời cảnh cáo bằng một ngôn
ngữ “man rợ”…
- Nơi những bàn tiệc xa hoa, ông nói :
“ Hãy
nghe lời này, hỡi các mụ bò cái xứ Ba-san trên vùng núi Sa-ma-ri ! Các ngươi
ngược đãi kẻ yếu hèn, chà đạp người nghèo đói, và bảo các ông chồng của mình :
"Đem rượu lại đây cho ta uống !"Với danh nghĩa là Đấng Thánh, ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng đã thề rằng : Đây sắp đến những ngày người ta kéo các ngươi
đi bằng lao móc và lấy lưỡi câu lôi những kẻ theo sau các ngươi. Qua những lỗ
hổng của tường thành bị phá, các ngươi sẽ phải chui ra, mạnh ai nấy chạy, và sẽ
bị dồn về phía Hác-môn - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.(Am 4,1-3)
- Nơi nhưng đoàn hành hương :
Am 4,4-7 : “ Hỡi con cái Ít-ra-en, cứ đến Bết Ên mà phản bội,
đến Ghin-gan mà phản bội nữa đi ! Sáng sáng hãy tiến dâng hy lễ và cứ ba ngày
lại dâng cúng lễ thập phân. Cứ đốt bánh không men làm lễ tạ ơn, và những lễ
phẩm tự nguyện các ngươi dâng, hãy rêu rao cho người ta biết, bởi các ngươi
thích làm như vậy - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Phần Ta, Ta đã làm
cho các ngươi phải đói nhăn răng ở hết mọi thành phố, thiếu bánh ăn ở mọi nơi
các ngươi cư ngụ; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta - sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA.Ba tháng trước mùa gặt, chính Ta đã ngăn mưa lại không cho đổ xuống
trên các ngươi; Ta cho mưa xuống trên thành này, nhưng không cho mưa xuống trên
thành khác; cánh đồng này được mưa tưới đượm, còn cánh đồng kia phải khô cháy
vì thiếu mưa”
- Ông tuyên bố những án phạt nặng nề, đặc biệt cho vương
quốc phía Bắc :
Am 2,6-8 : “ĐỨC CHÚA phán thế này : Vì tội của Ít-ra-en đã lên
tới cực độ, Ta sẽ không rút lại bản án. Vì chúng bán người công chính để lấy
tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày. Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống
bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ. Vì cả con lẫn cha đi lại với
cùng một ả, mà làm ô nhục danh thánh của Ta. Vì y phục người ta cầm cố, chúng
nằm lên trên, ngay bên mọi bàn thờ, và rượu của người bị nộp phạt, chúng đem
uống tại đền thờ Thiên Chúa của chúng.”
2.4 Một “ngôn sứ xã hội”
Amos được mệnh danh là một “ngôn sứ xã hội”, hay là một
người viết phóng sự xã hội. Ông không ngại đụng chạm vào những thế lực mạnh mẽ
nhất. Không cần được công nhận, chẳng những không cần một sự ủy nhiệm nào của
loài người, những ông còn sẵn sàng tuyên sấm trong một tư thế khó được chấp
nhận nhất theo lẽ thường của cuộc đời. Nơi ông, ta không một lý do nào, dù là
hợp lý theo suy nghĩ, dù là hợp luật theo phong tục, có thể làm ông ngại ngần,
e dè, chùn chân…
- Ông chống lại các thẩm phán và quan lại :
Am 5,7.10-12 : “Khốn cho những
ai biến lẽ phải thành ngải đắng và vứt bỏ công lý xuống đất đen. Chúng ghét
người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi
chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẽo
các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi
đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết : tội ác các
ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời : nào áp bức người công
chính, lại đòi quà hối lộ, nào ức hiếp kẻ nghèo hèn tại cửa công.
- Ông tố cáo những kẻ buôn bán bất chính
Am 8,4-6 : “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và
tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ : "Bao giờ ngày mồng
một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra
? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân
để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy
tên cùng khổ ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán."
- Ông chửi rủa những người làm giầu bằng sự bất công:
Am 6,4-7 : “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường
kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát
nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu,
xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ !
Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày,
dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn !
* Điều tai hại là những người ấy tưởng rằng với những lễ tế
nghi ngút tại đền thờ, họ đã hoàn thành nghĩa vụ tôn giáo, hoặc có thể xoa dịu
cơn giận của Giavê. Tôn giáo trở thành cớ bào chữa cho đời sống luân lý, thành
nơi xuê xoa những bất công của đời sống xã hội. Ông tuyên bố Giavê sẽ không
chấp nhận lễ tế của những người như thế :
Am 5,21-24 “Lễ lạt của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường ;
hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ
toàn thiêu ... những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt
các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của
ngươi Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như
nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn.
3. Trở nên ngôn sứ dấn thân trong cuộc sống hôm nay
3.1 Ra khỏi bản thân
Dấn thân trước hết là “ra khỏi bản thân”. Nơi Amos, chúng ta
có thể thấy một tấm gương của sự “ra khỏi bản thân”; đó là dám ra khỏi ngôi nhà
an toàn của mình, ra khỏi quê hương xứ sở quen thuộc của mình, ra khỏi tất cả
những gì có thể tạo nên một lớp vỏ an thân cho mình.
Ngày xưa, các bạn trẻ, nhất là những người có được cơ may ăn
học một chút, thường nhận ra trách nhiệm của mình đối với làng xóm, với quê
hương đất nước. Những bạn trẻ ngày xưa, lớp 11,12, hoặc là sinh viên, thường mang
những hoài bão, có tâm huyết với đời; biểu hiện ra bằng việc lãnh nhận trách
nhiệm với làng xã, hoặc tổ chức những cuộc biểu tình để đòi quyền lợi cho người
nghèo… Những tinh thần như thế ngày nay không còn nữa. Chúng ta có thể nhận ra
một thái độ rất phổ biến của giới trẻ ngày nay : lo tìm cho mình một chỗ béo
bở, không muốn dính vào những chuyện rắc rối chung quanh nhà, sẵn sàng đánh mất
phẩm cách của mình để đổi được một cơ may thăng tiến… Đó là một vấn đề có tính
toàn cầu chứ không phải chỉ là chuyện ở Việt Nam. Ta có thể nói chuyện với một
thanh niên khoảng chừng 30 phút, là có thể nhận ra được, bình thường, một sự
“buồn nôn” của một kẻ đầy tài năng, đầy điều kiện thuận lợi, những chỉ biết
nghĩ đến những cái gì của mình, cho mình, vì mình. Một thanh niên đầy nhựa sống
mà không có một chút tâm huyết với đời, đó chẳng phải là một điều gì đáng buồn
cho thế giới hôm nay ?
Nhiều bạn trẻ ngày hôm nay an tâm vì một lối sống “lành
mạnh”, không ăn chơi, không tội phạm. Thật ra, điều đó không đủ. Lành mạnh không
phải là một lớp vỏ an toàn nhưng phải là một sức sống; lành mạnh không phải là
vô nhiễm trước những tật xấu, nhưng còn phải là khả năng chống lại tật xấu. Một
xã hội không còn cung cấp đủ lý tưởng cho thanh niên, chắc chắn là một xã hội
đã bắt đầu sa đọa. Cuộc sống không có sức mạnh vượn lên của sự thiện, không có
tình nghĩa quảng đại của tâm hồn, không có niềm xúc động vì những người đau khổ
chung quanh mình… thì không thể lành mạnh được, cho dù chưa có tội phạm hình sự
xẩy ra. Chúng ta có thể nói được rằng sự xuống cấp về đạo đức của giới trẻ
trong xã hội Việt Nam hiện nay, một phần, là do người trẻ hiện nay đã không còn
được cung cấp đủ lý tưởng, đủ tâm huyết, đủ niềm hăng say dấn thân vào trách
nhiệm xã hội chung quanh mình.
3.2 Dấn thân đến cùng
Cũng thế, một xã hội không có đủ tâm huyết như sinh lực
sống, thì chỉ còn là những phong trào, những chiến dịch theo mùa. Người ta cố
công để phát động những chiến dịch; nhưng chúng ta có thể thấy ngay những vận
hành đó không có đủ sinh lực để đi đến cùng. Hành trình cuộc đời con người hiện
nay chỉ còn là những bận tâm né tránh những phiền hà làm cản trở sự thăng tiến
cá nhân, thích ứng để tồn tại một cách thảm hại, chứ không phải là một sức sống
dám dấn thân đến cùng. Có lẽ cũng chính thái độ sống như thế, người ta không
còn đủ năng lực để dán thân đến cùng ngay cả trong gia đình, với người vợ,
người chồng hay đứa con của mình.
Trên hành trình cuộc đời, cuối cùng hết, mỗi người sẽ được
mời gọi và sẽ phải “mang vác”, “cưu mang” một ai đó, ít nhất là đứa con của
mình. Sống với con người là đón nhận một sứ vụ không có giới hạn; là mang vác
một phận người. Không thể “cứu” một con người bằng một chút hoa lá, nhưng luôn
luôn phải bằng máu và nước mắt. Khi không đủ năng lực dấn thân đến cùng, người
ta không thể đi vào một “công trình dài hơi”, đặc biệt là trong “công trình”
cưu mang một phận người.
3.3 Sống là dám liều
Ra khỏi bản thân, tự nó đã là một sự liều lĩnh, nhưng đó là
một “ngõ thoát” duy nhất để hoàn thành cuộc đời người. Nhát đảm, trong ngọn
nguồn, cũng đồng nghĩa với không yêu thương. Tình yêu thương, trong ngọn nguồn,
có nghĩa là di chuyển trọng tâm ra khỏi bản thân, đặt tầm quan trọng của lý do
hiện hữu nơi ai khác. Tình yêu là dám liều từ trong tâm. Khi người ta không sẵn
sàng, nghĩa là người ta còn bận tâm về mình, nghĩa là người ta chưa ra khỏi bản
thân, và đó chính là thái độ nhát đảm sâu xa nhất. Không phải những con người
sợ ma, sợ rắn luôn là những người nhát đảm; nhưng chính kẻ không dám dấn thân
mới là kẻ nhát đảm thực sự trong chính bản thân và trong chính vận mạng cuộc
đời mình.
Giôen, Ngôn sứ về đời sống mới
trong Thánh Thần
1. Tiểu sử
Người ta chỉ biết một điều về tiểu sử vị ngôn sứ này, đó là
ông là con của Petuel, như trong đoạn giới thiệu đầu sách ngôn sứ đã nói. Sứ
điệp của Giôen có những điều ra như trái ngược với giáo huấn của các ngôn sứ
khác, đó ông không tố cáo tội của Dân nữa; và ông đề cao một nền phượng tự, ông
công nhận một hiệu quả hầu như có đặc tính bí tích của các nghi lễ thống hối và
ít nhấn mạnh đến một thứ tôn giáo tại tâm như các ngôn sứ khác.
Đối với Giôen nghi lễ là những biểu hiện có giá trị của lòng
thống hối và những biểu hiện đó là điều cần thiết cho lòng thống hối. Dĩ nhiên
là nghi lễ thống hối không thể thay thế được thực tại sám hối trong tâm hồn,
như chúng ta quá quen thuộc với lời của Gioen được dùng trong mùa Chay :
“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là
Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình
thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ”. (Ge 2, 13).
Lý do có lẽ là vì sứ điệp của Giôen được công bố vào thời kỳ
sau lưu đày, vào khoảng năm 400 tcn, khi đó có trào lưu nhấn mạnh đến phượng
tự. Mặt khác, những đường nét gắn với nghi lễ phượng tự cũng có thể được cắt
nghĩa như là một lối bắt chước phượng tự về mặt văn chương.
Điều chúng ta lưu ý nơi vị ngôn sứ này, đó là một lời tiên
báo về ngày Giavê đổ tràn Thần Khí của Ngài xuống trên mọi xác phàm. Giôen là
ngôn sứ của lễ Hiện Xuống, mặc dầu có lẽ ông cũng chỉ nghĩ đến việc Giavê ban
Thần Khí cho con cái Israel
:
"Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm.
Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.
Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta
trên tôi nam tớ nữ.” (Ge 3,1-2)
Ta biết rằng Thần Khí chính là hồng ân lớn lao và quan trọng
nhất của Thiên Chúa trong Cựu Ứơc, như các ngôn sứ, những nhân vật quan trọng
nhất của lịch sử ơn cứu độ, đã được lãnh nhận. Và hồng ân lớn lao dư dật của
Thiên Chúa, không phải chỉ trên một vài nhân vật, mà là trên mọi người, việc đó
được chính Môsê đã mong ước :
“Nhưng ông Mô-sê trả lời : "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi
ĐỨC CHÚA ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !" Vì
ĐỨC CHÚA đã ban Thần Khí của Người trên họ”. (Ds 11, 29)
Ta hiểu rằng, theo quan niệm của người Do Thái, con người ta
không phải chỉ có thân xác và linh hồn, nhưng còn có thần trí (hay thần khí) :
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn
diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ
vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
quang lâm.” (1 Tx 5, 23)
Thần trí, Ruah hay Pneuma có rất nhiều nghĩa như : gió, hơi
thở, tinh thần, nguyên lý sống,… Thần trí là chẳng những là nguyên lý làm cho
một thân xác được sống; nhưng hơn nữa, thần trí còn là lý do hiện hữu, là tinh
thần, là “đường nét” tinh thần của một con người. Thần trí ở đây hơi giống như
nghĩa chữ “tinh thần” hiểu theo quan niệm ngày nay, hoặc giống một thứ não
trạng chi phối một cách sâu xa cách suy nghĩ của một con người,… Do đó, sự hiểu
biết một con người không phải chỉ là sự suy biết của lý trí, hay của linh hồn;
cũng như sự hiểu biết của người đó đối với ai khác, với những vấn đề nào khác,
một cách sâu xa, là nhờ thần trí, đó là hiểu cái bên trong bằng cái bên trong :
“Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu
không phải là thần trí của con người trong con người ? Cũng thế, không ai biết
được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa”.(1 Cr 2,11).
