Sứ Vụ Ngôn Sứ Hôm Nay


Một cách nào đó, chính các ngôn sứ là người “hình thành” nên lịch sử cứu độ, theo nghĩa các ngài đã mang lại một cái nhìn của đức tin, soi chiếu vào lịch sử trần thế, làm sáng lên ý nghĩa siêu nhiên của các sự kiện trong lịch sử và giúp cho Dân hiểu ra lịch sử đời thường của họ chính là lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Cũng thế, một cách nào đó, trong thế giới hôm nay, khi vai trò ngôn sứ của các Kitô hữu được thể hiện một cách sung mãn, thì dòng lịch sử nhân loại sẽ được “nhìn”, được giải thích theo ánh sáng đức Tin, và được hội nhập một cách trọn vẹn hơn vào lịch sử ớn cứu độ của Thiên Chúa. Khi đó, lịch sử ơn cứu độ sẽ thể hiện rõ nét mầu nhiệm “Nước Cha trị đến” đang diễn ra ngay trong chính lịch sử của thế giới cũng như lịch sử của đời sống cá nhân người Kitô hữu hôm nay.

Nguyễn Trọng Viễn O.P.
* Tài liệu tham khảo :

- Nguyễn Ngọc Rao O.P., Tìm Hiểu Các Sách Ngôn Sứ, 1995;
- Tuyển tập : A. Frossard, J Dheilly, M. Halpern, R. Aron, Để Làm Giầu Kiến Thức Kinh Thánh, tập IV, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, t/p HCM, 1993, tr. 1316.
- Kinh Thánh Tân Ước, Nguyễn Thế Thuấn, phần dẫn nhập

 Êdêkien, ngôn sứ về sự sống


Êdêkien ra đời khoảng năm 623 trước công nguyên, thuộc gia đình tư tế. Tên Êdêkien có nghĩa là “Thiên Chúa dũng mãnh”, hay “Thiên Chúa làm cho hùng mạnh”. Ông là môn đệ của Giêrêmia.
Sau biến cố thành Giêrusalem bị phá lần thứ nhất năm 598, vua Jechonia và một số người có địa vị trong dân, trong đó có Êdêkien, bị phát lưu. Ông đến ở tại vùng phía nam Babylon, bên bờ sống Koba. Tại đây, vào khoảng năm 593, ông lãnh nhận ơn gọi làm “người canh gác nhà Israel” (3,17). Êdêkien thi hành sứ vụ khoảng 20 năm. Chúng ta không biết ông mất vào năm nào. Theo truyền thuyết, Êdêkien bị kết án tử hình do một vị thẩm phán đã từng bị ông khiển trách nặng lời.

Êdêkien là mẫu người được “thần nhập”. Ông là “ngôn sứ hành động” và là nhà “thần mộng vĩ đại”. Ông có nhiều hành động tượng trưng hơn các ngôn sứ khác; và đón nhận nhiều thị kiến. Thị kiến “Xa Giá của Giavê” là một thị kiến vĩ đại nhất và cũng huyền bí nhất, được viết trong chương đầu của sách. Êdêkien được coi như người khai mở cho lối văn khải huyền trong Sách Thánh.

Êdêkien cho rằng đại họa đã xẩy ra là do Dân không tuân giữ lề luật của Chúa. Ông loan báo thời phuc hưng của Dân, nhưng nhấn mạnh tới khía cạnh uy quyền và tình thương của Thiên Chúa, một Thiên Chúa không bị ràng buộc vào giao ước, vì chính Dân đã vi phạm giao ước. Ngài cứu Dân vì chính uy danh của Ngài (x. Ed đoạn 20) và Ngài thay thế giao ước cũ bằng giao ước mới cũng chỉ vì lòng thương xót của Ngài mà thôi (x. Ed 16, 62-63).

Cứu thế luận của Êdêkien mang nặng mầu sắc quốc gia. Nhãn giới của Êdêkien vẫn không vượt qua được tầm mức của Dân Chúa trong huyết thống; và việc thiết lập nước Thiên Chúa thời sau hết gắn liền với cuộc phục hưng của nước Do Thái sau lưu đầy. Ông tiên đoán tương lai của một chế độ thần quyền như sự phục hồi quốc gia Israel mà trung tâm vẫn là vùng đất Palestin. Ông khơi dậy một sự tự hào Do Thái có tính cách quá khích và suy đồi. Êdêkien thường bị coi là kẻ tạo nên chủ nghĩa Do Thái, một Dân Do Thái khép kín, kỳ thị như trong nhóm Biệt Phái sau đó.

Tuy nhiên, người ta có thể “bào chữa” cho Êdêkien một chút khi đặt mình vào hoàn cảnh đất nước lúc đó. Ông chỉ muốn khơi dậy nơi dân Do Thái lưu đầy niềm xác tín về một Dân được Thiên Chúa chọn, để khuyến khích họ giữ lề luật của Người, để có thể nuôi dưỡng lòng trông cậy của họ.

Êdêkien quan tâm đặc biệt đến Đền thờ, nhưng không chấp nhận Thiên Chúa bị ràng buộc vào Đền thờ. Đặc biệt, Êdêkien là người khởi đầu cho quan niệm về trách nhiệm cá nhân trong giao ước (x. đoạn 18-23); và ông cũng là người đề cao một sự hoán cải nội tâm, tiên báo một giao ước mới trong “trái tim và tinh thần mới” (x. Ed 18,31); nhờ đó, Êdêkien tạo được một trào lưu sống đạo sâu xa trong Do Thái giáo.

Ở đây, chúng ta chỉ lưu ý đến khía cạnh “sứ điệp sự sống” trong “thị kiến về Những Bộ Xương Khô” của Êdêkien và cố gắng nhận ra một vài điều gợi ý cho sứ vụ “ngôn sứ về sự sống” trong xã hội hôm nay.
1.1. Thị kiến về những bộ xương khô (Ed 37, 1-14)

”Tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. ĐỨC CHÚA dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng ; thung lũng ấy đầy xương cốt. 2Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. 3Người bảo tôi : "Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không ?" Tôi thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó." 4 Bấy giờ, Người bảo tôi : "Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy ; ngươi hãy bảo chúng : Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. 5ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy : Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. 6Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA." 7Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm ; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. 8Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân ; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng. 9Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí ; tuyên sấm đi, hỡi con người ! Ngươi hãy nói với thần khí : ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này : Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." 10Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết ; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên : Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.

11Bấy giờ, Người phán với tôi : Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói : "Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời !" 12Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng : ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau : Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. 13Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. 14Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Ed 37,1-14)

Thị kiến được chính Thiên Chúa giải thích ngay sau đó, theo đó, những “bộ xương khô” là hoàn cảnh cụ thể của Dân Israel khi đó đang bị lưu đày. Tình trạng bi đát của họ giống như những “bộ xương khô”. Dân Chúa giờ đây là một Dân đã chết, khô khẳng, rời rạc, hoang tàn. Họ không còn chút hy vọng nào về tương lai, họ không dám tin mình sẽ được tái lập, họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã hoàn toàn bỏ rơi Dân của Ngài.

Thế nhưng Thiên Chúa lại có thể thực hiện được điều mà không ai có thể nghĩ tới, điều chỉ có Ngài mới có thể thực hiện được. Thiên Chúa mở tung nấm mồ, thổi sinh khí mới và làm cho những bộ xương khô được sống. Thị kiến cho thấy Thiên Chúa sẽ đưa Dân trở về xứ sở của sự sống, xứ sở của lời hứa.

Trong một dụ ngôn khác, dụ ngôn về Cây Bá Hương, Êdêkien cũng mô tả việc Thiên Chúa phục hồi sự sống cho Dân, nhưng qua một vận hành lịch sử phức tạp : có một con phượng hoàng khổng lồ trên núi Liban ngắt một chồi cây đưa đến vùng đất ngoại đạo, đó là việc vua Nabuchodonosor của Babylon, năm 598, đã chinh phạt vua Joachim và bắt đưa đi đầy ở Babylon. Rồi một con phượng hoàng lại ngắt một chồi khác, cùng một gốc, đặt vào nơi đất phì nhiêu, có sẵn nước, và cây trở nên tươi tốt như một cây nho …. Nhưng cây nho lại bị con phượng hoàng cũ trở lại, đem theo gió nóng và làm cho nó héo khô đến tận rễ… Cuối cùng chính Giavê mới đem ngắt một chồi non khác từ gốc rễ ấy, rồi đem trồng lên núi Sion và chồi non ấy sẽ trở thành một cây to cho chim trời trú ngụ… Cuối cùng Êdêkien còn tiên báo sẽ có một vị vua tương lai, một Davíd mới chăn dắt Israel…

Việc Thiên Chúa phục hồi sự sống cho Dân, được diễn ra qua một vận hành lịch sử phức tạp như trong du ngôn Cây Bá Hương; hoặc diễn ra một cách kỳ diệu như trong thị kiến “Những Bộ Xương Khô”, đều là những lời tiên báo mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho Dân. Kết cuộc sẽ đến là sự sống của Dân, sự sống do từ tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
1.2 Từ sứ điệp của Êdêkien


Mặc dù Êdêkien chỉ nghĩ tới lời tiên báo trong dụ ngôn các bộ xương khô như một sự phục hưng vương quốc Israel, nhưng chúng ta cũng có thể thấy được sứ điệp của ông, dù sao, khơi lên niềm hy vọng của một sự sống mới, và dĩ nhiên niềm hy vọng ấy chỉ có thể thực hiện toàn vẹn trong Đức Giêsu Kitô, sự sống đích thực cho nhân loại :

- “Đức Giê-su đáp : "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. (Ga 14,6; Xc. Ga 11, 1-44).

- “Đức Giê-su liền phán : "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. (Ga 11,25)


Mặt khác sự chết và sự sống mà Êdêkien loan báo không phải là một sự sống/chết của thân xác một con người, nhưng là sự phục  hồi một tập thể chính trị - xã hội của một Dân tộc. Đó là một sự sống bao gồm tất cả những khía cạnh cụ thể, thiết thân và toàn diện của một Dân, trong đó mỗi cá nhân như một thành phần của Dân cũng được chia sẻ trọn niềm hy vọng. Giáo Hội của Đức Kitô là sự tiếp nối và hoàn bị hình ảnh Dân Chúa trong Cứu Ước, Giáo Hội cũng đón nhận và là một dấu chỉ trọn vẹn hơn về Nước Trời của Chúa, trong đó những niềm hy vọng chính đáng của Dân trong Cựu Ước không bị phá hủy, nhưng được hoàn trọn. Đức Giêsu làm cho người chết sống lại và chính Ngài cũng trải qua cái chết để Phục Sinh vinh hiển, điều đó chẳng những loan báo về một sự phục sinh sau cái chết thể xác của con người, nhưng cũng trở thành một niềm hy vọng chắc chắn về một sự sống toàn diện, “sự sống” của một cuộc sống nhân sinh phong phú và sung mãn ngay trong cuộc sống này. Như thế, Giáo Hội cũng tiếp tục nền tảng của một niềm hy vọng chắc chắn về sự sống mới của Chúa Kitô, một sự sống phong phú và toàn diện, ngay ở đây và lúc này. Niềm hy vọng về sự sống mai sau phải thúc bách người Kitô hữu nỗ lực làm cho men sự sống đích thực của Chúa được sinh sôi nẩy nở phong phú hơn trong chính cuộc sống hôm nay. Công Đồng Vatican II nói :

“Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng cánh chung không làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái lại còn tạo thêm những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.”(MV 21c).

Như thế, chúng ta có thể thấy, từ sứ điệp của Êdêkien, một niềm hy vọng về một sự sống toàn diện của con con người. Ơn cứu độ Kitô giáo không đóng khung trong việc “cứu rỗi các linh hồn”, nhưng là một “SỰ SỐNG”, sự sống mới âm thầm nhưng mạnh mẽ, cung cấp nhựa sống cho toàn bộ cuộc sống nhân loại, thể xác và tâm hồn, cá nhân và tập thể, văn hóa cũng như khoa học… Đó là Sự Sống của một nền “văn hóa sự sống” :
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. (Ga 10,10)

2. Ngôn sứ về sự sống trong thế giới ngày nay


Sứ điệp của Êdêkien, trong viễn tượng ơn cứu độ nơi Đức Giêsu, có thể được đón nhận như là một lời mời gọi sống vai trò ngôn sứ về sự sống toàn diện cho thế giới ngày nay, một thế giới bị chìm ngập trong “nền văn minh của sự chết”. Hình ảnh những bộ xương khô có thể nhìn thấy được nơi những trào lưu hưởng thụ, thực dụng, dễ dãi… cũng như việc đánh mất niềm khao khát sự thiện trong thế giới hiện nay; hình ảnh những bộ xương khô có thể nhìn thấy được nơi những tâm hồn mất hết ý nghĩa cuộc đời, mất hết niềm vui cuộc sống, mất hết lý tưởng cao đẹp để chỉ còn biết lao mình vào hưởng thụ ở đây và lúc này; hình ảnh những bộ xương khô cũng có thể nhìn thấy được nơi những phát minh khoa học, càng ngày càng mạnh mẽ và kỳ diệu, nhưng cũng càng ngày càng có nguy cơ đụng đến những phẩm tính căn bản của phẩm giá con người; hình ảnh những bộ xương khô có thể là những nỗi bất lực, bất lực trong chính tâm hồn một con người, bất lực trước hoàn cảnh trước mắt đổ ấp xuống những mảnh đời khó khăn, và nhất là sự bất lực của những nỗ lực luân lý và tôn giáo trước những tệ nạn của cuộc sống văn minh …
Hình ảnh những bộ xương khô là hình ảnh một thế giới của nền “văn minh sự chết”, một thế giới đã chết trong mạch sống của niềm hy vọng.
2.1. “Văn hóa sự sống toàn diện” chất vấn đời sống Kitô hữu

Giáo lý Kitô giáo khẳng định những điều tốt đẹp nhất cho sự sống con người. Theo cách nói của thông điệp Tin Mừng Sự Sống, thì “Tin Mừng về sự sống nằm ở trung tâm của sứ điệp Đức Giêsu” (s. 1). Hoặc nói một cách khác, sự sống con người và sự sống toàn diện chính là biểu hiện cụ thể của phẩm giá con người… Điều đó không phải chỉ là một lựa chọn trong một hoàn cảnh cụ thể, trước những nguy cơ đe dọa sự sống của thế giới văn minh hiện đại, nhưng thực sự là giáo huấn căn bản của Kinh Thánh cũng như của tín lý Kitô giáo. Giáo Hội trong thế giới hiện nay cần phải mang trách nhiệm làm sáng lên một nền văn hóa sự sống để chống lại một thứ “văn hóa sự chết” đang phát triển ồ ạt trong thế giới này.

Thế nhưng, có một nghịch lý là chính Giáo Hội Công Giáo cũng đã và đang bị tố cáo như là những kẻ làm nhiễm độc sự sống. Trong quá khứ và ngay trong thói đại hiện nay, chúng ta có thể thấy khá nhiều lời tố cáo về cách sống “vu khống sự sống” trong đời sống Giáo Hội. Chúng ta có thể nhắc nhớ lại một vài nét :

Phản ứng của thời Phục Hưng Châu Âu là một cách chống lại bầu khí của Giáo Hội Công Giáo quá nhấn mạnh đến “vũng lầy nước mắt”, đề cao lối sống khắc khổ, dè dặt với niềm vui và sự phát triển tự nhiên của con người, tính cách nghiêm nghị của cuộc sống nên thánh,… để tái khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên của con người, khám phá ra những năng lực lớn lao của con người, khám phá lại niềm vui sống, khám phá tính cách độc đáo và có “cá tính” của cá nhân  . . .

Đến thế kỷ XIX, triết gia F. Nietzsche vẫn nhân danh sự sống phong phú và mạnh mẽ đã tố cáo bầu khí ảm đạm mà Kitô giáo đã phả vào cuộc sống con người : “Cho tới bây giờ, người ta chưa dám tấn công Kitô giáo, hơn nữa, lại tấn công không đúng chỗ. Bao lâu chưa cảm thấy rằng luân lý Kitô là một tội ác căn bản đối với sự sống, thì các người bênh vực vẫn chống trả lại dễ dàng”… hoặc “…cái nhìn của linh mục, gương mặt xanh xao, xa cách, làm hại cho sự sống hơn là những lợi ích do lòng hy sinh tận tụy của họ mang lại; lối sống cách biệt như thế vu khống sự sống”…

Đến tận giữa thế kỷ XX, triết gia B. Russell vẫn tỏ bầy ý kiến của mình về tôn giáo nói chung là “Xét chung thì tôi cho rằng tôn giáo đã có nhiều hậu quả tai hại, nó thần thánh hóa chủ nghĩa bảo thủ, cứ bám lấy những tục lệ thời trước, nhất là nó thần thánh hóa sự cố chấp, bất bao dung và lòng căm thù. Cái thái độ, những hành động cố chấp, bất bao dung trong tôn giáo; nhất là ở Châu Âu, quả thực là ghê tởm”…; và đặc biệt với Giáo Hội Kitô giáo, ông nói : “Đế quốc La Mã sụp đổ, nhưng các linh mục trong Giáo Hội có quan tâm tới cái đó đâu. Họ chỉ lo làm sao phụ nữ giữ được trinh khiết thôi. Cái đó, đối với họ mới là rất quan trọng… ngày nay nhân loại cũng đương sụp đổ và tôi thấy nhiều giáo sĩ địa vị rất cao chỉ nghĩ tới vấn đề làm sao ngăn được sự thụ thai nhân tạo; họ cho việc đó quan trọng hơn nhiều việc ngăn ngừa thế chiến nó sẽ tiêu diệt nhân loại không còn lấy một mạng. Theo tôi, họ như thiếu ý thức về cân xứng, cái quan trọng thì cho là tầm thường và ngược lại…”[1].

Chúng ta còn có thể kể ra một danh sách thật dài những nhân vật lớn và những lời tố cáo nặng nề về hậu quả của nền luân lý Kitô giáo. Đứng ở phía Giáo Hội chúng ta có thể cho rằng những lời như thế thật là quá đáng; nhưng nếu thành tâm nhận định, có lẽ ít nhiều chúng ta cũng có thể nhận thấy không phải tất cả những lời ấy là bất công.

Chẳng hạn, chúng ta có thể cảm nhận được, một cách không khó lắm, ngay trong hiện tình đời sống của Giáo Hội, một bầu khí tôn giáo không có đủ tính chất ủng hộ sự sống.

Trong hành trình đi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đến thành Giêrikhô. Có một người mù tên là Bartimê đã khẩn thiết kêu cầu Chúa chữa bệnh cho anh. Tiếng kêu khẩn thiết của anh mù Bartimê : “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”, được lập đi lập lại nhiều lần như một khát vọng vươn lên của sự sống. Sự sống kêu gào được sống, được sống một cách toàn diện và phong phú. Thế nhưng, trong đoàn người theo Chúa Giêsu, có nhiều người quát nạt anh “im đi”. Những lời quát nạt trấn át sự sống để bảo vệ cho một sự thánh thiêng, trật tự nào đó, để bảo vệ cho một chương trình hay một tổ chức nào đó… không phải là hiếm trong sinh hoạt của Giáo Hội. Nhìn một cách nào đó, có lẽ chúng ta thấy những lời quát nạt “im đi” vẫn lấn át những lời dễ thương có tính cách ủng hộ sự sống  Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” (Xc. Mc 10,46-52). Những quan tâm quá mức về lễ nghi, về trật tự, về những hào nhoáng của danh giá, về luật lệ….; thái độ sống đạo dựa trên “nhân đức chịu vậy” vì không khám phá ra được những nét đẹp nhân bản của đời sống đức tin… thường làm cho đời sống đức tin trở thành một lối sống sợ hãi, dúm dó, an thân, nhiều hơn là một sự sống phong phú và triển nở…

Không kể những người có thiên kiến lệch lạc đối với tôn giáo, chúng ta phải thật sự đau lòng khi thấy có những tấm lòng tha thiết với cuộc đời, tha thiết với vận mạng con người, lại phải tìm cách bênh vực con người bằng cách chống lại Thiên Chúa cũng như chống lại Giáo Hội. Nhìn lại những lời chỉ trích Giáo Hội nhân danh giá trị nhân bản, hoặc nhân danh sự sống, chúng ta có thể nhận ra rằng : trong khi Giáo Hội, ít là trong quá khứ, đã chỉ chú trọng đến những giới luật cấm đoán từ Thiên Chúa về một vài tình huống trong cuộc đời, phá thai, ngừa thai, tự tử…mà chưa triển khai được một hệ giá trị nhân văn về phẩm giá con người, thì những nhà vô thần nhân bản lại lưu ý nhiều hơn tới điều tạm gọi là “con người toàn diện”, lưu ý tới một thứ tạm gọi là “sự sống toàn diện”.

Những người chủ trương phá thai, cái chết êm đềm, ngừa thai, thụ thai nhân tạo… không hẳn là những người gian ác, thích hưởng thụ hoặc ích kỷ,… nhưng có nhiều chủ trương xuất phát từ thái độ “vì con người”, xét theo một khía cạnh nào đó. Chúng ta cần nhìn nhận nơi những chủ trương ấy một phần thiện chí, nhằm mục tiêu làm điều tốt hơn cho con người. Đặc biệt, có thể đó cũng là thái độ muốn chống lại một “bầu khí sự chết” mà Giáo Hội Công giáo không phải không có phần trách nhiệm.

Lý do của một thái độ không ăn khớp giữa lập trường căn bản và cung cách diễn tả trong lòng Giáo Hội, có lẽ, là do một biện chứng sâu xa trong giáo lý của Giáo Hội, biện chứng đời này và đời sau : “…ơn gọi siêu nhiên này nhấn mạnh tính cách tương đối trong sự sống trên trần gian của người nam và người nữ. Thực vậy, sự sống này là một thực tại, không phải là “chót” mà là “áp chót”…[2].

Giáo Hội ủng hộ sự sống ở đời này những lại đặt tầm quan trọng chính yếu vào sự sống mai sau. Hơn nữa, việc tha thiết với cuộc sống mai sau lại thường được diễn tả như đòi hỏi phải “coi thường”, hoặc nhiều khi là “khinh chê” cuộc sống ở đời này. Như thế, nếu phải lựa chọn một trong hai thì dĩ nhiên người Kitô hữu chỉ có thể lựa chọn đời sống mai sau, một đời sống trường cửu, vững bền và chung cuộc.

Thật ra, nếu chúng ta không lý giải được mối tương quan biện chứng giữa hai đời sống ấy, thì chúng ta sẽ rất dễ rơi vào một sự chọn lựa “một mất một còn”, một sự lựa chọn bi đát, đã chọn bên này thì phải bỏ bên kia. Nếu như thế, người Kitô hữu đã chọn cuộc sống mai sau thì phải “chịu vậy” trước những khó khăn, những kỷ luật, những đòi hỏi mà “giá vé” của cuộc sống mai sau đặt ra cho cuộc sống này. Và nếu không lý giải được mối tương quan biện chứng ấy, người ta khó có thể triển khai được một nền văn hóa sự sống toàn diện, có khả năng làm sáng lên những nét đẹp của chính đời sống này. Thực sự, Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất ít triển khai được những giá trị nhân bản mang phẩm chất đặc trưng và tuyệt đẹp của tinh thần Kitô giáo trong cuộc sống hằng ngày. Có khá nhiều giá trị nhân bản gắn liền với đạo lý chính thống của Giáo Hội đã không được ý thức, không được huấn luyện và không được thể hiện một cách rõ nét trong đời sống của Giáo Hội; để rồi, khi Giáo Hội trình bày đạo lý của mình, Giáo Hội lại rơi vào tình trạng “hồn Trương Ba da Hàng Thịt”. Ta có thể nhìn thấy những “bộ xương khô” ngay trong chính đời sống Giáo Hội không ? Chẳng hạn tinh thần sống đạo theo kiểu “đạo sinh hoạt”, đạo luật lệ không có Thần Khí …???