Với Thần Khí của Chúa chi phối, con người có thể suy nghĩ,
lựa chọn, toan tính mọi sự việc
trong sự hướng dẫn huyền nhiệm
của chính Chúa :
“Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế
gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.” (1 Cr 2,12)
Như thế chính thần trí mới thực sự là yếu tố quan trong
trong hành trinh của một đời người, là sinh lực sống, là hồn sống, là lẽ sống,
là một đường lối suy nghĩ căn bản chứ không phải là trí khôn suy biết, hoặc lý
luận hợp lý như quan niệm của người Hy Lạp.
Để hiểu hơn một chút ý nghĩa của thần trí trong quan niệm
của người Do Thái, chúng ta có thể phân biệt những mức độ của sự hiệp nhất hai
con người với nhau như sau :
= Trong mức độ thân xác, người ta có thể chiếm hữu được
người khác bằng sức mạnh, bắt thân xác người khác phải làm những điều mình
truyền lệnh… những đó chỉ là một sự hiệp nhất cấp thấp.
= Trong mức độ linh hồn, hay lý trí, ta có thể khuất phục
người khác bằng những lý lẽ mạch lạc, hợp lý, thuyết phục mà người khác không
thể nào cãi lại được. Điều này cao hơn mức độ thứ nhất, nhưng dẫu sau vẫn không
phải là một sự hiệp nhất lý tưởng. Người khác có thể chấp nhận lý lẽ của ta,
nhưng lòng vẫn không muốn, tâm vẫn muốn chống đối…
= Trong mức độ thần trì, khi một tinh thần nào đó xâm nhập
vào được người khác, nó không khuất phục nhưng làm cho “hứng” lên nhờ thần trí;
khi đó người khác không bị khuất phục, cho dù là thân xác hay trí khôn, những
là tìm được một sự hứng khởi tự phát, do chính sức mạnh từ bên trong; đồng
thời, sự hiệp nhất này cũng không tạo nên tình trạng đồng nhất… mà là một sự
hiệp nhất trong cùng một hứng khởi, trong cùng một tinh thần, trong cùng một lẽ
sống… Thần trí là nẻo đường mà người ta tương quan với nhau một cách sâu xa
nhất, nhưng cũng là một cách tự do nhất; thấm nhuần nhất nhưng lại có thể thể
hiện trong sự phong phú khác biệt nhất.
Như thế, để con người ta sống theo ý Chúa thì điều quan
trọng nhất là con người nhận được chính Thần Khí của Chúa. Chính vì thế, các
ngôn sứ, một khi nhận được sức mạnh của Thần Khí Chúa, thì vẫn không bị tê liệt
con người của chính mình, nhưng hoạt động với kiến thức và văn hóa, với tính
tình và sở thích của riêng mình, trong sự thấm nhuần tinh thần của Chúa, để bộc
lộ thánh ý của Chúa một cách phong phú và đa dạng, một cách hiệp nhất sâu xa
chứ không phải là hình thức và theo một khuôn khổ nhất định.
Một sự hiệp nhất trong thần khí hay thần trí thì không phải
chỉ là một sự giác ngộ, một cơn xuất thần để hiểu biết, nhưng được bộc lộ rõ
rệt nhất trên hành trình lịch sử, trong việc lựa chọn những thái độ cần thiết
trong những tình huống khác nhau, trong cả những tình thế nan giải hoặc tiến
thoái lưỡng nan, lựa chọn đúng như Chúa muốn. Cách hiểu bằng lý trí luôn rơi
vào những tình huống trái ngược khó có thể hóa giải được : nguyên tắc với thực
hành; hợp lý với hợp tình,… Thực sự, trong hành trình lịch sử, nghĩa là trong
sự phức tạp, huyền nhiệm của cuộc đời mà không một nguyên tắc tổng quát nào của
lý trí có thể đảm nhiệm trọn vẹn, thì chỉ có thần trí, Thần Khí của Chúa, như
là một tinh thần –chứ không phải nguyên tắc- và như chính sự đồng hành liên lụy
của Chúa mới thực sự là nhu cần căn bản nhất của con người. Đó là những đường
nét của tinh thần Sê-mít và cũng là những đường nét Chúa chọn để nhập thể và
thực hiện nhiệm cục cứu độ của Ngài.
Như thế, chúng ta hiểu được ngay chính ơn cứu độ của Chúa
Giêsu cũng cần được hoàn tất trong “triều đại của Thần Khí”. Không có Thần Khí
của Chúa, giáo thuyết và hành động, ơn cứu độ của Chúa Giêsu cũng có nguy cơ
trở thành pháo đài, thành lô cốt ngăn chận dòng lịch sử.
“Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời
Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”.(Ga 6,63)
“Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng,
phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật
chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ
không phải người phàm khen ngợi”.(Rm 2,29)
“Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không
phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì
giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống”.(2 Cr 3,6)
Như thế, chúng ta hiểu được tầm quan trọng của biến cố khai
mạc triều đại của Thần Khí. Sách Tông Đồ Công Vụ sẽ cho chúng ta thấy chính
thức ngày khai mạc của thời đại Thần khí :
“Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng
từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi
họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra
đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu
nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho”.(Cv 2,1-4). . . .
. .
Rồi thánh Phêrô giải thích sự kiện đó :
“…Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: Thiên Chúa
phán : Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người
phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị
kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta
cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ…” (Cv 2, 16-18).
Và chúng ta cũng hiểu được tầm quan trọng của Thần Khí Chúa
trong đời sống đức Tin. Thần Khí mà Chúa ban cho chúng ta không phải là một
điều gì đó thêm vào cho niềm tin, có thì tốt, không có cũng chẳng sao. Thực sự
không có Thần Khí Chúa, mọi giá trị căn bản của Kitô giáo đều có nguy cơ bị
biến chất và không còn thực sự là sự sống Thần Linh của Chúa nữa :
“Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em
trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên
nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : "Áp-ba ! Cha ơi !" (Rm 8,15)
Chúng ta cũng có thể xác định một nét trong hoa trái của
Thần Khí, đó là một sự hiệp nhất trong đa dạng mà Thần Khí Chúa thực hỉện trong
Giáo Hội :
“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có
nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân
thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay
Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí
để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy
nhất”. (1 Cr 12, 12-13).
Quả thật, lời tuyên sấm của Giôen là một lời tuyên sấm hết
sức đặc biệt, lời tuyên sấm xác định việc Thiên Chúa sẽ đáp ứng ước vọng sâu xa
nhất của con người, được kết hợp với Chúa trọn vẹn, ước vọng mà Maisen, vị ngôn
sứ cao cả nhất trong Cựu Ước đã nói lên, và là lời tuyên sấm về ngày khai triều
đại Thiên Chúa thực sự.
2. Ngôn sứ về Thần Khí ngày hôm nay
Các ngôn sứ trong Cựu Ước chỉ lãnh nhận Thần Khí Chúa khi
nào, bao lâu và với mức độ đến đâu là tùy Chúa và ý muốn của Chúa trong từng
trường hợp. Chúng ta thấy nhiều khi các ngôn sứ phải chờ đợi và nài xin mới
nhận được : Samuel không biết được mình sẽ xức dầu cho ai trong các con ông
Gese (1 Sm 16); Nathan phải trừu lại sự đồng ý với David về việc xây đền thờ
cho Chúa (2 Sm 7); Giêrêmia phải cầu nguyện đến 10 ngày đêm mới nhận được mạc
khải của Chúa để tuyên sấm (Gr 42,4-7).
Chỉ có Chúa Giêsu mới lãnh nhận trọn vẹn được Thần Khí của
Thiên Chúa; Thần Khí Chúa hiện diện trong lực Mẹ Maria cưu mang, Thần Khí ngự
xuống và không bao giờ rời xa Người. Do đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu biểu hiện
những nét kỳ diệu của nhân cách Ngài trong mọi nơi mọi lúc, và trong cả những
trường hợp bình thường nhất.
Còn với các Kitô hữu, chúng ta đã nhận được Thần Khí Chúa
trong bí tích Rửa Tội, đặc biệt là trong bí tích Thêm Sức. Thiên Chúa đã hứa
trao ban Thần Khí của Ngài cho một Kitô hữu, và Ngài không bao giờ rút lại lời
hứa đó (không bao giờ được Rửa Tội hay lãnh bí tích Thêm Sức lần thứ hai). Tuy
nhiên, mức độ lãnh nhận được Thần Khí Chúa thì lại tùy vào thái độ của mỗi
người : người ta có dám tin vào quyền năng của Chúa hay không, có dám lăng nghe
và vâng theo sự chỉ dẫn của Thần Khí Chúa hay không, có dám buông bỏ để chừa
“phần” làm việc cho Thần Khí Chúa hay không.
Người Kitô hữu làm ngôn sứ cho đời sống mới trong Thánh Thần
nghĩa là :
- Tin vào Thánh Thần trong Giáo Hội và không bao giờ được
quyền bi quan về tương lai của Giáo Hội, như thể không còn cách nào cứu vãn
được. Không bao giờ được quyền thất vọng, ngay cả trong những hoàn cảnh xem ra
“bế tắc” nhất của thời khắc lịch sử;
- Tin vào hoạt động của Thánh Thần nơi anh chị em của mình. Trong niềm tin
ấy, không bao giờ có con người “bỏ đi” hay “vô phương”, “bó tay”. Điều đó không
chỉ có nghĩa là tình thương của Chúa có khả năng đón nhận hết mọi tội lỗi của
con người, nhưng còn có nghĩa là những con người ấy vẫn có thể được biến đổi
thực sự, không phải nhờ vào con người hay nhờ vào bất cứ điều gì, mà là nhờ vào
quyền năng của Thánh Thần;
- Tin vào chính mình, khi mà đôi khi cả một đời phải trăn
trở với một tật xấu mà không thể khác phục được. Làm ngôn sứ cho đời sống mới
trong Thánh Thần, nghĩa là dám kiên nhẫn với chính mình, kiên nhẫn trước tiên
trong niềm tin, niềm trông cậy và trong một chút nỗ lực của bản thân.
2.1 Tin vào Thánh Thần trong Giáo Hội
Một vấn đề gây nhiều tranh luận. Từ cuối thế kỷ XIX, A.
Harnack đã phân biệt hai loại thừa tác viên trong Giáo Hội sơ khai : những thừa
tác viên theo đoàn sủng[4]và những
thừa tác viện quản trị[5]; và tác
giả đề cao những thừa tác viên theo đoàn sủng. Điều này, được nhiều học giả khai
thác đến độ tách biệt và đối lập giữa "đoàn sủng" và "định
chế" hay "phẩm trật trong Giáo Hội".
Tuy nhiên, sau thời gian quá độ, giờ đây, trên phương diện
lý thuyết, người ta đồng ý được với nhau rằng, tự bản chất, các ân huệ theo
đoàn sủng và ân huệ thuộc phẩm trật cùng là ơn huệ của Thánh Thần. Hai loại ân
huệ ấy không thể mâu thuẫn nhau, nhưng phải bổ túc, hỗ trợ cho nhau. Công Đồng
Vatican II nói :
"Thánh Thần xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội bằng nhiều ơn
huệ khác nhau, theo phẩm trật và đoàn sủng..." {GH.4}.
2.2 Tin vào hoạt động của Thánh Thần trong nếp sống hằng ngày
Hiến chế
Tín Lý về Giáo Hội {số 12} khẳng định ơn đoàn sủng của Thánh Thần nhằm phục vụ
Giáo Hội, đồng thời cũng khẳng định đó là những ơn huệ đặc biệt của Chúa Thánh
Thần, tỏ lộ ra một cách "bình thường" mà nhiều người có thể được đón
nhận để mang lại lợi ích và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội :
"Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và
hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các tác vụ, và trang bị họ bằng các
nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc tín hữu
"phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài" {1 Cr 12, 11}, khiến
người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công
việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển
Giáo Hội, như lời chép rằng "Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu
mang lại lợi ích" {1 Cr 12, 7}. Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ
các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri
ân và yên ủi, vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo
Hội..."