Thật ra mối tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau không phải là mối tương quan bi đát, nghĩa là tương quan loại trừ nhau, nhưng phải là tương quan ủng hộ nhau. Người ta chọn cuộc sống mai sau không phải vì khinh chê cuộc sống này, nhưng là vì rất trân trọng nó. Ngay cả khi chấp nhận làm giảm thiểu hoặc chấp nhận chết đi trong cuộc sống đời này vì cuộc sống mai sau, thì đó cũng không phải là làm giảm nhẹ giá trị của nó, mà chính là làm tăng giá trị của cuộc sống đời này, hay đúng hơn là làm trọn ý nghĩa của cuộc sống đời này. Đó là một thứ biện chứng chứ không phải là một mối tương quan bi đát giữa đời này và đời sau. Như thế, để có thể làm sáng trọn vẹn lên ý nghĩa của cuộc sống đời này và góp phần và một nền văn hóa ủng hộ sự sống, chúng ta phải làm sáng lên mối tương quan biện chứng ấy.

Trong hình ảnh cuộc đấu tranh “chủ - nô” mà triết gia Hégel trình bày, người ta thấy bắt đầu nổi lên một khía cạnh mới về sự sống : ý nghĩa của sự sống cao hơn chính sự sống. Trong cuộc chiến của hai người, kẻ nào dám coi thường sự sống thể lý để lao vào cuộc đấu tranh cho được một cuộc sống làm chủ, nghĩa là một cuộc sống có ý nghĩa chân chính, thì kẻ ấy sẽ là người thắng cuộc. Ngược lại, kẻ ham sống sợ chết, kẻ muốn bảo vệ sự sống của mình bằng bất cứ giá nào, cho dù là một cuộc sống mất tự do như một người nô lệ, thì kẻ ấy sẽ là người thua cuộc. Ý nghĩa sự sống cao hơn chính sự sống, hay nói một cách khác, sự sống con người không chỉ đơn thuần là một sự sống sinh vật, sự sống con người cần đạt đến mức độ sự sống phong phú và cao cả. Từ đây, ta đã có thể thấy thấp thoáng hình bóng của sự sống một cách rõ nét hơn. Sự sống không phải chỉ là sự nhịp đập của con tim, nhưng còn là trọn vẹn phẩm giá của một con người. Sự sống con người chỉ sáng lên giá trị của nó khi nó thực hiện ý nghĩa của đời sống con người.

Dưới ánh sáng của lý trí tự nhiên, người ta cũng có thể thấy được một vài hiện tượng biểu lộ tầm quan trọng của chính ý nghĩa sự sống quan trọng hơn chính sự sống thể lý; chẳng hạn trong tình yêu, hoặc trong việc đấu tranh cho phẩm giá con người, đấu tranh cho tự do, cho bình đẳng, cho sự độc lập của quê hương đất nước… Với những giá trị nhân bản chân chính, người ta có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống; và việc hy sinh ấy được thể hiện một cách anh hùng đối với bản thân của người hy sinh, cũng như một cách đáng kính trọng đối với những người khác.

Như thế, trong ý nghĩa sâu xa của sự sống, người ta thấy sự sống có thể đi đôi với cái chết, sự sống vẫn có thể bao gồm những hình thức hãm mình, hy sinh, hoặc một lối sống khắc khổ nào đó… khi mà những điều đó thực sự nằm trong chiều hướng thể hiện chính phẩm giá của sự sống con người. Một sự sống như thế toát lên vẻ đẹp của nó, và có khả năng chinh phục được nền văn hóa của sự chết. Nói cách khác, khi sự sống thể lý tìm được một ý nghĩa chân chính, cao đẹp, thì cuộc sống con người lại thể hiện chính nó trong một thứ biện chứng của sống và chết: … vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,  chính lúc quên mình là lúc tìm được bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời[3].

Trong chiều hướng ấy, chúng ta có thể nói rằng, theo quan điểm Kitô giáo, sự sống của con người ở đời này phải được nhìn trong tính biện chứng, nghĩa là trong mối liên hệ với cái chết thì mới có thể thể hiện được trọn vẹn giá trị. Bởi vì với Đức Giêsu Kitô, sự chết không còn phải là dấu hiệu sự chiến thắng của sự chết, nhưng một cái chết tự nguyện vì yêu thương lại chính là biểu hiện một một sự sống sung mãn, sự sống có tình yêu lớn hơn mọi tình yêu, tình yêu dám “vét” hết sự sống của mình để trao tặng. Một cái nhìn hời hợt, một thái độ vun quén cho sự sống của mình, tranh đấu cho sự phát triển sự sống của bản thân mình… thực sự không phải là bênh vực sự sống, nhưng chính là coi thường sự sống, là giảm thiểu ý nghĩa sự sống con người xuống hàng sự sống của sinh vật cấp thấp.

Dĩ nhiên, một cái nhìn tự nhiên như nói ở trên chưa đủ để bênh vực sự sống con người theo quan điểm Kitô giáo; vì người ta vẫn có thể nhân danh tình yêu để chọn cái chết êm đềm chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ rằng những điều đó, ít nhiều, nằm trong cùng một chiều hướng ủng hộ sự sống với lập trường Kitô giáo. Điều mà đức Gioan Phaolô II nói đến như là “văn hóa sự chết”, theo tôi, trong số đó có nhiều điều có thể nói được là một nền văn hóa sự sống không toàn diện. Và như thế, nhiệm vụ của Giáo Hội có lẽ cũng không phải chỉ nhằm “chống đối” mà còn là, một cách nào đó, “đồng hành” để đưa đến một nền văn hóa sự sống toàn vẹn hơn. “Đồng hành” cũng có nghĩa là thừa nhận những giá trị chân chính mà những chủ trương “không toàn diện” ấy chủ trương, và tha thiết thăng tiến những giá trị ấy thêm hơn. Nói một cách triệt để hơn và cũng “có thực chất” hơn, đồng hành nghĩa là chính Giáo Hội cũng phải nhìn lại bầu khí chung cũng như những nỗ lực làm cho sự sống phóng phú và sung mãn của Chúa Giêsu trở nên một hệ giá trị nhân bản đẹp và tích cực có khả năng góp phần làm cho sự sống toàn diện được triển nở phong phú.

Giáo Huấn của Kinh Thánh cho ta thấy phẩm giá của sự sống con người, trước tiên, đặt nền tảng trên sự tôn trọng của chính Thiên Chúa :

“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu”. (Kn 1, 13-14)

Và :

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết”.(Kn 2,23-24)

Niềm Tin vào một Thiên Chúa ủng hộ sự sống không thể làm cho sự sống đời này trở nên tầm thường, “nhẹ ký”, bọt bèo… nhưng gia tăng tối đa giá trị cuộc sống ở đời này, qua một sự thay đổi ý nghĩa có tính cách biện chứng. Niềm tin bổ túc cho cái nhìn tự nhiên là làm trọn khát vọng tuyệt đối của con người. Sự sống của con người ở đời này và đời sau, mặc dầu có một sự “cách quãng” do một sự biến đổi thực sự của Chúa, nhưng ta vẫn không bao giờ được bỏ mất tính cách “liên tục” của một sự sống nơi một con người, đời này và đời sau. Chính sự sống của một con người nơi trần gian, hình thành nên ý nghĩa của mình trong dòng lịch sử và được hồng ân của Chúa trợ lực, biến đổi nên cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Trong trọn vẹn hành trình ấy, sự sống, dù là sự sống ở đời này, vẫn luôn luôn được tôn trọng và luôn luôn nằm trong chiều hướng thăng tiến đến mức độ hoàn hảo hơn, cho dù đó là một sự hy sinh, một đời sống khắc khổ….

“Mặc dù nhiều khó khăn và bấp bênh, người nào chân thành mở rộng lòng đón nhận chân lý và điều thiện đều có thể nhờ ánh sáng của lý trí, nếu không kể tới việc nhận biết – theo luật tự nhiên được ghi trong tâm hồn (x. Rm 2,14-15)- giá trị thánh thiêng của sự sống con người, từ khởi điểm tới tận cùng của nó; người chân thành có thể khẳng định quyền của mọi người được thấy người ta tôn trọng toàn vẹn báu vật đầu tiên này của mình…” (T/Đ Tin Mừng Sự Sống, số 2c)

2.5 Những bộ xương khô được phục sinh

Việc loan truyền một nền văn hóa sự sống chắc chắn không thể dừng lại ở một vài lập trường luân lý, một vài lập trường hoặc một vài cách giải quyết những vấn đề trước mắt của cuộc sống, nhưng cần được nhìn lại, cần bị chất vấn, để có thể, nói như Nietzsche, “hát cho tôi nghe những bài ca hay hơn, để tôi mới chịu tin vào Đấng Cứu Độ của họ”.

Một nền luân lý sự sống luôn là cần thiết để định hướng cho những xu hướng dễ dãi quen thuộc của con người, nhưng thường cũng lại dễ rớt vào một thái độ nghiêm nghị khó có thể sống được, hoặc đưa đến kết quả là một sự sống méo mó lệnh lạc. Nói cách khác, khi tìm nền tảng căn bản của sự sống, ngoài việc tìm về những nguồn mạch giá trị luân lý vững bền, người ta còn cần để ý đến phương pháp “xem hạt thì biết cây”.

Lòng tôn trọng sự sống chỉ có thể được triển nở phong phú trong môi trường văn hoá sự sống toàn diện; nghĩa là sự sống của con người chỉ có được tôn trọng khi mà người ta xác tín ý nghĩa của sự sống, khi mà môi trường của một nền văn hóa sự sống có khả năng làm sáng lên những nét đẹp nhân văn của sự sống, khi mà ý nghĩa của cuộc sống toàn diện được minh định một cách thuyết phục. Đức Gioan Phaolô II nói đến một thứ “văn hóa sự sống”, điều đó bao hàm một “hệ giá trị nhân bản”, có một thứ “tinh thần” năng động để có thể nuôi dưỡng hướng dẫn những cách ứng xử trong nhiều tình huống phức tạp. Cũng thế, tài liệu đúc kết Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu lần VIII, họp tại Hàn Quốc, từ 17-23.8.2004 đã chọn chủ đề “Gia Đình Á Châu Hướng Đến Nền Văn Hóa Sự Sống Toàn Diện”.


Lam sao Tin Mừng sự sống của Đức Kitô có thể trở nên một nguồn sinh khí mới cho “những bộ xương khô” ngày hôm nay ? Chắc chắn đó không phải chỉ là một vài lập trường luân lý, nhưng là một sức sống mới của Thánh Thần, một sức sống toàn diện và phong phú có khả năng làm vực dậy chẳng những giá trị tâm linh mà cả những giá trị căn bản  của nền nhân bản Kitô giáo. Nhưng đâu là một “hệ giá trị” của một nền văn hóa sự sống ? Đâu là những hình ảnh đẹp và có sức thuyết phục của một sự ủng hộ cho sự sống toàn diện ? Tôi tin rằng còn có cả một hệ những giá trị nhân bản Kitô giáo mà chúng ta chưa triển khai phong phú được…




 

Hôsê, Ngôn sứ về tình yêu

1. Tiểu sử


Hôsê có lẽ thuộc giòng họ Benjamin (thuộc vương quốc Bắc). Ông rao giảng vào vào quãng giữa năm 750 và 725, tức cuối thời trị vì của Jêrôbôam II và các vua kế vị sau đó. Sứ vụ của ông có lẽ chấm dứt trước khi Samarie thất thủ (-721), vì không thấy dấu vết gì về biến cố ấy trong sách Hôsê.

Thời gian rao giảng của Hôsê là một giai đoạn đen tối trong lịch sử Israel : bên ngoài thì có ngoại xâm (từ -734 đến - 732), bên trong thì loạn lạc. Vì không tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, các vị ông vua thường giao ước với ngoại bang; và kết quả là hầu hết đều bị giết chết (x. Hs 77, 3-10). Hôsê mất tin tưởng vào chế độ quân chủ và thấy rằng một cho thấy chế độ vua đã không còn đạt được mục đích nữa. Về phương diện tôn giáo, đây là một thời kỳ đạo Giavê bị pha trộn với những nghi lễ tôn giáo của Canaan, nhất là việc vương quốc Israel làm ra bò vàng để chỉ Thiên Chúa. Sinh hoạt tôn giáo chỉ có tính hình thức. Đời luân lý thì sa đọa…

Tuân lệnh Chúa, Hôsê trình bày sứ điệp của ông một cách đặc biệt, ông cưới lấy bà Gomer, có lẽ là một người phụ nữ đã bán mình nơi đền thờ Cananeo (x. Hs 4,13-14). Hành vi ấy ám chỉ một sứ điệp tôn giáo : Giavê chính là “chồng” của Dân, một dân nhơ nhớp vì thờ thần Baal. Người đàn bà đó không phải chỉ phụ bạc Hôsê một lần, nhưng là nhiều lần; điều đó cũng là một sự ám chỉ sự phụ bạc của Dân đối với Thiên Chúa. Theo lệnh của Giavê, Hôsê cưới người đàn bà ngoại tình ấy, điều này biểu lộ tình yêu chung thủy của Giavê, tình yêu có khả năng vượt qua được cả sự phản bội của Dân. Rồi trước khi gần gũi với nàng, ông bắt nàng phải “kiêng” để thử thách; điều này tượng trưng cho một cuộc thanh tẩy trong biến cố bị đi lưu đày của Dân.