Đây là một
bản "đúc kết" những cuộc tranh luận trong Công Đồng. Chúng ta biết
rằng, trong Công Đồng đã có hai khuynh hướng định nghĩa đoàn sủng. Khuynh hướng
thứ nhất[6] cho rằng
đoàn sủng là một hồng ân đặc biệt, lạ thường, được Thiên Chúa ban một cách khác
thường[7]và cho rằng
đó là cách hiểu truyền thống trong Giáo Hội. Khuynh hướng thứ hai[8] cho rằng
đoàn sủng là ân "thường sủng"[9]được
Thiên Chúa ban để làm phát triển cộng đoàn Giáo Hội. Cuối cùng, lập trường
thứ hai được chấp nhận; và Công Đồng đề cập đến vấn đề này khi bàn về chức
vụ ngôn sứ của Dân Chúa, như chúng ta thấy trong đoạn văn kể trên.
Từ nền tảng
đó, Công Đồng cũng cho thấy đoàn sủng có thể được ban cho nhiều người, trong
một thời gian dài {khác với đặc sủng}, cụ thể trong trường hợp tổ phụ các hội
dòng cùng những người thuộc hội dòng của vị sáng lập ấy.
2.3 Tin vào sự hiệp nhất trong đa dạng của Thần Khí
Thánh Thần
là nguồn mạch của sự phong phú bất tận, những đồng thời cũng là nguyên lý tạo
nên một sự hiệp nhất sâu xa. Đó là sự hiệp nhất trong đa dạng, một tình trang
“hòa nhi bất đồng”. thiết nghĩ rằng một sự lo ngại quá đáng về trật tự, về sự
đồng nhất, về sự giống nhau… cũng là một biểu hiện của một thái độ không dám
tin vào sự hiệp nhất mang tính chất đặc biệt của Thần Khí.
Mi Kha, ngôn sứ của người nghèo
1. Tiểu sử
Mikha sinh tại Moreset (1,14), một miềm đồi núi phía nam
Juđa. Có lẽ vì quê hương bị tàn phá do cuộc xâm lăng của Assyria,
nên ông lên Giêrusalem và hoạt động tại đó. Mikha sống cùng thời với Isaia và
hai vị ngôn sứ có lẽ biết nhau.
Thời đó, đế quốc Assyria hùng mạnh, đã tàn phá Israel
năm 722-721 và công hãm Giêrusalem năm 701.
Sứ điệp của Mikha khá giống với các ngôn sứ khác,
- Thực thi công lý như Amos
- Yêu thích lòng nhân từ như Hôsê;
- Tin tưởng vào Giavê như Isaia.
Mikha trình bày sứ điệp dưới hình thức một cuộc xét xử của
Giavê.
2. Ngôn sứ bênh vực người nghèo
Mikha cũng là một ngôn sứ tố cáo những bất công để bênh vực
người nghèo như Amos. Ông tố cáo những thành phần có chức quyền và có tiền bạc,
họ lợi dụng ưu thế của mình mà làm thiệt hại cho người nghèo :
- Ông tố các các ngôn sứ “công chức” vì sự lạc quan giả tạo
của họ, có tính cách theo thời, và cả những mưu mẹo trục lợi của họ :
Mk 3,5-8 :
“ĐỨC CHÚA phán thế này
về các ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc :
Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô : "Bình
an",
còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng,
thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ.
Vì thế, các ngươi chỉ có đêm mà không có thị kiến,
chỉ có tối tăm mà không bói toán được gì.
Đối với các ngôn sứ, mặt trời sẽ lặn, và ngày sẽ ra tối tăm.
Các nhà chiêm thị sẽ xấu hổ, bọn bói toán sẽ bẽ mặt hổ ngươi,
tất cả bọn chúng phải che môi bịt miệng
vì Thiên Chúa không đáp lời.
Phần tôi, trái lại, nhờ thần khí của ĐỨC CHÚA,
tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường
để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch,
cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó.
- Ông đau đớn tố cáo những gian lận, lừa đảo trong
việc buôn bán
Mk 6,10-12 :
“Hỡi nòi gian ác, làm sao Ta chịu nổi
những của cải chiếm được bằng dối gian,
ê-pha thiếu hụt, xấu xa ghê tởm ?
Ta coi là liêm chính thế nào được
những bàn cân gian trá, những túi đựng các quả cân gian?
Hạng giàu có trong thành thì hung hãn,
còn dân thành lại quen ăn gian nói dối,
miệng hay nói lời lẽ gian tà.
Ồng chúc dữ cho những
người chủ bóc lột tá điền
Mk 2,1-5 :
Khốn thay những kẻ nằm trên giường
toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác !
Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện
vì nắm sẵn quyền bính trong tay.
Muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy,
muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt.
Chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn gia nghiệp.
Vì vậy, ĐỨC CHÚA phán như sau :
Ta toan tính giáng hoạ xuống gia tộc này
khiến các ngươi không rút cổ ra được,
cũng không thể ngẩng đầu bước đi, vì thời đó sẽ là thời tai hoạ.
Ngày ấy, người ta sẽ ngâm thơ chế giễu các ngươi,
sẽ cất lên bài ca than vãn : "Chúng tôi đã bị huỷ diệt hoàn
toàn,
phần đất của dân tôi đã vào tay kẻ khác.
Than ôi, người ta lại tước đoạt của tôi,
và chia đồng ruộng của chúng tôi cho quân phản nghịch!"
Vì vậy, trong đại hội của ĐỨC CHÚA sẽ chẳng ai chăng dây chia
phần cho ngươi.
- Ông tiên báo một cuộc tàn phá dành cho những kẻ bóc lột
những con nợ không có khả năng chi trả :
Mk 2,8-10 :
“Các ngươi đã nổi lên như kẻ thù chống lại dân Ta,
các ngươi giựt áo choàng ra khỏi áo dài
của những kẻ trở về từ mặt trận
đang điềm nhiên đi đường.
Phụ nữ của dân Ta, các ngươi đuổi khỏi mái nhà thân yêu của họ.
Còn con cái họ, các ngươi đã vĩnh viễn lấy đi
niềm vinh dự Ta đã ban cho chúng.
Hãy chỗi dậy lên đường !
Đây không phải là chốn nghỉ ngơi,
vì ngươi ra ô uế, nên sẽ bị tiêu diệt,
một cuộc tiêu diệt vô cùng thảm khốc.
- Ông đe dọa các người lãnh đạo bóc lột người dân
Mk 3,1-12
3,1 Và tôi nói : Vậy hãy nghe đây,hỡi các thủ lãnh
nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, nhiệm vụ của các ông
há chẳng phải là thi hành công lý ?
Thế mà các ông lại ghét điều lành, ưa điều ác,
các ông lột da khỏi thân người ta và lóc thịt khỏi xương của họ.
Chúng ăn thịt dân tôi và lột da khỏi mình họ ;
xương của họ, chúng đập gãy tan.
Chúng chặt ra từng mảnh như thịt trong chảo, trong nồi.
Bấy giờ chúng kêu lên cùng ĐỨC CHÚA,
nhưng Người chẳng đáp lời.
Thời ấy, Người ngoảnh mặt làm ngơ
vì chúng đã làm điều gian ác.
………..)
Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý
và bẻ cong những gì ngay thẳng.
Các ngươi xây Xi-on bằng máu,
dựng Giê-ru-sa-lem bằng bất công.
Các thủ lãnh của nó xét xử dựa theo quà cáp,
các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc.
Chúng ỷ vào ĐỨC CHÚA mà nói :
"ĐỨC CHÚA chẳng ở giữa chúng ta hay sao ?
Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống chúng ta đâu !"
Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi
mà Xi-on sẽ thành ruộng cày,
Giê-ru-sa-lem nên chốn tan hoang,
và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp.
và Mk 7,3 :
“Bàn tay chúng thạo làm điều ác :
thủ lãnh chuyên phiền hà, thẩm phán quen đòi quà hối lộ,
bậc trưởng thượng buông lời độc ác
luân thường đạo lý bị ngửa nghiêng ;
Như thế, ông cũng thực sự là một ngôn sứ bênh vực người
nghèo như Amos.
3. Ngôn sứ của người nghèo
Tuy nhiên, có lẽ Mikha làm sáng lên một điều sâu xa hơn,
theo cảm nhận của tôi, mà ta tạm gọi là “ngôn sứ của người nghèo”. Mikha
còn nói tới thái độ khiêm nhường và trung tín bước đi theo đường lối của Giavê;
đó là một thái độ của người nghèo, những người bé mọn trước nhan của Giavê.
Mikha tuyên sấm về việc Giavê triệu tập số còn sót lại bằng những con chiên
què, những người bị tan tác tha phương và không còn bám víu vào loài người[10].
3.1 Trước tiên, chúng ta thấy Mi-kha tuyên báo số còn sót
lại, tức những người được Giavê yêu
thương và cứu thoát là những người bé mọn nhất, tầm thường nhất trong Dân,
những người đau khổ :
“Ngày ấy - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -
chiên nào què, Ta sẽ quy tụ lại,
chiên nào đi lạc xa hay bị Ta giáng hoạ, Ta sẽ tập
hợp về.
Ta sẽ dùng chiên què làm số sót,
biến chiên đi lạc thành dân tộc hùng cường.
ĐỨC CHÚA sẽ cai trị chúng tại núi Xi-on
từ nay đến muôn đời muôn thuở.
Phần ngươi, hỡi Tháp của Đàn Chiên,
hỡi Đồi của con gái Xi-on,
vương quốc của con gái Giê-ru-sa-lem
và vương quyền thuở trước, sẽ lại trở về với
ngươi.
Tại sao bây giờ ngươi lại kêu la ầm ĩ ?
Nơi ngươi nào chẳng có vua sao ?
Hay cố vấn của ngươi đã bị tiêu diệt
khiến ngươi phải quằn quại đau đớn
như người phụ nữ lúc sinh con ?
Hỡi con gái Xi-on, hãy đớn đau quằn quại,
hãy kêu la như phụ nữ lúc sinh con,
vì giờ đây, ngươi phải đi khỏi thành và ra đồng
ruộng mà ở.
Ngươi phải đi đến tận Ba-by-lon
và tại đó ngươi sẽ được cứu thoát ;
ở đó ĐỨC CHÚA sẽ chuộc ngươi lại từ tay kẻ thù
ngươi. (Mk 4, 6-10).
Đó là lời tuyên sấm của Chúa, lời tuyên sấm mang lại niềm hy
vọng cho những người bé mọn nhất, những người không còn biết bám víu vào đâu để
rồi đặt tất cả cuộc đời mình, tương lai của mình vào tay Thiên Chúa. Đám dân
còn sót lại, theo sự chọn lựa của Chúa, chính là những người nghèo hèn nhất,
những người bị loại ra bên lề của cuộc sống.
“Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc
Ít-ra-en
cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.(…)
Bấy giờ giữa chư dân, số còn sót lại của nhà
Gia-cóp
sẽ như sương ĐỨC CHÚA gửi đến,
như sương móc trên đám cỏ xanh.
Nó không cậy trông ở người thế,
chẳng mong chi nơi con cái loài người.(Mk 5,2.6)
Lời tuyên sấm của Mikha cho thấy nhiệm cục cứu độ của Thiên
Chúa, đường lối của Thiên Chúa khác hẳn cách suy nghĩ bình thường của con
người.
3.2 Dân bé mọn ấy, những con chiên què ấy, sẽ được Chúa
triệu tập lại, cũng nhờ một đấng Mêsia xuẩt hiện ở một nơi nhỏ bé mà người ta
không chờ đợi. Vâng, ngưòi thứ nhất trong sống còn sót lại ấy chính là một vị
vua Messia, sinh ra tại thôn Bethlehem,
một thôn nhỏ nhất trong các thành phố
của Giuđa, thậm chí có nhiều lúc còn không được kể như một đơn vị hành chính.
“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,
ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa,
từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện
một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa
xưa.
Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en
cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.
Người sẽ dựa vào quyền lực ĐỨC CHÚA,
vào uy danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Người
mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc
nghiệp,
vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận
cùng cõi đất.
Chính Người sẽ đem lại hoà bình.
Khi Át-sua xâm nhập xứ sở và giày đạp đất nước
chúng ta, chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám thủ lãnh chống lại chúng.
Họ sẽ dùng gươm mà cai trị đất Át-sua,
lấy giáo mà cai trị xứ Nim-rốt.
Nhưng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi Át-sua
khi nó xâm nhập xứ sở, và giày xéo lãnh thổ chúng
ta”. (Mk 5,1-5)
Ta biết rằng Bethlehem
vẫn được coi là nơi nhỏ bé. Sách Giosuê, khi kể danh sách các thành của Giuđa,
bản văn tiếng Hipri không kể đến Bethlehem, (Gs 15,58); chỉ có bản Hy lạp mới
thêm vào. Thế nhưng, Ngôn sứ cho thấy, dù nhỏ bé như thế, nhưng Bethlehem lại có một nguồn
gốc vững chắc “có từ thuở trước”. Có người cho rằng Mikha có ý nói đến gốc gác
xa xưa của triều đại David… nhưng cùng có người hiểu về nguồn gốc thiên giới của Đấng Messiah. Dầu
sao đi nữa, người ta thấy có thể chấp nhận nghĩa thứ hai, theo nghĩa sung mãn,
để nói về nguồn gốc thiên giới.