Nói chung, người ta cho rằng những chuyện nói trên không phải chỉ là một hình thức diễn tả văn chương, nhưng chính là cuộc đời thật của ngôn sứ. Cách thức diễn tả sứ điệp bằng cuộc đời như thế là một phương pháp sư phạm quen thuộc của dân Sêmít, vốn khá bình dân và thực tế, thích sự kiện sống thực hơn là ý nghĩa trừu tượng xa xôi.

Chương II sách Hôsê giải thích ý nghĩa cuộc hôn nhân của ông một cách rõ ràng : Israel đã được Giavê Thiên Chúa yêu thương và cưới lấy như người vợ; nhưng Israel đã ăn ở như người vợ bất trung; Giavê là một người chồng ghen tương, nhưng không phải là thù hận. Ngài vẫn yêu thương Dân bằng một tình yêu trung tín. Ngài sẽ sửa trị Dân, nhưng không phải để loại trừ mà là để phục hồi lại đời sống thân tình như thuở ban đầu.
1.2 Sứ Điệp về tình yêu

Hôsê là người đầu tiên dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để diễn tả tình yêu của Giavê. Sau này các ngôn sứ khác như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và nhất là sách Diễm Ca sẽ khai thác đề tài này nhiều hơn. Với đề tài này, giao ước tôn giáo của Dân Israel với Giavê không còn chỉ là một giao kèo của pháp luật, nhưng là giao ước của tình yêu; điều này chắc chắn cũng chỉ được thể hiện một cách trọn vẹn trong giao ước bằng máu của Đức Giêsu sau này. Trong khía cạnh tình yêu, tôn giáo của Giavê trở thành một thực tại gần gũi, sâu xa, thiết thân hơn với tâm hồn con người. Sự bất trung của Dân là một sự xúc phạm đến tình yêu; và lòng trung tín của Thiên Chúa là một tình yêu mãnh liệt, vững bền, vượt qua cả sự phản bội. Hôsê đặc biệt nhắm đến sự bất trung của giới lãnh đạo trong dân : các vị Vua đã chọn các giải pháp chính trị theo sự suy tính trần tục, và làm cho “phẩm giá” của Dân rơi xuống mức độ phàm tục như các dân khác; các tư tế thì dốt nát và tham lam…

Hôsê đặc biệt nhấn mạnh đến sự bất trung về tôn giáo. Đây là một sự “ngoại tình” của Dân; và họ phải bị trừng phạt. Về phía Giavê, Ngài là một Thiên Chúa ghen tuông, Ngài không chấp nhận chia sẻ tình thương cho ai khác. Ngài trừng phạt Dân, nhưng đó là để sửa dạy chứ không phải để loại trừ. 

Trong sứ điệp của Hôsê, người ta thấy một sự kết hợp táo bạo giữa cái cao vời và sự gần gũi, giữa thánh thiện và nhơ nhớp, giữa tôn giáo và đời thường … Ông diễn tả tình yêu cao vời của Thiên Chúa bằng hình ảnh tình yêu vợ chồng; ông trình bầy sứ điệp tôn giáo bằng chính cuộc sống gia đình của mình; ông dám biểu lộ tình yêu thánh thiện của Thiên Chúa trong thực tại tính dục đời thường nhất của cuộc sống con người. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là đưa Thiên Chúa dính dáng vào nguyên lý phong phú của tính dục một cách “máy móc”, hoàn toàn có tính nghi thức bên ngoài như các nền văn hóa thờ sinh thực khí, nhưng là bộc lộ lòng trung tín, bộc lộ tình yêu với Thiên Chúa trong cả chuyện chăn gối vợ chồng. Trong Mười Điều Răn của giao ước cũ, điều thứ 9 và thứ 10 đã dính dáng tới cả những ước muốn của con người; và ta thấy trong Giao Ước Mới một tính cách tuyệt đối, trọn vẹn dính dáng đến mạng sống, đến cả xác hồn của con người với Thiên Chúa.

Cách thức diễn tả của Hôsê thực hiện được một cuộc “nhập thể” táo bạo và đáng yêu. Thiên Chúa “đáng kính sợ” trở nên một Thiên Chúa “thân mật” trong tình nghĩa vợ chồng; sự thánh thiện của Thiên Chúa được thể hiện ngay cả trong sự nhơ nhớp và gian trá nhất của cuộc sống trần gian và của lịch sử con người. Người ta ghi nhận rằng tính cách nhập thể như thế bộc lộ một tính cách căn bản của đạo thờ Giavê : Giavê không phải là một Thiên Chúa an vị trên trời cao, nhưng dán thân vào thế giới nhiều tục lụy của con người; Dân Israen là Dân được đón nhận giáo huấn từ trời cao để sống giáo huân ấy một cách trung tín trong dòng lịch sử đời thường đầy thăng trầm của đời sống con người. Hành trình ấy của Dân, dĩ nhiên, sẽ có đầy những nhơ nhớp, phản bội, nhưng cũng lại đầy nét kỳ diệu bộc lộ ra phẩm chất kỳ diệu của tình yêu. Dân càng “cứng đầu cứng cổ”, thì tình yêu Thiên Chúa lại càng mãnh liệt.

Riêng đối với Hôsê, tính cách “nhập thể” của đạo Giavê như thế được biểu lộ nơi chính bản thân ông một cách hết sức “bi tráng”, hay nói mạnh hơn, một thứ trớ trêu theo kiểu “dở khóc dở cười” : cao vời đấy nhưng cũng đau thương đấy, cao vời của chính sứ mệnh từ trời và đau thương từ trong cái tự ái căn bản nhất của một người đàn ông, chấp nhận vợ ngoại tình; đón nhận đau thương một cách cao cả đấy, những là một sự cao cả không diễn ra nơi một địa điểm cao cả, nơi “tao đàn” của lịch sử, như Sinai chẳng hạn, mà là ngay trên giường ngủ nhơ nhớp của mình. Vận mạng cuộc đời của ông là : cam chịu những khổ đau trong đời sống gia đình của mình khi mà Dân phản loạn cùng Thiên Chúa; và đón nhận hạnh phúc trong gia đình mình khi mà Dân trở lại cùng Thiên Chúa. Đó là một cuộc đời thể hiện lịch sử ơn cứu độ, thể hiện những ngang trái của hành trình đức tin ngay trong chính đời sống xác thịt cụ thể nhất của bản thân một con người. Đó là một sự hội nhập đời sống đức tin trong hình thức “loài người” nhất và có lẽ cũng nhục nhã nhất của đời sống con người. Sứ điệp lạ kỳ của Hôsê mang ý nghĩa một cuộc sống đức tin trong bi kịch hằng ngày của mình, thể nghiệm những thăng trầm của đức tin trong gia đình và trong xác thịt của mình. Chính khi can đảm sống đức tin trong cái nhơ nhớp và tầm thường nhất của cuộc sống con người mà Hôsê chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông.

Quả thật tình yêu là một bài ca hát nhất của đời người, như chúng ta được nghe trong sách Diễm Ca cũng như trong biết bao nhiêu áng văn thơ nghệ thuật của con người. Nhưng cũng quả thật tình yêu làm cho người ta phải điên lên vì cái ngang trái, bẽ bàng. Tình yêu là có khả năng làm thăng hoa con người nhưng cũng co khả năng “bóp nát con tim” của con người. Trong cuộc sống con người, cái đẹp nhất bao giờ cũng bao hàm một khả năng trở thành cái “xấu” nhất, cái thơ mộng nhất thì cũng bao hàm khả năng trở thành cái đau thương nhất. Chính trong thực tại kỳ diệu ấy mà Đạo của Giavê được thể hiện một cách quá lạ lùng. Điều ghê gớm trong sứ điệp của Hôsê là, ngay cả Thiên Chúa, khi dấn thân vào cuộc chơi với con người, Ngài cũng dám đón nhận hết những hệ lụy của cuộc chơi; và bài ca chiến thắng của Thiên Chúa chỉ có thể cất lên được trong cuộc chơi ấy đầy bi tráng ấy. Sau này, với đức Giêsu chúng ta thấy rõ hơn việc Thiên Chúa tỏ mình ra là chính Ngài, Thiên Chúa thể hiện vinh quang của Ngài không phải khi chứng tỏ quyền năng hủy diệt, nhưng chính là khi Ngài dám đón nhận cái bi đát đau thương của tình yêu bị biến chất :

Đức Giê-su trả lời : "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! 24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."

27 "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !"(Ga 12, 23-28)

 Chính nơi đây, ta hiểu ra được sứ điệp cao cả của Hôsê, vì điều mà ông loan báo thực sự chỉ có thể thực hiện được trong Đức Giêsu Kitô, vị Ngôn Sứ duy nhất và cao cả nhất. Vị Ngôn Sứ Giêsu đã dám chấp nhận bị phản bội ngay nơi nhà của mình :

“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).

Ngài đã chấp nhận sự phản bội của người thân yêu nhất :

“Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”. (Ga 13,18)

Ngài đã chịu bao nhiêu nỗi sỉ nhục, bị chỉ điểm bằng một cái hôn, chịu đội mão gai, chịu nhổ vào mặt, chịu nhạo báng và thách thức, chịu lưỡi đòng đâu thâu trái tim để đổ hết máu và nước… Và điều quan trọng là Ngài đã đi đến cùng, trung tín đến cùng trong chính tình yêu phản bội. Chỉ có Tình Yêu ấy và Con Người ấy mới có thể loan báo sứ điệp chân chính của tình yêu và có thể giải cứu được cho tình yêu của con người.

2. Ngôn sứ của tình yêu ngày hôm nay


Là ngôn sứ của tình yêu ngày hôm nay, nghĩa là dám nhận ra và dám tố cáo được những thế lực, những chiêu bài vu khống tình yêu; nghĩa là dám đi ngược lại lối suy nghĩ và lối sống sa đọa của tình yêu; nghĩa là dám công bố tình yêu của Thiên Chúa ngay cả trong những tình huống tối đen và bi đát nhất của tình yêu con người; nghĩa là, nhờ tình yêu của Chúa, dám yêu và dám đi đến cùng nẻo đường nhơ nhớp và đau thương của tình yêu… Ta có thể nhận ra rất nhiều điều đáng báo động trong lãnh vực tình yêu của con người, những điều đáng báo động, những thật ra chỉ là những “biến tướng” của vấn đề muôn thuở trong tình yêu con người.
2.1 Từ chối nẻo đường yêu thương

Một thi sĩ đã nói rằng : yêu là chết ở trong lòng một tý. Thật không phải một chút, cái “một chút” của thi sĩ chính là cái chết của cả con người được nghệ thuật hóa. Trong đời sống con người, yêu thương là nẻo đường phức tạp và thường là nẻo đường của đau khổ và mất mát. Kinh nghiệm đó bao thế hệ con người đã thấm thía lắm rồi. Tuy nhiên, điều kỳ diệu là con người vẫn không muốn và không thể rời bỏ con đường yêu thương.

Tuy vậy, ta cũng có thể thấy được nhiều trào lưu, kinh tế, văn hóa, chính trị…, công khai hoặc ngấm ngầm, muốn chống lại nẻo đường yêu thương. Con người ai cũng muốn trốn tránh khổ đau, nhưng trốn tránh khổ đau bằng cách từ chối yêu thương thì, bi đát thay, lại là từ chối chính bản thân mình, từ chối cả lý do hiện hữu chân chính của con người mình. Khi mà tính hưởng thụ của con người trở nên “vĩ đại”, khi mà niềm vui của đời người bị rơi vào mức độ tìm sự sung sướng, khi mà người ta mệt mỏi trong cuộc phiêu lưu của tình yêu và muốn tìm một sự an nhàn cho đời mình,… thì chắc chắn tình yêu trong cuộc sống con người cũng bị giảm nhẹ, hoặc bị méo mó. Khi đó, cái méo mó của tình yêu lại chính là cái méo mó lớn nhất của đời sống con người : cái méo mó trong hình ảnh một con người không còn biết yêu thương. Một sự sống không yêu thương là sự sống của sinh vật, chỉ còn biết hưởng thụ cho bản thân mình…

Người ta từ chối nẻo đường yêu thương bằng nhiều cách khác nhau, nhưng tựu chung, đó là một thái độ thực dụng; nghĩa là từ chối liên lụy vào hành trình đời người, để đi tìm cho mình một phương thế khác bảo đảm đời mình mà không có tình thương : sa vào kỹ thuật sống, đặt điều kiện yêu để loại trừ bản thân của nhau, và không còn dám phiêu lưu với một ngôi vị con người….
2.2 Những thứ tình yêu méo mó

Càng ngày càng có những trục trặc trong đời sống hôn nhân mà lý do không hẳn là do hôn nhân, nhưng là do một thứ quan niệm, một lối sống sai lạc của tình yêu :
- Đi tìm sung sướng chứ không phải đi tìm hạnh phúc trong tình yêu …
- Tình yêu tính toán : Chúng ta có thể thấy một hiện tượng càng ngày càng phổ biến trong xã hội, đó là một thứ tình yêu tính toán. Nghe các buổi tư vấn trên sóng radio, chúng ta thấy người ta giải quyết những vấn đề hôn nhân hoàn toàn theo cách suy nghĩ của lợi ích, chứ không phải là thể hiện một tình yêu cao cả. Xã hội ngày nay không còn có thể đi được “ba mức độ” của tình yêu :
1) Yêu vì những điều hay của nhau
2) Yêu vì đồng hội đồng thuyền
3) Yêu là tình yêu hoàn toàn cho không, vị lợi ích hoàn toàn của người mình yêu chứ không tìm gì cho mình.

Những thứ tình yêu Eros thuần túy, như một thứ “đam mê điên loạn”; hoặc là một thứ dửng dưng như một phản ứng ngược lại, như lời của những bài hát “Tình là tình tuy không mà có, tình là tình có cũng như không”; “tình yêu đến, em không mong đợi gì; tình yêu đi, em không hề nuối tiếc…”
2.3 Kinh tế lấn lướt tình yêu

Cuộc sống xã hội hiện đại cuốn hút con người vào một chuỗi những liên hệ kinh tế, giống hệt như là một giây chuyền sản xuất, trong đó con người trở thành một con ốc, một sợi xích không thể thoát ra được. Trong xã hội hiện đại, con người không thể không có việc làm, con người không thể không có địa vị, bằng cấp, tiền bạc…, những điều đó không phải là những cám dỗ riêng lẻ mà ta có thể chống lại một cách dễ dàng, nhưng lôi kéo theo hệ lụy của toàn bộ cuộc sống. Chẳng hạn, ở Tây phương, người ta đành mất vợ/chồng chứ không thể mất việc. Mất vợ/chồng thì còn có thể tìm lại vợ hay chồng khác, còn mất việc thì sẽ mất tất cả, mất nhà, mất xe, mất bảo hiểm, mất bạn bè… và cuối cùng (hay trước nhất) thì cũng sẽ mất vợ/chồng mà thôi. Giống hệt như một người làm việc giây chuyển, trở thành như một cái máy, không còn có khả năng sáng tạo; thì cũng thế, trong vận hành của cuộc sống hiện đại, người ta không còn có thể lựa chọn thái độ sống chính mình; người ta không còn có thể can đảm, oai hùng, chọn giải pháp giữ vợ/chồng, cho dù bị mất tất cả… Tình yêu không còn là điều lớn nhất, vì tình yêu mà không có việc làm thì cũng không thể làm gì được…

Trong xã hội duy kinh tế, mọi thứ khác đều trở thành sản phẩm phụ : trí thức cũng chỉ để phục vụ cho kinh tế, chính trị cũng phục vụ kinh tế, một xã hội mất căn tính, chỉ vì người ta bị cuốn hút vào vòng xoáy của xã hội tiêu thụ. Như thế, rõ ràng thế giới duy kinh tế hiện nay cũng đang biến tình nghĩa con người thành nên một sản phẩm phụ; một thứ trang hoàng cho cuộc sống… thêm vào được thì tốt, nếu không thích hợp thì bỏ nó đi, tháo tình yêu ra khỏi cỗ xe của đời mình, để nó có thể tiếp tục chạy trong hệ thống xã hội duy kinh tế.

Ngôn sứ của tình yêu hôm nay là người làm chứng cho sự cao quí của tình yêu, và nhất là, nhờ tình yêu của Chúa Giêsu, khẳng định tính “tuyệt đối” của tình yêu, có khẳ năng vượt qua được cả một thứ tình yêu bị phản bội…




 

Giêrêmia, Ngôn sứ  về đời sống tâm linh

1. Tiểu sử


“Giêrêmia” có nghĩa là “Gia vê tôn trọng”. Ông sinh khoảng 650-645 tcn, tại làng Anatot, gần Giêrusalem, trong một gia đình tư tế. Giêrêmia là một người có tính tình hiền lành, đa cảm, dễ dàng rung động trước tình yêu. Ông sống độc thân và thích một cuộc đời yên tĩnh. Tất cả những đường nét về con người của Giêrêmia hoàn toàn trái ngược với sứ vụ mà ông phải đảm nhận.

Khoảng năm 18 tuổi, Giêrêmia nhận ra ơn gọi làm ngôn sứ. Ơn gọi ấy không phải xuất phát từ một cuộc xuất thần hay một thị kiến lạ thường nào, những do một ý thức sống động và rất thực trong đời sống tâm linh của ông; nghĩa là trong đời sống thân mật với Chúa, trong những giờ đàm đạo nội tâm với Chúa, trong một cuộc chiến đấu nội tâm với sứ mệnh Chúa trao phó… để rồi trở thành một xác tín sâu xa; mặc dù, theo tính tình tự nhiên ông vẫn muốn chối từ.

Giêrêmia muốn nại nhiều lý do để từ chối. Ban đầu ông cho là vì mình quá trẻ (Gr 1,6); rồi ông thấy có quá nhiều thù địch. Nhưng cuối ông cũng không thể nào từ bỏ được sứ mệnh ngôn sứ. Đó là định mệnh cuộc đời của ông. Ông kêu lên rằng mình bị Giavê dụ dỗ. Cuộc đời của Giêrêmia, trước khi là một bi kịch trong lịch sử, thì đã là một bi kịch trong tâm hồn :

“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con”. (Gr 20,7).

Cuộc đời ông ngập tràn đau khổ, ông bị chống đối từ mọi phía, ngay cả từ những người trong họ hàng dòng tộc. Ông chỉ được người thư ký Baruch và một vài người bạn hiểu và thông cảm.
Giêrêmia họat động tại nước Giuđa, qua ba đời vua : Giôsia (640-909); Gioakim (609-598);  Sêdecia (598-587). Nói chung, thời các vị vua này, đời sống tôn giáo sa sút : thờ quấy, người ta thờ Giavê nhưng cũng thờ Baalim-Astarot, một cặp thần gốc Canaan mang người ta phải giết trẻ thơ để dâng cúng, dân chúng giữ đạo hình thức; đời sống luân lý sa sút… Giêrêmia lên án gắt gao. Ông loan báo sẽ có một cuộc xâm lăng từ phương Bắc (Gr 2,6). Thời Sedecia, ông khuyên nên thần phục Babylon… Trong tất cả mọi sự, Giêrêmia luôn gặp sự chống đối, bị đe dọa tính mang, bị đủ mọi thứ bách hại… Thêm nữa, ông lại bị bênh tật, và hết sức cô đơn.
1.2 Sứ điệp của Giêrêmia

Chúng ta chỉ lưu ý đến một “sứ điệp” của Giêrêmia, sứ điệp về mối tương quan thân mật với Giavê, đặc biêt là sứ điệp từ chính bản thân của ông.

Giêrêmia xác tín vào ơn gọi của mình, một ơn gọi có nguồn gốc siêu nhiên từ chính Chúa mà ông không thể chống cưỡng được :

Gr 20,7-11: “Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con .Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên : "Bạo tàn ! Phá huỷ !" Vì lời ĐỨC CHÚA mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.9Có lần con tự nhủ : "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa." Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được !
   “Con nghe biết bao người vu cáo :"Kìa, lão 'Tứ phía kinh hoàng !', hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi !". Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: "Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó !". Nhưng ĐỨC CHÚA hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo,sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề :đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.

Ông xác tín, cũng như Samuel, mình được Giavê chọn từ trước, được thánh hiến từ trong lòng mẹ; được đón nhận Lời của Chúa để công bố cho Dân.

Giêrêmia là một con người có lòng đạo đức sâu xa, thể hiện đặc biệt trong một đời sống thân mật với Chúa. Ông trò chuyện thân và với Chúa, tâm sự với Ngài với tất cả tâm tình mà người ta có thể nói những lời của Giêrêmia như một cuốn tự thú như của thánh Âu tinh :

“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài quả là chính trực, con đâu dám tranh luận với Ngài, nhưng chỉ xin thưa về một vài phán quyết : Tại sao kẻ gian ác thịnh đạt trên đường đời, tại sao mọi quân phản bội cứ bình an vô sự ? Ngài trồng chúng, chúng liền bén rễ, chúng phát triển rồi sinh hoa trái. Môi miệng chúng tuy kêu cầu Ngài, nhưng lòng dạ thì lại ở xa. Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài biết con và Ngài thấy rõ, Ngài dò xét lòng con, lòng con ở bên Ngài. Xin tách biệt quân gian ác, như tách chiên để đưa tới lò sát sinh. Xin dành riêng chúng ra chờ ngày tàn sát. Cho đến bao giờ xứ sở còn tang tóc, và cỏ rả ngoài đồng còn héo khô ? Vì tội ác của dân cư trong xứ mà thú vật và chim muông đều biến sạch. Chúng nói : "Người không thấy các đường nẻo của tôi". Ngươi chạy với người đi bộ mà còn nhọc mệt, thì chạy đua với ngựa làm sao ? Nếu ngươi chỉ thấy an tâm trong một xứ thái bình, thì trong bụi rậm sông Gio-đan, an tâm làm sao được ? Phải, ngay cả anh em ngươi và nhà cha ngươi, chính chúng cũng phản bội ngươi; sau lưng ngươi, chính chúng nặng lời chỉ trích ngươi : đừng tin chúng khi chúng nói ngon nói ngọt với ngươi”. (Gr 12,1-6)(Xc. 15,10-21; 17,14-18; 18,18-23; 20, 7-18…)

Rất nhiều lần ông nói lại lời của Gia vê nói với chính ông hoặc nói với Dân của Ngài: “Ta ở với con” :: “Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi", - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” (Gr 1,8; Xc. Gr1,19; 15,20; 30,11; 42,11; 46,28 ). Những điều đó làm cho hình ảnh Giavê trong sách Giêrêmia không còn dáng vẻ như một ông chủ nói với tôi tớ, nhưng như một người bạn, người bênh đỡ, người mà ông có thể tâm sự được.

Lời khẩn nài của ông với Chúa tha thiết đến độ như chính Chúa cũng sợ sẽ phải chấp nhận lời ông van xin :

Gr 7,16: ” Còn ngươi, ngươi đừng chuyển cầu cho dân này, đừng cất tiếng than vãn và dâng lời nguyện xin cho chúng, cũng đừng nài nỉ Ta, vì Ta sẽ chẳng nghe ngươi đâu”.

Gr 11,14 : “Còn ngươi, ngươi đừng cầu nguyện cho dân này, cũng đừng lên tiếng kêu van và khấn xin cho chúng, vì khi chúng lâm nạn mà kêu cầu đến Ta, Ta cũng chẳng thèm nghe”.

Gr 14,11: “ĐỨC CHÚA phán với tôi : "Ngươi đừng cầu nguyện cho dân này được may lành nữa !”