Truyền thống Do Thái cũng như Kitô giáo đều đồng thanh giải
thích lời Mikha trực tiếp chỉ Đấng cứu Thế, và chỉ có ý nghĩa ấy thôi :
“Họ trả lời : "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn
sứ, có chép rằng : 'Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là
thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta
sẽ ra đời." (Mt 2,5-6).
3.3 Nhiệm cục cứu độ trong truyền thống Kinh Thánh
Điều Mikha tuyên sấm thực sự là một đường nét quan trọng
trong nhiệm cục Cứu Độ của Thiên Chúa. Đạo Cứu Độ, đạo về một Thiên Chúa là Cha
và mọi người là anh em… được bộc lộ trong chiều hướng logích của tình yêu, đạo
ấy được minh chứng trong chính đường lối
cứu độ luôn dành ưu tiên cho những người nghèo, những người bé mọn. Thiên Chúa
là Cha yêu thương, không tìm danh giá cho mình hay tìm xoa dịu tính tự ái của
mình, nhưng tỏ tình yêu đặc biệt cho những đứa con bé mọn nhất, những người rớt
vào những hoàn cảnh khó khăn nhất, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Dnl 7,7:
ĐỨC CHÚA đã đem lòng
quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh
em là dân nhỏ nhất trong các dân.
Is 29,19
Nhờ ĐỨC CHÚA, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi,
và vì Đức Thánh của Ít-ra-en,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng.
Is 66,2
Tất cả những vật ấy, chính tay Ta đã làm.
Tất cả những vật ấy đều là của Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Kẻ được Ta đoái nhìn : đó là người nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ.
Tv 116,6
Hằng gìn giữ những ai bé mọn,
tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.
3.4 Nơi cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu
Sứ vụ của Đức Giêsu rõ ràng là nhằm tới những người nghèo:
Khởi đầu sứ vụ Chúa đã được đầy Thánh Thần để đi loan báo Tin Mừng cho những
người nghèo {Lc 4,16,21}; đức Giêsu chỉ vui mừng một lần duy nhất khi nhận ra
nhiệm cục cứu độ của Chúa Cha được thể hiện : “Ngay bấy giờ được Thánh Thần tác
động, đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói . . . “ {Lc10, 21}. Kiểu sống của Chúa
Giêsu la lê la với những người nghèo. . .
Ngài luôn bênh vực những người nghèo và xác định phẩm giá của người
nghèo dựa vào lòng tôn trọng của chính tình thương của Chúa. Niềm vui mừng lớn
nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu chính là khám phá ra thánh ý yêu thương đặc biệt
của Chúa Cha dành cho những người bé mọn nhất. Chúng ta tạm kể ra một vài đoạn
trong Kinh Thánh :
Lc 10,21
Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui
mừng và nói : "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Mt 18,10 :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé
mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên
trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Mc 9,42 :
"Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải
sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.
Lc 14,13 :
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt, đui mù.
1 Cr 1, 26-31 :
26 Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa
kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có
mấy người quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên
dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế
gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; 28
những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã
chọn để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ
trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu
trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn
ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã
thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng : Ai tự hào thì hãy
tự hào trong Chúa. 1 Cr 1, 26-31
2. Ngôn sứ của người nghèo trong thời đại hôm nay
2.1 Tôn trọng phẩm giá của người nghèo
Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp, và cũng là của thế giới,
như Platon và Aristote, đã không phân
biệt được phẩm giá và tài năng. Một khi không phân biệt được phẩm giá và tài
năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ khinh thường những người có ít tài năng
trong cuộc đời; hoặc là người ta muốn “cào bằng” tất cả, ăn đồng chia đều trong
tất cả mọi công việc, dù đó là những công việc thực sự không thích hợp. Các
triết gia Hy Lạp thấy rằng các người phụ nữ và người nô lệ có ít trí khôn, nên
đương nhiên cũng phải là những người thấp kém trong đô thị. Ngược lại một số
trào lưu xã hội lại muốn cào bằng bằng cách phân chia tất cả mọi người phải và
được làm những công việc như nhau.
Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của
phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu
cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự
bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa :
Mt 18,10
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật,
Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm
ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Chúa Giêsu
cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con
người không phải là một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là sự sẵn sàng cho
đi ít nhiều những gì thuộc về chính bản thân mình :
Lc 21,3-4 :
“Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này
đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ
tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng
thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
Tình yêu thương bộc lộ trong một sự tôn trọng phẩm giá con
người không đương nhiên đồng nghĩa với làm việc bác ái hay từ thiện. Con người
cần cơm ăn áo mặc, cần nhà cửa và nhiều phương tiện khác,… những trên hết con
người cần được người khác đón nhận như một con người, cần được sống và chết như
một con người, cần được là và được làm người, chứ không phải như một con vật
hay như một món đồ chơi của kẻ khác.
Là ngôn sứ của người nghèo ngày hôm nay, trước tiên chính là
làm sáng lên phẩm giá của một con người; và nhất làm sáng lên phẩm giá của
người nghèo.
2.2 Sức mạnh của lời chứng của người nghèo
*1. Nguyên lý mang lại sức sống cho Giáo Hội
Nếu trở lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận ra một sự khác
biệt giữa các nguyên - lý -sống, xét như động lực làm sinh động sức sống của
Giáo Hội, đó là sự khác biệt giữa : giáo huấn, làm gương, và làm chứng.
Trong ba trăm năm đầu của Giáo Hội, nguyên lý nuôi dưỡng đời
sống đức tin Kitô giáo nằm trong lời chứng của các vị tử đạo, dù là giáo sĩ hay
giáo dân. Thời đó, các vị tử đạo là những người được tôn trọng hơn hết, và lời
chứng của các ngài cũng là nguồn động lực lớn lao nhất cho đời sống đức Tin
Kitô giáo. Qủa thật, so với sức mạnh của quyền lực trần thế, các vị tử đạo là
những con người nhỏ bé, yếu đuối, “trần trụi”, thua cuộc. Nhưng những con người
yếu đuối ấy lại dám đương đầu một cách hiên ngang với một sức mạnh có thể tiêu
diệt bản thân mình. Hành vi chấp nhận hy sinh mạng sống thể hiện được một lòng
can đảm kỳ diệu, và là lời chứng mạnh mẽ nhất về quyền năng của Thiên Chúa. Đó
không phải là sự cam đảm của bản thân các vị tử đạo có khả năng bảo vệ đức Tin;
đó không phải là sự “cao cả” của một nhân đức luân lý (can đảm) có khả năng che
chở cho nguyên lý siêu nhiên (đức Tin); đó cũng không phải là sức mạnh của nhân
đức luân lý có khả năng khơi nguồn cho một mạch sống phong phú như một gương
sáng cho người khác noi theo. Ngược lại, chính nhờ đức Tin, những con người yếu
đuối có thể trở nên can đảm; chính quyền năng của Thiên Chúa đã biến những con
người vốn yếu đuối mỏng giòn trở thành những con người mạnh mẽ phi thường.
“Nhờ đó, Cha kiện toàn sức mạnh nơi những con người mỏng
giòn, và tăng sinh lực cho những người yếu đuối, để họ làm chứng cho Cha” (Kinh
tiền tụng lễ các thánh Tử Đạo)
Như thế, cội nguồn
sức mạnh trong hành vi tử đạo chính là quyền năng đầy tình yêu thương của Thiên
Chúa chứ không phải đức độ của con người; nguồn sức sống lan tràn và làm sinh
động cho sự sống của Giáo Hội chính là Thiên Chúa trong tác động siêu nhiên của
Ngài chứ không phải nhân đức luân lý như một mẫu gương hoặc như một bài học.
Nguyên lý cứu độ Kitô giáo không phải chỉ tác động đến con người như một giáo
huấn tri thức soi sáng trí khôn, không phải chỉ như một gương sáng có khả năng
khơi dậy ý chí; nhưng chính là ân sủng siêu nhiên có khả năng biến đổi toàn
diện con người, mà rốt cùng vẫn quy về nguyên lý của tình yêu. Chính tình yêu
của Thiên Chúa được thể hiện như một sự liên đới, hiệp thông cụ thể của Chúa
Giêsu với vị tử đạo đã làm nên lòng can đảm phi thường của các ngài, và cũng
chính tình yêu ấy trở nên như một nguyên lý sống căn bản cho sự sống kitô giáo
trong lòng Giáo Hội. Điều gì là cứu cánh thì cũng là nguyên lý và điều gì là
nguyên lý thì cũng là cứu cánh. Nếu cứu cánh của cuộc đời các vị tử đạo là được
sống bên Chúa, thì nguyên lý làm cho các ngài trở thành chứng nhân của Chúa
cũng chỉ có thể là tình yêu thương của Chúa. Điều đó cũng đúng cho tất cả bước
hành trình của Giáo Hội.
2. Những chuyển biến
Khi Giáo Hội thoát khỏi được thời kỳ bị bắt hại, thì nguyên
lý mang lại sức sống trong đời sống Giáo Hội cũng đổi khác. Các giáo sĩ khẳng
định quyền và uy thế của mình trong Giáo Hội; quyền và uy thế đó bộc lộ, dĩ
nhiên trong việc quản trị, những sâu xa hơn trong chức năng giáo huấn. Giáo
huấn luôn là một trong những yếu tố quan trọng của đời sống đức Tin Kitô giáo,
những không phải là nguyên lý sống căn bản; vì Kitô giáo không phải là một học
thuyết, những là một sự sống. Nếu lấy nguyên lý giáo huấn là nguyên lý chính yếu,
chúng ta rơi vào não trạng của người Hy Lạp. Đối với người Hy Lạp, thần thánh
không thể là những ý muốn “trái chứng trở trời”, nhưng phải là những gì biểu lộ
một trật tự. Dần dần thần thánh được đồng hóa với quy luật, và nhiệm vụ chính
yếu của con người không phải là tương giao theo phương thức thờ phượng, nhưng
là hiểu biết. Do đó, chính các triết gia mới là nhân vật quan trọng nhất trong
xã hội của người Hy Lạp. Hiểu biết là yếu tố quan trọng nhất trong việc hoán
cải một con người; và Socrate đã có thể phát biểu rằng : không ai là người gian
ác cố tình. Người ta gian ác chỉ vì không hiểu biết; và nhiệm vụ chính yếu của
các triết gia Hy Lạp là giúp con người tìm được sự hiểu biết quy luật, tức hiểu
biết thần thánh, để có thể sống theo thần thánh.
Trong truyền thống Do Thái Kitô giáo, tội lỗi không phải chỉ
là một sự thiếu hiểu biết, mà là sự cắt đứt một tương quan. Từ đó, tội lỗi làm
xáo trộn con người, và con người chỉ có thể tìm lại được “trật tự” trong bản
thân mình khi nối lại được mối tương quan căn bản nhất, tương quan thân tình
với Chúa. Thánh Phaolô nói rằng : “Thật
vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu : vì điều tôi muốn (nghĩa là tôi biết
điều đó là tốt), thì tôi không làm, nhưng
điều tôi ghét (nghĩa là tôi biết điều đó là xấu), thì tôi lại cứ làm”. (Rm 7,15).
Nếu nhìn vào đời sống của Giáo Hội, chúng ta thấy vẫn có
những cảm nghĩ theo kiểu người cha mắng đứa con : “tao đã giải nghĩa cho mày
mọi nguy cơ của ma túy rồi, tại sao mày lại cứ hút hít”, thì chúng ta có thể
hiểu được đời sống Kitô giáo đã không còn bắt mạch vào đúng nguồn của sức sống
Kitô giáo.
Đồng thời, cũng vào lúc Giáo Hội không còn những chứng tá
của các vị tử đạo nữa, thì vào thế kỷ thứ IV, xuất hiện các tu sĩ. Tu sĩ là
những người có một đời sống, nói chung, có thể trở nên gương mẫu cho các thành
phần khác trong Giáo Hội. Quả thật, qua dòng lịch sử Giáo Hội, sự hiện dịen và
đời sống người tu sĩ là một đóng góp quan trọng cho sức sống của Giáo Hội. Tuy
nhiên, một cách chung chung, đời sống tu sĩ được thể hiện như gương mẫu cao cả
cho người tín hữu. Gương sáng luôn là điều cần thiết, nhưng vẫn không phải là
nguyên lý căn bản của sức sống Kitô giáo. Nếp sống nhà tu thường khác biệt hẳn
với nếp sống chung của người tín hữu, nên dễ tạo nên tình trạng “kính nhi viễn
chi”. Đó là tình trạng người tín hữu thật lòng kính phục đời sống tu sĩ thánh
thiện, những không cảm nhận được gia tăng thêm lòng trông cậy. Gương sáng soi
chiếu giống như ngọn đèn chiếu thẳng vào mắt và người đi đường bị chói mắt chứ
không thấy rõ hơn bước đường của chính mình; trong khi làm chứng lại giống như
một ngọn đèn chiếu đằng sau để cho những người đang mê lầm tìm được đường đi
trong thế giới mịt mù. Người ta kính phục đời sống của người đi tu chứ không dễ
nhận ra dấu vết tình thương của Thiên Chúa. Nếu sự hiện diện, hoặc đức độ của
người tu sĩ, chỉ lôi kéo được những người tín hữu “khá đạo đức” hoặc qui tụ
được một số thành phần ưu tuyển, thì ta có thể đoán được tác động của người tu
sĩ mới chỉ nằm trong mức độ làm gương.