Cũng chính vì một sự thân mật với Giavê như thế, Giêrêmia có thể dám tỏ bầy sự bất tuân phục của ông với những mệnh lệnh quá đáng của Giavê : Có lần con tự nhủ : "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa." (Gr 20,9).
               
Ông có một ý thức sâu xa về tội lỗi, ông muốn cho người ta thấy rõ sự xấu xa của tội cũng như thấy rõ bản chất con người vốn yếu hèn, không biết cầu nguyện… Con người cần ý thức điều đó để trông cậy vào Chúa trọn vẹn hơn. Về phần mình, mặc dầu bị thử thách và chịu bách hại, Giêrêmia kêu trách và than vãn, nhưng những điều đó không làm cho ông xa rời Thiên Chúa, mà ngược lại, còn thúc dục ông sống phó thác vào Thiên Chúa hơn nữa; và sự thân mật của ông với Giavê, qua những thăng trầm ấy lại càng gắn bó chặt chẽ hơn. Ông gọi Giavê là “Niềm Hy Vọng của Israen” (Gr 14,8;17.13;50,7). Về phía Giavê, Ngài như thể cần tới một người thân thiết để trao những việc khó khăn, cần đến một người thân thiết để có thể “làm phiền” đến nhau, nên Ngài lại như càng xô đẩy Giêrêmia vào cuộc chiến mỗi ngày mỗi gay go hơn. Giêrêmia chấp nhận để cho Thiên Chúa chộp bắt bản thân mình, chấp nhận trả giá bằng khổ đau để đón nhận được sâu xa hơn một Thiên Chúa yêu thương.

Điều này khá giống như mối tương quan của Chúa Giêsu với Chúa Cha : mỗi lần Chúa Giêsu tình nguyện đi vào công cuộc cứu độ bằng lối hạ mình, chịu khổ, thì Chúa Cha lại cất lời “Đây là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”; và Chúa Giêsu, trong khi đón nhận Thánh Ý Chúa Cha một cách đau khổ nhất trong vườn Cây Dầu thì lại thốt nên lời “Abba, Cha Ơi” một cách trọn vẹn nhất của một Người Con.

Nhờ kinh nghiệm cá nhân về một đời sống thân mật với Chúa, Giêrêmia tiên báo về một giao ước mới, nơi đó, những người được tham dự vào cuộc phục hưng của Giavê sẽ ký giao ước với Chúa trong tim chứ không phải trên bia đá, trong tình yêu sâu xa chứ không phải tính toán theo hình thức lề luật bên ngoài :

Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, 32 không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập ; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. 33 Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. 34 Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia : "Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa”.(Gr 31, 31-34)

Quả thật, cuộc đời của Giêrêmia là một sứ điệp sống động của mối tình thân mật giữa con người với Thiên Chúa, một mối tình thân mật đến độ dám làm phiền nhau. Ông quả thật là “người linh hứng của đêm tối”; và nẻo đường của thánh Gioan Thánh giá sau này được gợi hứng và nuôi dưỡng do sứ điệp tình thân của Giêrêmia.  

2. Ngôn sứ về đời sống tâm linh cho ngày hôm nay

2.1 Thế giới đánh mất ý nghĩa của sự thân mật

“Lối sống nhanh” là một nét của xã hội hiện đại. Càng ngày con người càng đạt tới nhiều sự tiến bộ vĩ đại. Sự tiến bộ ấy giống như người ta kéo một đầu giây thun đi quá xa, khiến cho sợ giây càng ngày càng căng hơn. Con người “chân” đạt đất những “đầu” thì cứ phải vươn lên cao hơn. Bộ máy kinh tế, khoa học… có khả năng “lôi đầu” con người đến những tầm cao mới, nhưng lại chẳng bao giờ có thể cất lên được “bàn chân” thực tế của một con người đầy những giới hạn, đầy những yếu đuối, bệnh tật, cả về thể xác lẫn tinh thần. Con người trong xã hội tiến bộ không còn có thể thảnh thơi thưởng thức cuộc đời, thấm sâu những giá trị của cuộc sống.

Thế giới ấy cũng có tác dụng lôi con người ra khỏi cõi lòng, khỏi những tình cảm “lãng mạn”, để buộc con người phải đối đầu với những thách đố gay gắt, buộc con người phải giải quyết những xáo trộn và bất ổn xẩy ra hằng ngày trong cuộc sống. Thế giới của tâm hồn càng ngày càng trở nên viễn vông. Tình bạn trở thành nhất thời, tình yêu trở nên thực dụng, tình nghĩa gia đình cũng càng ngày càng bị xói mòn vì những toan tính hưởng thụ sung sướng chứ không phải cùng nhau đi tìm hạnh phúc…

Cuộc sống con người càng ngày càng trở nên hời hợt. Những điều “thiêng liêng” của tâm hồn, những “tình bạn nối khố”, những lưu luyến vì quê hương, đất mẹ chẳng còn có ý nghĩa gì ... Nguy cơ của cuộc sống hời hợt làm cho cuộc sống trở thành như những thành tựu ngẫu nhiên, trong dòng nước vô tình, trong cơn lốc thời cuộc… nơi đó không còn có những tâm hồn có tâm huyết với cuộc đời, đau đáu với niềm khát vọng,

Nhưng chính lúc, này, hơn lúc nào hết, con người khao khát một tình nghĩa thân mật, sâu đậm… mà người Kitô hữu có thể tìm thấy một sự “thuận lợi” để công bố một tình yêu thương thân mật của chính Chúa Giêsu đối với con người.
2.2 Tính thân mật vượt qua não trạng chuẩn hóa

Cuộc sống văn minh hiện đại cũng là một cuộc sống được chuẩn hóa, chuẩn hóa “tận răng”; nghĩa là người ta phát triển một kỹ thuật sống để thích nghi, để thành công chứ không còn là một nghệ thuật sống như niềm vui thể hiện nét độc đáo của bản thân. Nhu cầu chuẩn hóa xen vào quá nhiều lãnh vực trong cuộc sống, từ việc dạy học, việc bán hàng, việc tiếp khách, việc tham dự tiệc tùng… Chúng ta có thể thấy trong chiến dịch xây dựng nếp sống văn minh đô thị cả những biểu ngữ tuyên truyền như “lên tiếng trước khi gặp người khác” !!!

Cuộc sống chuẩn hóa làm cho cuộc sống được, một cách nào đó “hợp thời”, những lại làm cho con người không còn “hợp” với chính mình nữa; và đồng thời làm cho sự gặp gỡ con người với nhau, thật sự, cũng chẳng còn một sự “hợp tình hợp nghĩa” nữa. người ta không còn sống với nhau bằng tâm tình thật, và cũng không bao giờ có thể chấp nhận con người thật của nhau. Người ta chỉ biết nhận định nhau qua phong cách, qua những tiêu chuẩn chung…. Khi có một người, đưa 10 tâm thiệp đến mời các anh em trong cộng đoàn; rồi vì thiếu một tấm thiệp, người đó đành phải lấy một tờ giấy khác, viết tạm vài dòng để mời… thế mà tấm giấy đó lại được chọn để gửi cho tôi, thì chắc chắn tôi sẽ vui mừng lắm, vì mình được coi như người nhà, thân mật, có thể vượt qua được  nghi thức…
2.3 Tình thân mật vượt qua não trạng hợp lý

Cuộc đời con người không phải lúc nào cũng diễn tiến một cách hợp lý. Triết học hiện sinh, một trào lưu rộng lớn trong thế kỷ XX đưa nguyên tắc của sự phi lý vào trong cuộc sống, hiện sinh của con người đầy những chuyện nghịch lý. Sống là đối diện và đón nhận sự nghịch lý của cuộc đời. Điều quan trọng là cách đón nhận của mỗi người. Triết gia Kierkegaard cho thấy con người chỉ có thể vượt qua sự nghịch lý bằng đức tin. Gióp và nhất là Abraham là mẫu người đã có thể vượt qua sự nghịch lý bằng đức tin. Abraham tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, một Thiên Chúa đã hứa Isaac sẽ là tổ phụ một dân tộc đông đảo, và Thiên Chúa đòi sát tế Isaac. Chính lòng tin ấy đã giúp ông đón nhận mệnh lệnh Chúa một cách “bình thản” lạ lùng, sự bình thản chỉ có được nơi một khuôn mặt của niềm tin.

Có một tác phẩm nổi tiếng và thuộc vào loại best seller, đó là cuốn “ Mười Điều Nghịch Lý của Cuộc Đời”. Cuốn sách rất hay để giúp người ta đón nhận những nghịch lý thường xuyên trong cuộc sống. Nhưng dù sao, tư tưởng của tác giả cũng chỉ có thể  giúp người ta thêm can đảm đón nhận mà thôi.

Sứ điệp của Giêrêmia lại cho thấy có một “nguyên tắc” khác, chính sự thân mật giúp con người có thể đón nhận được nghịch lý của cuộc đời. Chẳng hạn, người cha/mẹ cả đời hy sinh cho con; nhưng lại chẳng bao giờ được đền bù cho xứng đáng. Làm cha mẹ, ai cũng thừa biết chuyện đó. Nhưng người ta lại cứ sẵn sàng lao vào cuộc, sinh con, nuôi con, hy sinh cho con… để rồi cuối cùng lãnh nhận hết mọi khổ đau cho đời mình đến độ có thể hy sinh cả bản thân vì con… Tình yêu luôn là như thế ! Sự thân mật khiến cho người ta có thể “làm phiền” nhau, và cũng chính sự thân mật giúp người ta có thể đón nhận sự “phiền hà” của nhau một cách tự nguyện. Đó là điều mà thế giới ngày nay càng ngày càng đánh mất.

 


 

Amos, ngôn sứ về trách nhiệm xã hội

1. Tiểu sử


Tên Amos, nguyên chữ là Amosyah, nghĩa là Gia vê mang vác. Tên đó cho thấy một phần nào cuộc đời một vị ngôn sứ dấn thấn mang vác trách nhiệm với đời. Amó quê ở làng Tequa, nằm ở phía Nam Giêrusalem khoảng 18 cây số, và ở phía Nam Bethlehem khoảng 8 cây số. Ông làm nghề chăn chiên và châm sung (Am 7,14). Thế những Amos lại hoạt động ngôn sứ ở phương Bắc.

Người ta ghi nhận trong sách Amos một sự nhậy cảm của những người chăn đoàn vật ở nơi đồng vắng, luôn lắng nghe và nhận ra được những tiếng động nguy hiểm cho đoàn vật của mình. Cũng thế, trên hành trình rong ruổi chăn dắt đoàn vật, ông gặp được nhiều lái buôn và cũng lắng nghe được nhiều tin tức đáng chú ý, những âm mưu chính trị từ những đế quốc. Từ đó, ông nhận ra được tiếng nói của Chúa để dấn thân hoạt động. Ý thức về ơn gọi của Amos là một sự thôi thúc bên trong. Ông nhận ra mình khác với các ngôn sứ chuyên nghiệp (3,3-8), ông đón nhận ơn gọi như một sự thúc đẩy không sao cưỡng lại được, chứ không phải là một công việc được phân chia.

Amos là một con người hoạt động, có thể nói ông là người “chiêm niệm trong hoạt động” và là người dấn thân vào cuộc chứ không phải là một nhà thần bí.

Trong thời kỳ hoạt động của Amos, Vương quốc phía Bắc nằm dưới quyền cai trị của Giêrôbôam II (760-750). Đó là một thời kỳ thịnh vượng, vì nhà vua vừa mới chiến thắng quân Aramei, mở được con đường thông thương ra biển Đỏ, nên việc buôn bán trở nên thuận tiện, thương mại quốc tế phát triển, kinh tế phồn thịnh. Chính hoàn cảnh như thế đã tạo nên một nếp sống sa đoạ, đặc biệt là vấn đề luân lý xã hội. Người ta đua nhau làm giầu, tạo nên bao nhiêu sự bất công cho những người nghèo; đồng thời cũng học đòi thói ăn chơi trác táng.

Amos là một vị ngôn sứ mạnh mẽ nhất trong việc tố cáo những tệ nạn xã hội, bằng một ngôn ngữ thô tục, nhưng hết sức mạnh mẽ.

2. “Sứ Điệp” của Amos


Chúng ta chỉ lưu ý đến một vài khía cạnh trong cuộc đời và sứ điệp của Amos như một bài học về sự dấn thân lãnh nhận trách nhiệm với đời, với xã hội, đặc biệt là với người nghẻo…
2.1 Người lãnh trách nhiệm với đời

Amos là người phương Nam, sinh sống ở phương Bắc. Ông là một con người “nhập cư”. Bình thường những người nhập cư là những người thiếu trách nhiệm xã hội hơn hết. Họ thường không tôn trọng truyền thống văn hóa của địa phương và có thể làm bất cứ điều gì để kiếm lợi cho mình. Tuy thế, trong trường hợp Amos, chúng ta lại thấy một sự dấn thân đầy trách nhiệm với vương quốc. Ông bị các ngôn sứ chính thức chê bai và muốn đuổi ông về phương Nam… nhưng Amos, bất kể những lời dèm pha ấy, ông xác tín ơn gọi của mình và lao vào cuộc, mạnh mẽ tố cáo những tệ nạn của xã hội :

 Bấy giờ ông A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết Ên, sai người đến gặp Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, và thưa : "A-mốt âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. 11 Vì A-mốt nói như thế này : "Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ." 12 Bấy giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt : "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm ! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều."(Am 7, 10-13).
2.2 Con người dấn thân vì niềm xác tín ơn gọi

Amos cảm nhận được sự khác biệt giữa ơn gọi và sứ mệnh của mình khác với những “ngôn sứ chuyên nghiệp”; ông thi hành sứ vụ ngôn sứ không phải như chọn một nghề, không phải như một chỗ an thân, như một công việc để kiếm sống, nhưng do một sự xác tín bên trong, một sự thôi thúc của chính Chúa trong tâm hồn. Chúng ta có thể thấy nơi Amos một thái độ của một con người dấn thân :

“Hai người có đồng hành được chăng,
nếu đã không hẹn với nhau từ trước ?
Trong rừng, sư tử có gầm lên chăng, nếu nó không có mồi?
Từ trong hang, sư tử tơ có rống lên không,
nếu nó không vồ được mồi ?
Dưới đất, chim sẻ có sa vào bẫy chăng, nếu không có mồi nhử ?
Bẫy có bật lên khỏi mặt đất chăng, nếu nó không bắt được gì ?
Giả như tù và rúc lên trong thành, lẽ nào dân lại không sợ hãi ?
Giả như tai hoạ xảy ra trong thành,
lẽ nào lại không do ĐỨC CHÚA ?
Vì ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng không làm điều gì
mà không bày tỏ kế hoạch của Người
cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết.
Sư tử đã gầm lên : ai mà không sợ hãi ?
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri ? (Am 3,3-8)
2.3 Một con người dấn thân vào một môi trường xa lạ với mình

Chẳng những Amos là người dấn thân vì trách nhiệm với nơi định cơ của mình, nhưng ông còn là một con người can đảm dấn thân vào một môi trường xa lạ với mình. Là một con người của đồng quê, ông lao vào nơi đô thị để tuyên sấm; là một mục đồng, ông thẳng thắn nói những lời sấm sét với những người có ăn học; là một người nghèo hèn, ông nhẩy xổ vào các nơi sang trọng để loan báo điều Thiên Chúa sẽ làm. Ta có thể tưởng tượng, hình ảnh Amos, một con người to lớn, gân guốc sẵn sàng vung gậy lên để đánh đuổi thú dữ, nay nhẩy vào các phòng tiệc, giơ tay múa chân đe dọa và nói những lời cảnh cáo bằng một ngôn ngữ “man rợ”…

- Nơi những bàn tiệc xa hoa, ông nói :
  Hãy nghe lời này, hỡi các mụ bò cái xứ Ba-san trên vùng núi Sa-ma-ri ! Các ngươi ngược đãi kẻ yếu hèn, chà đạp người nghèo đói, và bảo các ông chồng của mình : "Đem rượu lại đây cho ta uống !"Với danh nghĩa là Đấng Thánh, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã thề rằng : Đây sắp đến những ngày người ta kéo các ngươi đi bằng lao móc và lấy lưỡi câu lôi những kẻ theo sau các ngươi. Qua những lỗ hổng của tường thành bị phá, các ngươi sẽ phải chui ra, mạnh ai nấy chạy, và sẽ bị dồn về phía Hác-môn - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.(Am 4,1-3)

- Nơi nhưng đoàn hành hương :
Am 4,4-7 : “ Hỡi con cái Ít-ra-en, cứ đến Bết Ên mà phản bội, đến Ghin-gan mà phản bội nữa đi ! Sáng sáng hãy tiến dâng hy lễ và cứ ba ngày lại dâng cúng lễ thập phân. Cứ đốt bánh không men làm lễ tạ ơn, và những lễ phẩm tự nguyện các ngươi dâng, hãy rêu rao cho người ta biết, bởi các ngươi thích làm như vậy - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Phần Ta, Ta đã làm cho các ngươi phải đói nhăn răng ở hết mọi thành phố, thiếu bánh ăn ở mọi nơi các ngươi cư ngụ; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.Ba tháng trước mùa gặt, chính Ta đã ngăn mưa lại không cho đổ xuống trên các ngươi; Ta cho mưa xuống trên thành này, nhưng không cho mưa xuống trên thành khác; cánh đồng này được mưa tưới đượm, còn cánh đồng kia phải khô cháy vì thiếu mưa”

- Ông tuyên bố những án phạt nặng nề, đặc biệt cho vương quốc phía Bắc :
Am 2,6-8 : “ĐỨC CHÚA phán thế này : Vì tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ, Ta sẽ không rút lại bản án. Vì chúng bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày. Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ. Vì cả con lẫn cha đi lại với cùng một ả, mà làm ô nhục danh thánh của Ta. Vì y phục người ta cầm cố, chúng nằm lên trên, ngay bên mọi bàn thờ, và rượu của người bị nộp phạt, chúng đem uống tại đền thờ Thiên Chúa của chúng.”
2.4 Một “ngôn sứ xã hội”

Amos được mệnh danh là một “ngôn sứ xã hội”, hay là một người viết phóng sự xã hội. Ông không ngại đụng chạm vào những thế lực mạnh mẽ nhất. Không cần được công nhận, chẳng những không cần một sự ủy nhiệm nào của loài người, những ông còn sẵn sàng tuyên sấm trong một tư thế khó được chấp nhận nhất theo lẽ thường của cuộc đời. Nơi ông, ta không một lý do nào, dù là hợp lý theo suy nghĩ, dù là hợp luật theo phong tục, có thể làm ông ngại ngần, e dè, chùn chân…

- Ông chống lại các thẩm phán và quan lại :
Am 5,7.10-12 : Khốn cho những ai biến lẽ phải thành ngải đắng và vứt bỏ công lý xuống đất đen. Chúng ghét người sửa trị nơi cửa công và thù oán kẻ ăn ngay nói thật. Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu hèn và đánh thuế lúa mì của họ, nên những ngôi nhà bằng đá đẽo các ngươi đã xây, các ngươi sẽ không được ở; những gốc nho ngon ngọt các ngươi đã trồng, các ngươi sẽ không được uống rượu của chúng. Bởi Ta biết : tội ác các ngươi nhiều vô kể, tội lỗi các ngươi nặng tầy trời : nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào ức hiếp kẻ nghèo hèn tại cửa công.

- Ông tố cáo những kẻ buôn bán bất chính
Am 8,4-6 : “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ : "Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra ? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán."

- Ông chửi rủa những người làm giầu bằng sự bất công:
Am 6,4-7 : “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ !      Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn !

* Điều tai hại là những người ấy tưởng rằng với những lễ tế nghi ngút tại đền thờ, họ đã hoàn thành nghĩa vụ tôn giáo, hoặc có thể xoa dịu cơn giận của Giavê. Tôn giáo trở thành cớ bào chữa cho đời sống luân lý, thành nơi xuê xoa những bất công của đời sống xã hội. Ông tuyên bố Giavê sẽ không chấp nhận lễ tế của những người như thế :

Am 5,21-24 “Lễ lạt của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường ; hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu ... những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn.

3. Trở nên ngôn sứ dấn thân trong cuộc sống hôm nay

3.1 Ra khỏi bản thân

Dấn thân trước hết là “ra khỏi bản thân”. Nơi Amos, chúng ta có thể thấy một tấm gương của sự “ra khỏi bản thân”; đó là dám ra khỏi ngôi nhà an toàn của mình, ra khỏi quê hương xứ sở quen thuộc của mình, ra khỏi tất cả những gì có thể tạo nên một lớp vỏ an thân cho mình.

Ngày xưa, các bạn trẻ, nhất là những người có được cơ may ăn học một chút, thường nhận ra trách nhiệm của mình đối với làng xóm, với quê hương đất nước. Những bạn trẻ ngày xưa, lớp 11,12, hoặc là sinh viên, thường mang những hoài bão, có tâm huyết với đời; biểu hiện ra bằng việc lãnh nhận trách nhiệm với làng xã, hoặc tổ chức những cuộc biểu tình để đòi quyền lợi cho người nghèo… Những tinh thần như thế ngày nay không còn nữa. Chúng ta có thể nhận ra một thái độ rất phổ biến của giới trẻ ngày nay : lo tìm cho mình một chỗ béo bở, không muốn dính vào những chuyện rắc rối chung quanh nhà, sẵn sàng đánh mất phẩm cách của mình để đổi được một cơ may thăng tiến… Đó là một vấn đề có tính toàn cầu chứ không phải chỉ là chuyện ở Việt Nam. Ta có thể nói chuyện với một thanh niên khoảng chừng 30 phút, là có thể nhận ra được, bình thường, một sự “buồn nôn” của một kẻ đầy tài năng, đầy điều kiện thuận lợi, những chỉ biết nghĩ đến những cái gì của mình, cho mình, vì mình. Một thanh niên đầy nhựa sống mà không có một chút tâm huyết với đời, đó chẳng phải là một điều gì đáng buồn cho thế giới hôm nay ? 

Nhiều bạn trẻ ngày hôm nay an tâm vì một lối sống “lành mạnh”, không ăn chơi, không tội phạm. Thật ra, điều đó không đủ. Lành mạnh không phải là một lớp vỏ an toàn nhưng phải là một sức sống; lành mạnh không phải là vô nhiễm trước những tật xấu, nhưng còn phải là khả năng chống lại tật xấu. Một xã hội không còn cung cấp đủ lý tưởng cho thanh niên, chắc chắn là một xã hội đã bắt đầu sa đọa. Cuộc sống không có sức mạnh vượn lên của sự thiện, không có tình nghĩa quảng đại của tâm hồn, không có niềm xúc động vì những người đau khổ chung quanh mình… thì không thể lành mạnh được, cho dù chưa có tội phạm hình sự xẩy ra. Chúng ta có thể nói được rằng sự xuống cấp về đạo đức của giới trẻ trong xã hội Việt Nam hiện nay, một phần, là do người trẻ hiện nay đã không còn được cung cấp đủ lý tưởng, đủ tâm huyết, đủ niềm hăng say dấn thân vào trách nhiệm xã hội chung quanh mình.
3.2 Dấn thân đến cùng

Cũng thế, một xã hội không có đủ tâm huyết như sinh lực sống, thì chỉ còn là những phong trào, những chiến dịch theo mùa. Người ta cố công để phát động những chiến dịch; nhưng chúng ta có thể thấy ngay những vận hành đó không có đủ sinh lực để đi đến cùng. Hành trình cuộc đời con người hiện nay chỉ còn là những bận tâm né tránh những phiền hà làm cản trở sự thăng tiến cá nhân, thích ứng để tồn tại một cách thảm hại, chứ không phải là một sức sống dám dấn thân đến cùng. Có lẽ cũng chính thái độ sống như thế, người ta không còn đủ năng lực để dán thân đến cùng ngay cả trong gia đình, với người vợ, người chồng hay đứa con của mình.