3. Đâu là nguyên lý sống của Giáo Hội hiện nay ?
Hình như từ sau thời kỳ bị bắt hại, sức sống của Giáo Hội
không còn mạnh mẽ nữa, vì không còn tác động của “làm chứng”. “Giáo huấn” và
“làm gương” tỏ bày tài năng của nhân đức của con người. Giáo huấn và làm gương
làm cho người ta thấy rõ được nhân vật này, đấng bậc kia. Trong khi đó, “làm
chứng” lại có khả năng làm sáng lên chính quyền năng và tình yêu thương của
Chúa. Người Kitô hữu làm chứng về ơn cứu độ của Thiên Chúa, hoặc trở nên như
“ánh sáng trần gian”, như “men”, như “muối” phải thực sự làm sáng lên tác động
cứu độ của Thiên Chúa chứ không phải đức độ của người này người kia. Một cách
nào đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ có thể sáng lên như ánh sáng nơi tối tăm,
nghĩa là trong sự yếu đuối và tầm thường của người làm chứng. Chính nhờ đó, tác
dụng của “làm chứng” có thể giúp cho người khác, đặc biệt là những người sống
trong “bóng tối” được thêm niềm trông cậy và xác tín vào quyền năng của Chúa.
Có lẽ chúng ta nên đọc lại bản văn của thánh Phaolô trong thư thứ hai Corintho
:
“Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường
tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của
Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin
Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi : "Ơn của
Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để
sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình
yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi
yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2 Cr 12, 7-10)
* Trở về với truyền thống : ơn cứu độ cho người nghèo.
Sức mạnh của “làm chứng” có thể tìm thấy ở đâu trong Giáo Hội hiện nay ? Tôi nghĩ rằng ta có thể
tìm thấy nơi chính người nghèo, những người nghèo cả về thể chất và tinh thần,
cả trong năng lực và đức độ, những người nghèo được cứu độ. Thật sự ra, “giáo
huấn” và “gương sáng”, trong nền tảng của Kitô giáo, ưu tiên hơn hết, cũng phải
là “lời chứng” một cách nào đó. Giáo huấn thể hiện chức năng “lời chúng” khi
chính giáo huấn ấy được trải ra một quá trình được Lời Chúa cật vấn, khi giáo
huấn bộc lộ một sự đảo ngược lối nhìn, khi người rao giảng nghiệm ra được một
lần “à ra thế !” đối với đường lối của chính Thiên Chúa. Chính trong ý nghĩa đó
mà thánh Thomas nói được rằng : tôi học được dưới chân Thánh Giá nhiều hơn
trong sách vở. Cũng thế, gương sáng thể hiện chức nang “lời chứng” khi đời sống
luân lý ấy thực sự là một sự chiến thắng của quyền năng cứu độ trên bản tính
yếu đuối mỏng giòn của con người. Tóm lại, giáo huấn và gương sáng chỉ có thể
làm lời chứng trong và qua cái “nghèo”, cái “bé mọn” của chính mình.
Tuy nhiên, trong dòng lịch sử Giáo Hội, ở một tầm mức toàn
diện hơn, chính những người “nghèo”, người tội lỗi sám hối… mới thực sự là
những người có khả năng làm sống lại một niềm tin vào quyền năng Chúa và tạo
nên động lực sống cho Giáo Hội. Ta có thể khẳng định đó là “quy luật” Kitô
giáo, hiện nay và mãi mãi, vì đó chính là đường nét căn bản của lịch sử ơn cứu
độ.
Trong hiện tình Giáo Hội, người nghèo chưa có “chỗ đứng”
trong Giáo Hội. Giáo Hội vẫn bộc lộ trong rất nhiểu đường nét, từ tư tưởng cho
đến quản trị, từ tu đức cho đến mục vụ… là giáo hội của những con chiên ngoan,
hoặc giáo hội của những người có khả năng hiểu biết một cách nào đó. Sinh hoạt
của Giáo Hội, bộc lộ sức sống của Giáo Hội, nói chung, vẫn có tính cách “từ
trên xuống” và rất ít những mối tương tác của sự sống đức Tin trong sự hiệp
thông “chiều ngang”, hoặc “từ dưới lên “. Người nghèo, người bé mọn trong Giáo
Hội vẫn là những người lãnh nhận chứ không phải là người được “đóng góp” sự
hiện diện của mình như một nét đặc trưng của Giáo Hội Chúa Kitô, và đóng góp
chứng tá của mình như một căn tính đặc trưng của lịch sử ơn Cứu Độ Kitô giáo.
Kết :
Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp
như Platon và Aristote, đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng nơi con
người. Tất cả phẩm chất cao quí nhất của con người bị giản lược vào lý trí; và
năng lực của lý trí là nguyên tắc phân biệt sự cao quí của con người. Một khi
không phân biệt được phẩm giá và tài năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ
khinh thường những người có ít tài năng trong cuộc đời; hoặc là người ta muốn
“cào bằng” tất cả, “ăn đồng chia đều” trong mô hình tổ chức của xã hội.
Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới
thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm
giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và
khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa :
"Anh em hãy coi
chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh
em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10)
Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm
giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là
một so sánh sự hơn thua từ sự thành công bên ngoài, nhưng là sự sẵn sàng cho đi
ít nhiều những gì thuộc về chính bản thân mình :
“Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này
đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ
tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng
thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc
21,3-4)
Tình yêu thương bộc lộ trong một
sự tôn trọng phẩm giá con người không đương nhiên đồng nghĩa với làm việc bác
ái hay từ thiện. Con người cần cơm ăn áo mặc, cần nhà cửa và nhiều phương tiện
khác,… những trên hết con người cần được người khác đón nhận như một con người,
cần được sống và chết như một con người, cần được là và được làm người, chứ
không phải như một con vật hay như một món đồ chơi của kẻ khác.
Và cuối cùng, cũng chính Thiên
Chúa mới thể hiện được một sự tôn trọng “phẩm giá siêu nhiên” của con người,
khi mời gọi tất cả mọi người, cả những người nghèo hèn tầm thường nhất, được
đón nhận được trọn vẹn ơn cứu độ, khi Ngài thực hiện một mầu nhiệm cứu độ đảo
ngược so với kiểu suy nghĩ sáo mòn của con người :
"Đức Giê-su nói với họ : "Tôi bảo thật các ông : những người
thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.(Mt 21,31)
* Linh Đạo của người nghèo
- Tám Mối phúc
- Sống bằng bản thân : giao ước bản
thân
- Buông bỏ để đón nhận Thần Khí của
Chúa
-
Nếu trở lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận ra một sự khác biệt giữa các động lực làm sinh động Giáo Hội, sự khác biệt giữa : giáo huấn, làm gương, và làm chứng.
Ba trăm năm đầu, sức mạnh của đời sống đức tin Kitô giáo nằm
trong lời chứng của các vị tử đạo, không kể giáo sĩ hay giáo dân. Hết thời kỳ
bắt đạo, các giáo sĩ khẳng định quyền và uy thế của mình trong Giáo Hội, quyền
và uy thế đó bộc lộ, dĩ nhiên trong việc quản trị, những sâu xa hơn trong chức
năng giáo huấn. Đồng thời, vào thế kỷ thứ IV đó, xuất hiện các tu sĩ, những
người có một đời sống, nói chung, có thể trở nên gương mẫu cho các thành phần
khác trong Giáo Hội.
Lời giáo
huấn luôn luôn là cần thiết, nhưng thực sự những “ý tưởng” không phải là động
lực căn bản, không dễ gì tạo nên năng lực sống cho Giáo Hội. Cũng thế, tấm
gương của các tu sĩ luôn cần thiết, nhưng lại cũng dễ tạo nên tình trạng “kính
nhi viễn chi”. Hình như từ sau thời kỳ bắt hại, sức sống của Giáo Hội không còn
mạnh mẽ nữa, vì không còn tác động của làm chứng. Trong khi giáo huấn và làm
gương rất dễ tỏ bày tài năng của nhân đức của con người, thì làm chứng lại có
khả năng làm sáng lên chính quyền năng và tình yêu thương của Chúa; làm chứng
giúp cho người khác thêm niềm trông cậy và xác tín vào quyền năng của Chúa.
Sức mạnh
của làm chứng có thể tìm thấy ở đâu trong
Giáo Hội hiên nay ? Tôi nghĩ rằng ta có thể tìm thấy nơi chính người
nghèo, những người nghèo được cứu độ, những người nghèo cả về thể chất và tinh
thần, cả trong năng lực và đức độ. Thật sự ra, giáo huấn và gương sáng, trong
nền tảng của Kitô giáo, ưu tiên hơn hết, cũng phải là lời chứng một cách nào
đó. Chính những người nghèo mới thực sự là những người có khả năng làm sống lại
một niềm tin vào quyền năng Chúa và tạo nên động lực sống cho Giáo Hội, hiện
nay và mãi mãi, vì đó chính là đường nét của lịch sử ơn cứu độ.
Làm ngôn sứ của người nghèo, ngôn sứ về phẩm giá người
nghèo, cũng phải là ngôn sứ về quyền năng cứu độ của Thiên Chúa nơi người
nghèo.
Isaia, Ngôn sứ về tình yêu hy sinh
1. Tiểu sử
Tên Isaia có nghĩa là “Giavê cứu độ”. Ông thuộc gia đình
quyền qúy, và có lẽ thuộc dòng dõi hoàng gia. Isaia có một trí khôn sắc sảo,
một kiến thức uyên bác, có khả năng thấu triệt những vấn đề của thời đại. Ông
là một thi sĩ thiên tài, có khả năng “xuất khẩu thành thi”. Ông cũng là con
người có ý chí mạnh mẽ, một con người quả cảm, sẵn sàng lãnh nhận trách nhiệm.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết, Isaia là một con người sùng đạo, hết lòng
tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông được mệnh danh là “ngôn sứ về sự thánh thiện và
uy quyền của Giavê”.
Isaia phê phán các tệ trạng xã hội : thờ quấy, bất công xã
hội, sự đỏm dáng của các quí bà ở Giêrusalem… trong thời Ozia. Sau đó, vào thời
Achez và Edêkias, ông chủ trương một thứ “chính trị đức tin”, nghĩa là hoàn
toàn tín nhiệm vào Chúa, không tìm nương tựa nơi những thế lực ngoại bang.
Chúng ta chỉ lưu ý đến vài ý tưởng trong những bài ca về
“Người Tôi Trung của Giavê”, trong phần người ta quen gọi là Isaia II.
2. Các bài thơ về Người Tôi Trung
2.1 Bài thơ 1 : Is 42, 1-9
Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ của Ngài qua sự
trung gian của một Người Tôi Trung. Người Tôi Trung phải đương đầu với một thế
giới thù nghịch. Ông thực hiện điều Thiên Chúa muốn bằng một phong cách riêng:
âm thầm chứ không rầm rộ, không hô hoán dân chúng, không la lối trên công
trường; Người Tôi Trung cũng không chiến đấu với sự ác như một vị tướng oai
phong, nhưng như một kẻ ngã quỵ trước cường bạo. Ông phụng sự công lý với lòng
nhẫn nại, nhân từ và cứu chữa những người hèn mọn nhất trong Dân…
Phương thức đấu tranh cho công lý của Người Tôi Trung thể
hiện chính đường lối của Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Ngài cũng hành động âm
thầm và kiên nhẫn đón nhận sự phản bội của Dân…
Is 42,1-9
42,1Đây là người tôi trung Ta
nâng đỡ,
là người
Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng,
Ta cho
thần khí Ta ngự trên nó ;
nó sẽ làm
sáng tỏ công lý trước muôn dân.
2 Nó sẽ
không kêu to, không nói lớn,
không để ai nghe tiếng
giữa phố phường.
3 Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ gẫy,
tim đèn leo lét, cũng
chẳng nỡ tắt đi.
Nó sẽ
trung thành làm sáng tỏ công lý.
4 Nó không
yếu hèn, không chịu phục,
cho đến
khi thiết lập công lý trên địa cầu.
Dân các
hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.
5 Đây là
lời Thiên Chúa, lời ĐỨC CHÚA,
Đấng sáng
tạo và căng vòm trời,
Đấng trải
rộng mặt đất với hoa màu tràn lan,
Đấng ban
hơi thở cho dân trên mặt đất,
ban sinh
khí cho toàn thể cư dân.
6 Người
phán thế này : "Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn
làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
Ta đã nắm
tay ngươi,
đã gìn giữ
ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh
sáng chiếu soi muôn nước,
7 để mở
mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những
người bị giam giữ,
dẫn ra
khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."
8 Ta là
ĐỨC CHÚA, đó là danh Ta.
Vinh quang
của Ta, Ta không nhường cho ai khác ;
lời tán
tụng dành cho Ta, Ta không để các tượng thần tước đoạt.
9 Chuyện
cũ đã qua rồi, nay Ta loan báo những điều mới,
và trước
khi những điều này xảy ra,
Ta đã cho
các ngươi nghe biết.
2.2 Bài thơ 2 : Is 49,1-6
Người Tôi Trung được Thiên Chúa kêu gọi từ trong lòng mẹ.
Thiên Chúa thánh hiến ông để dùng ông như một khí cụ chọn lọc…
Is 49,1-6
49,1 Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây,
hỡi các
dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý :
ĐỨC CHÚA
đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi
chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.
2 Người đã
làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén,
giấu tôi
dưới bàn tay của Người.
Người đã
biến tôi thành mũi tên nhọn,
cất tôi
trong ống tên của Người.
3 Người đã
phán cùng tôi : "Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng
ngươi để biểu lộ vinh quang."
4 Phần
tôi, tôi đã nói :
"Tôi
vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì."
Nhưng sự
thật, đã có ĐỨC CHÚA minh xét cho tôi,
Người dành
sẵn cho tôi phần thưởng.
5 Giờ đây
ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
Người là
Đấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi
còn trong lòng mẹ
để tôi trở
thành người tôi trung,
đem nhà
Gia-cóp về cho Người
và quy tụ
dân Ít-ra-en chung quanh Người.
Thế nên
tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
và Thiên
Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.
6 Người
phán : "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập
các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa
các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy,
này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi
đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất."
2.3 Bài thơ 3 : Is 50, 4-11
Người Tôi Trung đón nhận một thân phận bi đát, ông giơ lưng
cho kẻ đánh đập, không giấu mặt để khỏi bị lăng nhục…
Is 50,4-11
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng
đã cho tôi
nói năng như một người môn đệ,
để tôi
biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng
Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi
lắng tai nghe như một người môn đệ.
5 ĐỨC CHÚA
là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi,
tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã
đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho
người ta giật râu.
Tôi đã
không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
7 Có ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế,
tôi đã không hổ thẹn,
vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết
mình sẽ không phải thẹn thùng.
8 Đấng
tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh
tụng với tôi ? Cùng nhau ta hầu toà !
Ai muốn
kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi !
9 Này, có
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám
kết tội ?
Này, tất
cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
10 Ai
trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
nghe theo
tiếng tôi tớ của Người,
ai đi
trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin
tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
và tìm
nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
11 Phần tất cả các ngươi, những ai đã phóng hoả,
dùng mũi
tên lửa làm vũ khí, hãy đâm đầu vào đống lửa
chính các
ngươi đã đốt lên, vào làn tên các ngươi đã châm lửa.
Những gì
các ngươi đang phải chịu đều là do chính tay Ta :
các ngươi
sẽ nằm xuống trong đớn đau cùng cực.
2.4 Bài thơ 4 : Is 52, 13 – 53,12
Tấn bi kịch của Người
Tôi Trung đi đến giai đoạn cao điểm, đó là Người Tôi Trung phải đón nhận một bi
kịch đẫm máu cho cuộc đời mình. Người Tôi Trung không còn dáng vẻ gì của con
người nữa, ông phó mặc bản thân mình cho sức mạnh thù nghịch. Sự ác được tự do
tung hoành, sự ác không còn chút e ngại, không còn bị một sự chống đối nào; sự
ác mặc sức bộc lộ hết sức mạnh hủy diệt trên bản thân Người Tôi Trung. . .
Is 52,13-53,12
Này đây,
người tôi trung của Ta sẽ thành đạt,
sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột
cùng.
14 Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung
của Ta
mặt mày
tan nát chẳng ra người,
không còn
dáng vẻ người ta nữa,
15 cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ,
vua chúa
phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại,
được hiểu
điều chưa nghe nói bao giờ.
53,1 Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được ?
Cánh tay
uy quyền của ĐỨC CHÚA đã được tỏ cho ai ?
2 Người
tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh,
như khúc
rễ trên đất khô cằn.
Người
chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong
đáng chúng
ta ngắm nhìn,
dung mạo
chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
3 Người bị
đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau
khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như
kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
bị chúng
ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
4 Sự thật,
chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh
chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng
ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên
Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
5 Chính
người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền
nát vì chúng ta lỗi lầm ;
người đã
chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải
mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.
6 Tất cả
chúng ta lạc lõng như chiên cừu,
lang thang
mỗi người một ngả.
Nhưng ĐỨC
CHÚA đã đổ trên đầu người
tội lỗi
của tất cả chúng ta.
7 Bị ngược
đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca ;
như chiên
bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
người
chẳng hề mở miệng.
8 Người đã
bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
Dòng dõi
của người, ai nào nghĩ tới ?
Người đã
bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
vì tội lỗi
của dân, người bị đánh phạt.
9 Người đã
bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
bị mai
táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo
và miệng
không hề nói chuyện điêu ngoa.
10 ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền nát vì
đau khổ.
Nếu người
hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ
được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ
người, ý muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu.
11 Nhờ nỗi thống khổ của mình,
người sẽ
nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.
Vì đã nếm
mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta,
sẽ làm cho
muôn người nên công chính
và sẽ gánh
lấy tội lỗi của họ.
12 Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia
sản,
và cùng
với những bậc anh hùng hào kiệt,
nó sẽ được
chia chiến lợi phẩm,
bởi vì nó
đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân ;
nhưng thực
ra, nó đã mang lấy tội muôn người
và can
thiệp cho những kẻ tội lỗi.
Hình dạng Người Tôi Trung không còn duyên dáng, không còn
đẹp đẽ, ông như một rễ cây trong đất khô cằn, ông bị chà đạp dưới chân; ông bị
khinh bỉ; trở nên phế vật của nhân loại… đến độ người ta thấy như vậy và nghĩ
rằng ông bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng người ta không biết rằng Người Tôi
Trung mang lấy sự đau khổ của mọi người, ông gánh chịu hình phạt xứng với tội
lỗi của mọi người… và cực hình của ông mang lại sự bình an cho chính họ.
Như thế cuộc thụ nạn của ông, trong chiều sâu lại chính
là bằng chính tình thân mật của ông đối
với Thiên Chúa. Ông hiến mạng sống mình để thực hiện ý Thiên Chúa và ông sẽ
được vinh hiển mai sau; linh hồn ông được nhìn thấy vinh quang; ông sẽ có được
một giòng dõi đông đảo và ngày của ông sẽ vô tận…
3. Huyền nhiệm Người Tôi Trung
3.1 Vừa là Israen vừa là một “Cá Nhân” nào đó
Những hình ảnh của Người Tôi Trung luôn bao hàm một huyền
nhiệm nào đó khó có thể múc cạn được; có lúc Người Tôi Trung được tỏ rõ là
chính Israen; nhưng nhiều chỗ lại cho thấy đây là một cá nhân đặc biệt, vượt
trổi hơn tập thể dân Israel, có nhiệm vụ mang lại ơn cứu độ cho Dân cũng như
cho toàn thể nhân loại :
49,5 Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
Người là
Đấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi
còn trong lòng mẹ
để tôi trở
thành người tôi trung,
đem nhà
Gia-cóp về cho Người
và quy tụ
dân Ít-ra-en chung quanh Người.
Thế nên
tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
và Thiên
Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.
6 Người
phán : "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập
các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa
các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy,
này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi
đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is
49,5-6)
3.2 Người Tôi Trung vừa diễn tả tình trạng của ngôn sứ vừa vượt quá mọi ngôn sứ trong lịch sử
Hình như những bài ca này được khởi hứng từ vận mạng cụ thể
của những ngôn sứ, những người đã lãnh chịu những nỗi đau vì loan báo kế hoạch
của Giavê, hoặc nói chung là một suy nghĩ về những đau khổ mà người lành phải
hứng chịu. Isaia nhìn đến những tấm gương của các ngôn sứ và nhận ra ý nghĩa
của những khổ đau. Khổ đau của ngôn sứ không mất đi, không rơi vào hư không,
không phải là một thất bại chung cuộc; khổ đau mang một ý nghĩa sâu xa hơn, nó
có chỗ đứng đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, nơi các bài
ca về Người Tôi Trung, có lẽ Isaia nhận ra một sứ điệp không phải ở những lời
tuyên cáo của các ngôn sứ, mà còn nơi chính là cuộc đời của các ông. Trong mầu
nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện, một nhiệm cục gắn liền với ô nhục,
đau đớn, oan uổng, Isaia nhận ra việc giao hòa của Thiên Chúa đối với Israel
không phải chỉ được loan báo, nhưng cần được thể hiện một cách cụ thể, và thể
hiện một cách kỳ diệu bằng một tình yêu hy sinh. Có vẻ như nhiệm cục cứu độ
diễn tiến đến một giai đoạn, khi mà những người trung gian như vua, tư tế đã
không hoàn thành được sứ mệnh, thì chính các ngôn sứ, dù tự nguyện hay miễn
cưỡng, phải lãnh trách nhiệm thiêng liêng về anh chị em mình, như Môisen đã làm
ngày xưa. Ngôn sứ muốn nối kết lại tình thân của Dân với Thiên Chúa thì cũng
phải gánh chịu trên mình tội lỗi của họ. Người ta có thể thấy thấp thoáng những
yếu tố đó trong một số nơi khác, chẳng hạn :
* Ngôn sứ lãnh nhận tội lỗi thay cho Dân
Ed 4,4-8 :
“Phần
ngươi, hãy nằm nghiêng bên trái và mang lấy tội lỗi nhà Ít-ra-en. Ngươi nằm như
vậy bao nhiêu ngày thì ngươi cũng gánh tội chúng bấy nhiêu ngày. 5 Còn Ta, Ta sẽ tính cho
ngươi số năm tội lỗi của chúng theo số ngày : ba trăm chín mươi ngày ngươi phải
gánh tội nhà Ít-ra-en. 6 Sau khi giữ đủ số ngày ấy, ngươi lại nằm
nghiêng bên phải mà gánh lấy tội lỗi nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta tính
cho ngươi mỗi ngày là một năm. 7 Rồi ngươi hướng mặt và đưa cánh tay trần về
phía Giê-ru-sa-lem đang bị vây hãm mà tuyên sấm để lên án nó. 8 Này Ta sẽ lấy dây thừng
trói ngươi lại, khiến ngươi không trở mình bên này bên kia được, cho đến khi
ngươi giữ đủ số ngày ngươi nằm bất động”.
* Ngôn sứ bầu cử cho Dân trước mặt Thiên Chúa
Gr 14,19-22 :
Lạy Chúa,
phải chăng Ngài đã quyết từ bỏ Giu-đa ?
Phải chăng
Xi-on khiến lòng Ngài ghê tởm ?
Vậy cớ sao
Ngài đánh phạt chúng con
đến vô
phương chữa chạy ?
Chúng con
đợi hoà bình nhưng chẳng được may lành chi hết !
Mong đến
thời bình phục,
mà chỉ
thấy rùng rợn khiếp kinh !
20 Lạy CHÚA, chúng con nhận rằng mình gian ác
và cha ông
sai lỗi đã nhiều.
Quả chúng
con đều đắc tội với Chúa !
21 Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê bỏ chúng con,
đừng rẻ
rúng toà vinh hiển của Ngài.
Dám xin
Ngài nhớ lại, đừng huỷ bỏ giao ước
giữa Ngài
với chúng con.
22 Trong số chư thần của các dân tộc,
có thần
nào làm được mưa chăng ?
Có phải
trời đổ được mưa rào,
hay chính
Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng con ?
Chúng con
trông cậy nơi Ngài,
vì chính
Ngài đã làm ra tất cả những điều đó !
* Ngôn sứ nhận ra Thiên Chúa đòi máu kẻ có tội nơi tay của
mình
Ed 33,8 : ““33,8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng : "Hỡi
tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết", mà ngươi không chịu nói để cảnh
cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của
nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.” (Xc. Ed 3,20…)
Cũng thế, trong lịch sử ơn Cứu độ, người ta thấy có một số
yếu tố tiên báo một nhiệm cục cứu độ mang tính cách gánh tội thay như thế,
chẳng hạn hình ảnh con chiên bị dẫn đến lò sát sinh trong ngày Xá tội… mà từ
đó, ta có thể thấy nhiệm cục cứu độ có tính chất của một cuộc “tử đạo”. Thật
ra, không bao giờ một ai đó đã là “người của Thiên Chúa”, hay là ngôn sứ mà lại
không phải chịu một sự mất mát một phần lợi lộc hay một phần tình yêu nào đó :
Abraham đồng ý sát tế con ruột của mình, Môsê chịu chết trên thềm đất hứa để
đền tội thay cho Dân; còn Hôsê thì đón nhận cuộc tình duyên cay đắng của mình,
đón nhận người vợ ngoại tình nhiều lần, đón nhận nỗi tủi nhục lớn nhất của một
người Israel, đó là đón nhận những đứa con không phải do máu huyết của chính
mình… Đau khổ không phải là chuyện bất thường, nhưng là điều kiện để thực hiện
sứ mệnh.
Tuy nhiên, những bài ca này không chỉ dừng lại ở sự đau khổ
của người lành hay của các ngôn sứ. Thật thế, người ta nhận thấy không một ngôn
sứ nào có thể thực sự đáp ứng được trọn vẹn những điều đã tiên báo về Người Tôi
Trung. Sự khổ đau của các ngôn sứ, dù có lớn lao đến mấy, như Giêrêmia chẳng
hạn, thì cũng chỉ gắn liền với một thời cuộc nhất định, nằm trọn trong mức độ
giới hạn của lịch sử cụ thể. Trong khi đó, viễn tượng của ơn cứu độ của Giavê
Thiên Chúa thì lại vượt quá, chẳng những bao trùm toàn thể lịch sử của Dân,
nhưng còn vươn tới tầm mức lịch sử của nhân loại. Do đó, những bài ca ấy như
thể còn phóng tầm nhìn về một Ngôn Sứ cao cả hơn, một Ngôn Sứ duy nhất, Đấng
Mêsia cao cả mà cả Dân tộc vẫn đợi trông… chính nơi nhân vật ấy mà Thiên Chúa
mới có thể tỏ bày trọn vẹn chương trình cứu độ lạ kỳ của Người.
3.3 Hay hình ảnh Người Tôi Trung chỉ là một biểu tượng ?
Những lời sấm về Người Tôi Trung hình như không ngừng ám ảnh
chính lương tâm của chính Isaia. Ông loan báo một điều mà chính ông cũng không
hiểu được; ông trăn trở với một viễn tượng mà chính ông không thể hình dung ra
được trong thực tại của lịch sử. Điều đó tạo nên trong truyền thống Do Thái một
khúc mắc nan giải mà đôi khi có người chỉ muốn hiểu những lời thơ này theo một
nghĩa bóng bẩy. Truyền thống Do Thái dường như lúng túng trong việc tìm ra được
một tổng hợp giữa hình ảnh một Đấng Mêsia được trông đợi như “Con Người” oai
nghiêm thuộc thiên giới đến trên mây trời của Daniel (Dn 7,13) với hình ảnh một
Người Tôi Trung mang đậm nét con người, bị sỉ nhục và đau khổ trong Isaia.
Trong truyền thống Do Thái giáo, người ta thấy rằng những
nhà thần kiến táo bạo nhất cũng không làm sao dung hòa được hai viễn tượng đó,
mặc dầu là dung hòa một cách vụng về đi nữa. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong
triết gia Do Thái Maimonide (1135-1204 sau JC) một suy niệm như sau : “Bạn đừng có bao giờ nghĩ rằng vào thời kỳ
của Đấng Cứu Thế, có cái gì sẽ thay đổi trên thế giới bình thường nay… Không,
thế giới vẫn như thường, và điều Isaia đã nói… và tất cả những điều giống như
thế về vấn đề Đấng Cứu Thế đều là những mechalim, những dụ ngôn” [11].
Hoặc chúng ta có thể
đọc trong bài thơ của Frischmann, một thi sĩ Ba lan, gốc Do Thái, một hình ảnh
biểu tượng một Đấng Cứu Thế bị trói bằng những sợi xích vàng trên thiên giới :
Ngài đón nhận những nỗi đau của nhân loại, qua mọi thời đại. Từ trên cao
Ngài nhìn thấy mọi nỗi kinh hãi của cuộc
sống nơi anh em Ngài… Ngài như vùng vẫy để xuống thế, Ngài khao khát, Ngài lấy hết nghị lực để bẻ gẫy xiềng xích, để
thoát ra, để phóng xuống, để giải thoá, để cứu vớt… nhưng Ngài vẫn bị trói bằng những sợi xích vàng[12]…
Phải chăng cuối cùng hình ảnh Người Tôi Trung trong Isaia
cũng chỉ là “dụ ngôn” ? là cách diễn tả lòng khao khát cứu độ của một Đấng
Mêsia bị xích bằng những sợi xích vàng ? là một động lực muôn đời trong dòng
lịch sử, bộc lộ trong những con người
anh hùng hết thời đại này sang thời đại khác, để lao vào cuộc cứu độ con người
?
4. Chân trời Kitô giáo
Ta cũng thấy, chính các môn đệ của Chúa Giêsu, ban đầu cũng
không thể nào hiểu được, đúng hơn là không thể nào đón nhận được một “thần trí”
của Thiên Chúa để chấp nhận đi theo một Đấng Mêsia “đến để phục vụ chứ không
phải để được phục vụ”, một Đấng Mêsia bị
nộp, bị đánh đòn và bị giết như một tội nhân… Não trạng Do Thái đã ăn quá sâu
vào tâm hồn những người môn đệ của Chúa. Thế nhưng, trong sự hướng dẫn của Thần
Khí Thiên Chúa, dần dần, người Kitô hữu nhận thấy những bài ca về Người Tôi
Trung chỉ thể hiện cách rõ ràng, minh bạch nhất nơi Đức Giêsu Kitô. Hơn hết
những lời ngôn sứ khác, chính tính cách nghịch lý lạ thường trong bài ca Người
Tôi Trung, được chứng nghiệm một cách am hợp lạ kỳ nơi cuộc đời, và nhất là nơi
cuộc tử nạn của Đức Giêsu, lại là một lời minh chứng hùng hồn về vai trò Cứu
Thế của Đức Giêsu Kitô :
- Tiếng từ trời tỏ lộ khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông
Giôđan, với lời trích Is 42,1 (X. Mt 1,11);
- Khi đức Giêsu truyền cho bệnh nhân được khỏi phải giữ kín
về phép lạ (Mt 12,21) thì đó là thực hiện Is 42, 1-3;
- Khi Luca ( 9,51)
nói rằng “Ngài dạn mặt” (Lc 9,51 :9,51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời,
Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem.) thì đó là Ngài nhắc lại lời Is 50,7
(trơ mặt chai như đá);
- Khi Chúa Giêsu nói
với Nicôđêmô : Con Người phải bị treo lên (Ga
3,14) thì ứng nghiệm lời Is 53, 4-5 : Người Tôi Trung mang trên mình
những tật nguyền của mọi người. . . ….
5. Ngôn sứ của tình yêu hy sinh ngày hôm nay
5.1 Dám vượt trên nguyên tắc công bằng
Con người không ngừng đi tìm một thế giới công bằng hơn. Thế
nhưng, nói cho cùng, xã hội con người không bao giờ có được một sự công bằng
trọn vẹn. Hoặc đúng hơn, tất cả những bộ luật của nhân loại, tất cả những cuộc
đấu tranh cho công bằng vĩ đại nhất trong lịch sử, thật ra cũng chỉ là một
“chút đường” bỏ vào “bể muối” mênh mông của bất công. Một con người được cưu
mang và được sinh ra, em bé ấy đã gánh chịu hoặc đã vô tình hưởng thụ nơi bản
thân nó vô cùng những bất công của cuộc đời, bất công của lịch sử, bất công của
dân tộc này với dân tộc kia, bất công của môi trường xã hội có từ thời ông bà
tổ tiên của cháu bé, bất công của làng xóm, bất công của luật lệ xã hội, bất
công ngay trong gia đình… Rồi trên hành trình cuộc đời, mỗi bước đi của em bé
cũng đều được đan dệt trên những thành quả của bất công…
Dĩ nhiên là chúng ta không bao giờ được coi thường những nỗ
lực đấu tranh cho công bằng, hoặc làm giảm nhẹ tầm quan trọng của những cuộc
đấu tranh ấy. Nhận diện ra được đại dương của bất công là để không ai được
quyền an thân trong hoàn cảnh may mắn nào đó của mình; không ai được quyền bào
chữa cho mình khỏi chịu trách nhiệm trước những khổ đau của người khác; không
ai được quyền sống theo kiểu “bàn tay sạch”, hoặc “đi cà khêu” giữa cuộc đời.
Một ảo tưởng về sự công bằng cũng đã là một sự bất công; và cũng nguy hiểm
chẳng kém gì chính sự bất công lu lù mà ai cũng thấy được.
Hơn nữa, còn có một ảo tưởng khác không kém nguy hiểm, tạm
nói là ảo tưởng nhân danh sự công bằng để đấu tranh với bất công. Bởi vì tự
“chính chỗ” đứng mà ta cho là công bằng để đấu tranh, thật ra cũng chẳng công
bằng. Suy cho đến ngọn nguồn, thì chỗ đứng nào cũng đã bị muốm bùn của bất
công. Trong thực tế, đấu tranh chống bất công nhân danh công bằng, dựa vào luật
pháp hay quyền con người, là điều cần làm trước mắt; nhưng suy cho cùng của
cuộc đời, muốn đấu tranh chống bất công tận gốc, phải nhân danh nguyên lý “mắc
nợ nghĩa tình”. Do đó, tất cả những thứ cách mạng nhằm “chia đều lợi tức”, cào
bằng… đều rơi vào một sự bất công khác. Cuộc đời, tự nó, đã đặt tất cả mọi
người vào trong một tình trạng MẮC NỢ nhau quá nhiều. Trong cuộc sống ấy, người
ta mà chỉ có thể TRẢ NỢ ĐỜI bằng một tâm tình MẮC NỢ NGHĨA TÌNH; và tâm tình ấy
lại chính là một động lực căn bản cho hành trình vươn lên của xã hội con người,
chứ không phải một thứ lý trí công bằng, được đề cao quá đáng từ những thế kỷ
trước ở Tây phương.
Chỉ nguyên lý mắc nợ nghĩa tình mới có thể thôi thúc một
tình yêu hy sinh, một yếu tố không thể nào thiếu cho tâm hồn con người và ngay
cả cho vận hành của xã hội loài người. Người ta có thể thấy rõ điều ấy trong
“vận hành” của đời sống gia đình.
5.2 Thể hiện một tình yêu đi bước trước
Chỉ trong
nguyên lý mắc nợ nghĩa tình người ta mới có thể dấn mình vượt qua mức độ “thuận
mua vừa bán” để khai mở cho thế giới tình nghĩa, thế giới “tặng không” và “lãnh
nhận với lòng tri ân”. Một thế giới phòng vệ, đối phó, tính toán…. thì không
bao giờ có thể bắt đầu đi vào hành trình nghĩa tình. Như thế, người ngôn sứ của
tình yêu hy sinh thật sự là người dám đi bước trước, dám bắt đầu một trách
nhiệm với tinh thần tự nguyện, dám chấp nhận “nắm đằng lưỡi” trong cuộc đổi
trao… ; và có lẽ điều đó, trước tiên cần thể hiện trong đời sống đức tin của
người Kitô hữu. Một người Kitô hữu sống “đối phó” với Chúa, Chúa bắt làm tới
đâu thì ta làm tới đó… thì thật ra người đó chưa phải là một Kitô hữu đích
thực, một Kitô hữu đón nhận chính tình yêu hy sinh của Đức Giêsu và sống theo
bước chân của Ngài.
5.3 Dám dấn thân liên lụy với đời
Có những
người Kitô hữu tâm sự rằng, từ khi vào hội đoàn, tôi thấy mình càng thêm tội,
tranh cãi nhiều, buồn bực nhiều, nói xấu nhiều… Đó là một thực tế khó có thể
chỗi cãi. Tuy nhiên, thái độ rút lui, an thân thì lại chẳng khác gì tuyên bố
rằng : tay tôi đã sạch, ai lao vào bếp để dọn bàn tiệc Nước Trời thì cứ việc
làm; khi nào dọn bàn xong, nhớ gọi tôi vào ăn với…
Thái độ an
thân như thế thực ra đã là kẻ bẩn từ bên trong. Đó là thái độ của những người
không dám liên lụy với ai, không dám chịu phiền hà vì ai, không dám cho đi
chính bản thân và không dám đi vào hành trình của hạt lúa, chết đi mới sinh
nhiều bông hạt…
Đức Maria, Ngôn sứ của niềm hy vọng
Suy niệm lời kinh Magnificat của đức Maria
1. Bài ca của muôn người
Bài ca Magnificat vọng lại nhiều bài ca vãn và Thánh Vịnh,
cũng như nhiều đoạn Sách Thánh nói về người nghèo, người hèn mọn được Thiên
Chúa đáp cứu và bênh vực. Bài ca này cũng diễn tả tâm tình của một người dân Israel,
hoà nhập niềm vui của mình với vận mạng của Dân và ca tụng những ân huệ Thiên
Chúa ban cho Dân Israel.
Đồng thời bài ca này cũng vọng lại những lời của cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi,
những người bé mọn được Chúa đoái thương kêu gọi và ban cho hồng ân được sống
trong dòng lịch sử ơn cứu độ của Ngài.
Chúng ta
nhận ra nơi đây tâm tình của Mẹ Maria, Người chìm đắm trong thế giới của Chúa
chứ không có một chút vinh vang của thế gian; Người chìm ngập trong dòng lịch
sử ơn cứu độ chứ không phải chỉ là chuyện đơn lẻ cá nhân; và Ngài cũng chìm đắm
trong lòng Dân mới của Chúa, vì thật ra Đức Maria cũng chính là Hội Thánh, là
hình ảnh tiên trưng của Hội Thánh, và là hình ảnh tiên trưng của mỗi người Kitô
hữu được sống trong thực tại Nước Trời của Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta cũng
được quyền hát lên bài ca Magnificat như lời của chính mình, như lời ca tụng
Chúa từ bản thân và từ hoàn cảnh của mình như chính Đức Maria vậy.
1,46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
"Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên
Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái
thương nhìn tới;
từ nay,
hết mọi đời
sẽ khen
tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao
điều cao cả,
danh Người
thật chí thánh chí tôn !
50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan
phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng
cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu
có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người
nhớ lại lòng thương xót
dành cho
tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con
cháu đến muôn đời." (Lc 1,46-55)
2. Niềm vui của Đức Maria :
Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói :
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
Niềm vui của Mẹ Maria gắn liền với niềm vui của ơn cứu độ
được loan báo trong Cựu Ước :
Is 61,10 :
Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao !
Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ,
choàng cho tôi đức chính trực công minh,
như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang.
Kb 3,18 :
“Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA,
hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”
Đó là một niềm vui sâu xa phát xuất từ “thần trí”, bộc lộ ra
thành lời ngợi khen của “linh hồn”. Đó là một niềm vui của một con người toàn
diện, lay động toàn diện một con người, trong thân xác, trong linh hồn và trong
hành trình lịch sử của một đời người.
Khi ta được ăn ngon, thân xác ta được thoả mãn; khi ta được
khen ngợi, tâm trí ta cũng được thoả mãn, nhưng khi ta nhận được ơn cứu độ, thì
thần trí, tức là tinh thần, tức là nguyên lý sống, tức là lý do hiện hữu của
cuộc đời ta, tất cả những điều đó tìm được “căn tính” của mình trong sự hoàn
thành chính vận mạng của mình. Thật ra, niềm vui trọn vẹn của một con người chỉ
có thể có được trong một sự hoàn thành vận mạng, nghĩa là toàn thể con người,
và toàn thể cuộc đời con người. Niềm vui đó chỉ có thể có được trong ơn cứu độ
toàn vẹn của Thiên Chúa. Tiếng reo vui của Mẹ Maria cho ta thấy cuộc đời con
người không phải chỉ là sự thoả mãn thân xác, không phải chỉ là thoả mãn tâm
trí, không phải chỉ là niềm vui lúc này, nhưng là một sự thành đạt trọn vẹn đời
sống, trọn vẹn thân phận một con người; sự thành đạt chỉ có thể phát xuất từ ơn
cứu độ của Thiên Chúa.
Chính vì thế, ta hiểu được niềm vui sâu xa và chân chính
nhất của con người không thể ra ngoài, không thể đứng ngoài được vận hành ơn
cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, điều có thể mang lại niềm hy vọng cho con người
được đặt vào trong bình diện “khó mà dễ”, nghĩa là trong niềm tin mà nếu ai
không dám tin thì không đón nhận được; còn những ai dám tin thì sẽ nhận được.
3. Lòng khiêm tốn của người được cứu độ
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Niềm vui về sự thành đạt ấy, từ nay, trong một thời kỳ mới,
một nhiệm cục mới, không còn tùy thuộc vào công đức của con người, nhưng là
hồng ân tặng không của Thiên Chúa. Con người trong nhiệm cục mới là con người
sống hết “khả năng lãnh nhận” của mình - theo thần học, con người có khả năng
lãnh nhận tuyệt đối- và lãnh nhận một cách chân chính, đó là lãnh nhận trong
lòng tri ân. Khẳng định điều đó hoàn toàn khác với một thứ “khiêm nhường” giả
tạo của con người.
“Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu ? Bạn có gì mà bạn
đã không nhận lãnh
? Nếu đã nhận lãnh,
tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh ? (1 Cr 4,7)
Một khi nhận ra, khẳng định, “tuyên bố” với tất cả thần trí
về hồng ân mình được lãnh nhận từ tình thương của Chúa, thì không còn phải bận
tâm tới một thứ khiêm nhường khách sáo, lễ nghĩa, hoặc một thứ khiêm nhường của
nhân đức luân lý. Khiêm nhường của người sống trong ơn cứu độ khác hẳn thứ
khiêm nhường của một nỗ lực tập luyện nhận đức.
Đức Maria đã lãnh nhận chân chính và lãnh nhận trọn vẹn hồng
ân của Chúa, để có thể thẳng thắn nói lên rằng : “Từ nay hết mọi đời sẽ tôi
diễm phúc”. Điều này hoàn toàn không phải là một thứ kiêu ngạo, những là “làm
chứng” cho tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Thật sự chỉ có người nghèo mới biết lãnh nhận, mới biết lãnh
nhận trong lòng tri ân, và người nghèo mới có thể thực sự làm chứng cho Chúa.
Đó mới thực là thứ mặn của “muối Tin Mừng”, thứ sáng của “đèn Tin Mừng”
Sau này thánh Phaolo cũng đã nói lên một sự khiêm tốn thực
sự của ơn cứu độ : anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước đức Kitô.
Chính sự khiêm nhường trong dòng sống của ơn cứu độ mới làm sáng
lên quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa chứ không phải thứ khiêm nhường luân
lý của con người :
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn !
4. Khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa
50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Từ một hồng ân của Thiên Chúa ban cho chính bản thân mình,
đức Maria khám phá ra lòng thương xót của Chúa. Đó là thái độ chân chính của
người nhận lãnh trong nhiệm cục cứu độ Kinh Thánh, đặc biệt là Kitô giáo. Nhận
lãnh thực sự không phải là nhận lãnh hồng ân sự vật, nhưng là lãnh nhận chính
bản thân; ở đây lại là Bản Thân của Chúa, hay lãnh nhận chính tình thương của
Chúa. Đức Maria lãnh nhận hồng ân làm mẹ, những đó lại là lãnh nhận chính lòng
thương xót của Chúa, nghĩa là nhận ra Chúa ở với mình và thương yêu mình.
Cũng thế,
lòng trông cậy trong truyền thống ơn cứu độ, truyền thống Do Thái - Kitô giáo
khác với niềm hy vọng của con người cũng ở chỗ : trông cậy không phải là một sự
dựa dẫm, nhưng được kết dệt trong một hệ tin-cậy-mến; nghĩa là một mối tương
quan sung mãn và phong phú; nghĩa là một lòng trông cậy gắn liền với tình yêu
và tin tưởng một ngôi vị, một bản thân chứ không phải gắn liền với sự vật. Lãnh
một sự vật, nghĩa là chiếm hữu, nghĩa là tiêu thụ sự vật; điều đó chẳng khác gì
rút về phía mình sợi giây nối kết ngôi vị, chẳng khác gì cắt đứt mối liên kết
hai bản thân. Ngược lại, lãnh nhận chính bản thân của ai khác tức là khám phá
lòng yêu thương chân chính, khám phá ra bước đồng hành của ai khác trên cuộc
đời mình.
Một khi việc lãnh nhận bộc lộ ra thành lời ca tụng lòng
thương xót Chúa, thì ta có thể nhận ra được “bản chất” của việc lãnh nhận chân
chính, của một lòng trông cậy chân chính. Chính khả năng lãnh nhận chân chính,
lãnh nhận chính Chúa mới có thể mở ra niềm trông cậy chân chính, trông cậy của
cả bản thân, trông cậy của cả vận mạng con người mình.
5. Vận hành của ơn cứu độ
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Cũng từ một sự kiện, từ một hồng ân riêng lẻ mà Mẹ đón nhận
được, Mẹ nhận ra được chiều hướng vận hành của ơn cứu độ, chiều hướng của một
sự đảo ngược, và là một sự đảo ngược của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa, tình
yêu Agape, là một tình yêu cho đi chính bản thân, tình yêu làm cho người mình
yêu được phong phú trọn vẹn. Trong tình thương Agape của Thiên Chúa, con người
được đón nhận trọn vẹn nhất, đón nhận chính Thiên Chúa. Nếu tình thương của
Chúa không phải là Agape thì con người, dù có muốn cũng không thể lãnh nhận
được chính bản thân của Chúa.
Đối với tình yêu thương trọn vẹn của Chúa, kẻ được lãnh nhận
trọn vẹn nhất chính là kẻ khiêm tốn, nghèo khó để lãnh nhận trọn vẹn bản thân
của Thiên Chúa. Mầu nhiệm về con người được thành toàn trong chương trình cứu
độ của Thiên Chúa; nơi đó, con người càng dám chấp nhận cái nghèo của mình đến
đâu, thì lại càng được đón nhận hồng ân tặng không của Thiên Chúa đến đó. Trong
nhiệm cục mới, con ngưòi được lãnh nhận, và lãnh nhận trọn vẹn nhất chính là
lãnh nhận từ chính sự hèn mọn của bản thân.
Như thế,
chương trình cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa thể hiện trong vận mạng kỳ lạ của
con người được cứu độ; biểu lộ trong một cuộc đảo ngược hoàn toàn những giá trị
và những não trạng quen thuộc của con người. Sách Gióp đã từng nói lên điều đó
:
G 12,19
12,19Người bắt các tư tế phải đi chân
đất
Người lật đổ những kẻ quyền uy.
Chính điều này lại bộc lộ một khả năng sống lòng trông cậy
cho mọi người, đặc biệt là những người nghèo.
6. Hội Nhập đời mình vào lịch sử ơn cứu độ
“54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời."
Sau cùng, từ một sự kiện đơn lẻ độc nhất của mầu nhiệm nhập
thể mà đức Maria lãnh nhận, Mẹ lại nhận ra được chính bản thân Mẹ được đưa vào
hội nhập một cách sâu xa hơn vào lịch sử ơn cứu độ. Việc Mẹ nhận được hồng ân
làm mẹ không là gì khác hơn việc Thiên Chúa đang thực hiện nhiệm cụ Cứu Độ kỳ
lạ của Ngài ngang qua bản thân của Mẹ.
Thiên Chúa đã hứa với Dân, và giờ đây, Ngài cương quyết thực
hiện lời hứa của Ngài trong bản thân của Mẹ. Đức Maria trở thành nơi quy tụ của
tất cả khát mong, tất cả hy vọng của Dân Israen. Đức Maria là hiện thân của
niềm hy vọng suốt bao đời của “cô gái Sion”. Và cũng chính nơi bản thân của Mẹ,
niềm hy vọng của Dân tộc được Thiên Chúa đáp lại. Mẹ trở thành người trung gian
về phía nhân loại để đón nhận trọn vẹn Đấng Trung Gian duy nhất mà Thiên Chúa
ban cho là Đức Giêsu Kitô. Từ vị thế đó, Mẹ ca tụng Thiên Chúa như lời ca tụng
của cả nhân loại, và bản thân Mẹ là lời chứng cho cả nhân loại về lòng trông
cậy nơi Thiên Chúa.
Nơi đây không có ơn riêng, nhưng là một giòng lịch sử ơn cứu
độ. Cái riêng trở thành cái chung và cái chung thể hiện nơi cái riêng. Nơi đây
không phải là một sự phân chia đồng đều, nhưng là một sự đan xen của tình yêu
thương, người được lãnh nhận cũng là người chia sẻ, vì lãnh nhận là lãnh nhận
vì mọi người.
7. Bài ca của người Kitô hữu
Cuối cùng
chúng ta có thể nhận ra bài ca của Mẹ Maria cũng là bài ca của mọi người Kitô
hữu. Khởi đầu của nhiệm cục cứu độ mới không còn là một thế giới của những
người “trả vay sòng phẳng” với Thiên Chúa, những là những người được lãnh nhận
trong lòng tri ân. Thế giới mới của Chúa, trong Đức Maria, hình ảnh tiên trưng
của Giáo Hội, là thế giới mọi thành viên đều “có quyền” hát lên bài ca của niềm
vui được cứu độ; hát lên bài ca tình thân mật của chính bản thân mình với Chúa,
và hát lên bài ca của sự hiệp nhất trong dòng lịch sử ơn cứu độ cho muôn người.
Đó quả thật là bài ca của niềm tin, bài ca của lòng trông cậy, bài ca của lòng
yêu mến.
[1] Bertrand
Russell, Thế Giới Ngày nay và Tương Lai Nhân Loại, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn
Hóa,1996.
[3] Kinh Hòa
Bình
[4] Ministères charismatiques.
[5] Ministères d' administration
[6] Khuynh hướng này do đức hồng y
Ruffini bảo vệ.
[7] "Don extraordinaire",
theo nghĩa "đặc sủng".
[8] Khuynh hướng này do đức hồng y
Suenens bảo vệ.
[9] Grâce ordinaire.
[10] Điều
này hơi giống như điều chúng ta đã thấy trong hành trình của thánh Vinh Sơn, đi
từ một thứ “linh đạo cho người nghèo” đến một thứ “linh đạo của người nghèo”
[11] Trích
lại trong bài “Không có ngày “G” đối với Đấng Cứu Thế”, của Robert Aron; trong
tuyển tập : A. Frossard, J Dheilly, M. Halpern, R. Aron, Để Làm Giầu Kiến Thức
Kinh Thánh, tập IV, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, t/p HCM, 1993, tr. 1316.
[12] Nt,
trang 1318-1320.
hay qua con cám ơn cha
Trả lờiXóahay qua con cám ơn cha
Trả lờiXóa