Trên hành trình cuộc đời, cuối cùng hết, mỗi người sẽ được mời gọi và sẽ phải “mang vác”, “cưu mang” một ai đó, ít nhất là đứa con của mình. Sống với con người là đón nhận một sứ vụ không có giới hạn; là mang vác một phận người. Không thể “cứu” một con người bằng một chút hoa lá, nhưng luôn luôn phải bằng máu và nước mắt. Khi không đủ năng lực dấn thân đến cùng, người ta không thể đi vào một “công trình dài hơi”, đặc biệt là trong “công trình” cưu mang một phận người.
3.3 Sống là dám liều

Ra khỏi bản thân, tự nó đã là một sự liều lĩnh, nhưng đó là một “ngõ thoát” duy nhất để hoàn thành cuộc đời người. Nhát đảm, trong ngọn nguồn, cũng đồng nghĩa với không yêu thương. Tình yêu thương, trong ngọn nguồn, có nghĩa là di chuyển trọng tâm ra khỏi bản thân, đặt tầm quan trọng của lý do hiện hữu nơi ai khác. Tình yêu là dám liều từ trong tâm. Khi người ta không sẵn sàng, nghĩa là người ta còn bận tâm về mình, nghĩa là người ta chưa ra khỏi bản thân, và đó chính là thái độ nhát đảm sâu xa nhất. Không phải những con người sợ ma, sợ rắn luôn là những người nhát đảm; nhưng chính kẻ không dám dấn thân mới là kẻ nhát đảm thực sự trong chính bản thân và trong chính vận mạng cuộc đời mình.

 

 


 

Giôen, Ngôn sứ  về đời sống mới

 trong Thánh Thần

1. Tiểu sử


Người ta chỉ biết một điều về tiểu sử vị ngôn sứ này, đó là ông là con của Petuel, như trong đoạn giới thiệu đầu sách ngôn sứ đã nói. Sứ điệp của Giôen có những điều ra như trái ngược với giáo huấn của các ngôn sứ khác, đó ông không tố cáo tội của Dân nữa; và ông đề cao một nền phượng tự, ông công nhận một hiệu quả hầu như có đặc tính bí tích của các nghi lễ thống hối và ít nhấn mạnh đến một thứ tôn giáo tại tâm như các ngôn sứ khác.

Đối với Giôen nghi lễ là những biểu hiện có giá trị của lòng thống hối và những biểu hiện đó là điều cần thiết cho lòng thống hối. Dĩ nhiên là nghi lễ thống hối không thể thay thế được thực tại sám hối trong tâm hồn, như chúng ta quá quen thuộc với lời của Gioen được dùng trong mùa Chay :

“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ”. (Ge 2, 13).

Lý do có lẽ là vì sứ điệp của Giôen được công bố vào thời kỳ sau lưu đày, vào khoảng năm 400 tcn, khi đó có trào lưu nhấn mạnh đến phượng tự. Mặt khác, những đường nét gắn với nghi lễ phượng tự cũng có thể được cắt nghĩa như là một lối bắt chước phượng tự về mặt văn chương.

Điều chúng ta lưu ý nơi vị ngôn sứ này, đó là một lời tiên báo về ngày Giavê đổ tràn Thần Khí của Ngài xuống trên mọi xác phàm. Giôen là ngôn sứ của lễ Hiện Xuống, mặc dầu có lẽ ông cũng chỉ nghĩ đến việc Giavê ban Thần Khí cho con cái Israel :

"Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm.
Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.
Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta
trên tôi nam tớ nữ.” (Ge 3,1-2)

Ta biết rằng Thần Khí chính là hồng ân lớn lao và quan trọng nhất của Thiên Chúa trong Cựu Ứơc, như các ngôn sứ, những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử ơn cứu độ, đã được lãnh nhận. Và hồng ân lớn lao dư dật của Thiên Chúa, không phải chỉ trên một vài nhân vật, mà là trên mọi người, việc đó được chính Môsê đã mong ước :

“Nhưng ông Mô-sê trả lời : "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi ĐỨC CHÚA ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !" Vì ĐỨC CHÚA đã ban Thần Khí của Người trên họ”. (Ds 11, 29)

Ta hiểu rằng, theo quan niệm của người Do Thái, con người ta không phải chỉ có thân xác và linh hồn, nhưng còn có thần trí (hay thần khí) :

“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm.” (1 Tx 5, 23)

Thần trí, Ruah hay Pneuma có rất nhiều nghĩa như : gió, hơi thở, tinh thần, nguyên lý sống,… Thần trí là chẳng những là nguyên lý làm cho một thân xác được sống; nhưng hơn nữa, thần trí còn là lý do hiện hữu, là tinh thần, là “đường nét” tinh thần của một con người. Thần trí ở đây hơi giống như nghĩa chữ “tinh thần” hiểu theo quan niệm ngày nay, hoặc giống một thứ não trạng chi phối một cách sâu xa cách suy nghĩ của một con người,… Do đó, sự hiểu biết một con người không phải chỉ là sự suy biết của lý trí, hay của linh hồn; cũng như sự hiểu biết của người đó đối với ai khác, với những vấn đề nào khác, một cách sâu xa, là nhờ thần trí, đó là hiểu cái bên trong bằng cái bên trong :

“Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người ? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa”.(1 Cr 2,11).

Với Thần Khí của Chúa chi phối, con người có thể suy nghĩ, lựa chọn, toan tính mọi sự việc  trong  sự hướng dẫn huyền nhiệm của chính Chúa :

“Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.” (1 Cr 2,12)
Như thế chính thần trí mới thực sự là yếu tố quan trong trong hành trinh của một đời người, là sinh lực sống, là hồn sống, là lẽ sống, là một đường lối suy nghĩ căn bản chứ không phải là trí khôn suy biết, hoặc lý luận hợp lý như quan niệm của người Hy Lạp.

Để hiểu hơn một chút ý nghĩa của thần trí trong quan niệm của người Do Thái, chúng ta có thể phân biệt những mức độ của sự hiệp nhất hai con người với nhau như sau :
= Trong mức độ thân xác, người ta có thể chiếm hữu được người khác bằng sức mạnh, bắt thân xác người khác phải làm những điều mình truyền lệnh… những đó chỉ là một sự hiệp nhất cấp thấp.
= Trong mức độ linh hồn, hay lý trí, ta có thể khuất phục người khác bằng những lý lẽ mạch lạc, hợp lý, thuyết phục mà người khác không thể nào cãi lại được. Điều này cao hơn mức độ thứ nhất, nhưng dẫu sau vẫn không phải là một sự hiệp nhất lý tưởng. Người khác có thể chấp nhận lý lẽ của ta, nhưng lòng vẫn không muốn, tâm vẫn muốn chống đối…
= Trong mức độ thần trì, khi một tinh thần nào đó xâm nhập vào được người khác, nó không khuất phục nhưng làm cho “hứng” lên nhờ thần trí; khi đó người khác không bị khuất phục, cho dù là thân xác hay trí khôn, những là tìm được một sự hứng khởi tự phát, do chính sức mạnh từ bên trong; đồng thời, sự hiệp nhất này cũng không tạo nên tình trạng đồng nhất… mà là một sự hiệp nhất trong cùng một hứng khởi, trong cùng một tinh thần, trong cùng một lẽ sống… Thần trí là nẻo đường mà người ta tương quan với nhau một cách sâu xa nhất, nhưng cũng là một cách tự do nhất; thấm nhuần nhất nhưng lại có thể thể hiện trong sự phong phú khác biệt nhất.

Như thế, để con người ta sống theo ý Chúa thì điều quan trọng nhất là con người nhận được chính Thần Khí của Chúa. Chính vì thế, các ngôn sứ, một khi nhận được sức mạnh của Thần Khí Chúa, thì vẫn không bị tê liệt con người của chính mình, nhưng hoạt động với kiến thức và văn hóa, với tính tình và sở thích của riêng mình, trong sự thấm nhuần tinh thần của Chúa, để bộc lộ thánh ý của Chúa một cách phong phú và đa dạng, một cách hiệp nhất sâu xa chứ không phải là hình thức và theo một khuôn khổ nhất định.

Một sự hiệp nhất trong thần khí hay thần trí thì không phải chỉ là một sự giác ngộ, một cơn xuất thần để hiểu biết, nhưng được bộc lộ rõ rệt nhất trên hành trình lịch sử, trong việc lựa chọn những thái độ cần thiết trong những tình huống khác nhau, trong cả những tình thế nan giải hoặc tiến thoái lưỡng nan, lựa chọn đúng như Chúa muốn. Cách hiểu bằng lý trí luôn rơi vào những tình huống trái ngược khó có thể hóa giải được : nguyên tắc với thực hành; hợp lý với hợp tình,… Thực sự, trong hành trình lịch sử, nghĩa là trong sự phức tạp, huyền nhiệm của cuộc đời mà không một nguyên tắc tổng quát nào của lý trí có thể đảm nhiệm trọn vẹn, thì chỉ có thần trí, Thần Khí của Chúa, như là một tinh thần –chứ không phải nguyên tắc- và như chính sự đồng hành liên lụy của Chúa mới thực sự là nhu cần căn bản nhất của con người. Đó là những đường nét của tinh thần Sê-mít và cũng là những đường nét Chúa chọn để nhập thể và thực hiện nhiệm cục cứu độ của Ngài.

Như thế, chúng ta hiểu được ngay chính ơn cứu độ của Chúa Giêsu cũng cần được hoàn tất trong “triều đại của Thần Khí”. Không có Thần Khí của Chúa, giáo thuyết và hành động, ơn cứu độ của Chúa Giêsu cũng có nguy cơ trở thành pháo đài, thành lô cốt ngăn chận dòng lịch sử.

“Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”.(Ga 6,63)

“Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi”.(Rm 2,29)

“Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống”.(2 Cr 3,6)

Như thế, chúng ta hiểu được tầm quan trọng của biến cố khai mạc triều đại của Thần Khí. Sách Tông Đồ Công Vụ sẽ cho chúng ta thấy chính thức ngày khai mạc của thời đại Thần khí :

“Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho”.(Cv 2,1-4). . . . . .

Rồi thánh Phêrô giải thích sự kiện đó :

“…Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: Thiên Chúa phán : Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ…” (Cv 2, 16-18).

Và chúng ta cũng hiểu được tầm quan trọng của Thần Khí Chúa trong đời sống đức Tin. Thần Khí mà Chúa ban cho chúng ta không phải là một điều gì đó thêm vào cho niềm tin, có thì tốt, không có cũng chẳng sao. Thực sự không có Thần Khí Chúa, mọi giá trị căn bản của Kitô giáo đều có nguy cơ bị biến chất và không còn thực sự là sự sống Thần Linh của Chúa nữa :

“Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : "Áp-ba ! Cha ơi !" (Rm 8,15)

Chúng ta cũng có thể xác định một nét trong hoa trái của Thần Khí, đó là một sự hiệp nhất trong đa dạng mà Thần Khí Chúa thực hỉện trong Giáo Hội :

“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”. (1 Cr 12, 12-13).

Quả thật, lời tuyên sấm của Giôen là một lời tuyên sấm hết sức đặc biệt, lời tuyên sấm xác định việc Thiên Chúa sẽ đáp ứng ước vọng sâu xa nhất của con người, được kết hợp với Chúa trọn vẹn, ước vọng mà Maisen, vị ngôn sứ cao cả nhất trong Cựu Ước đã nói lên, và là lời tuyên sấm về ngày khai triều đại Thiên Chúa thực sự.

2. Ngôn sứ về Thần Khí ngày hôm nay


Các ngôn sứ trong Cựu Ước chỉ lãnh nhận Thần Khí Chúa khi nào, bao lâu và với mức độ đến đâu là tùy Chúa và ý muốn của Chúa trong từng trường hợp. Chúng ta thấy nhiều khi các ngôn sứ phải chờ đợi và nài xin mới nhận được : Samuel không biết được mình sẽ xức dầu cho ai trong các con ông Gese (1 Sm 16); Nathan phải trừu lại sự đồng ý với David về việc xây đền thờ cho Chúa (2 Sm 7); Giêrêmia phải cầu nguyện đến 10 ngày đêm mới nhận được mạc khải của Chúa để tuyên sấm (Gr 42,4-7).

Chỉ có Chúa Giêsu mới lãnh nhận trọn vẹn được Thần Khí của Thiên Chúa; Thần Khí Chúa hiện diện trong lực Mẹ Maria cưu mang, Thần Khí ngự xuống và không bao giờ rời xa Người. Do đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu biểu hiện những nét kỳ diệu của nhân cách Ngài trong mọi nơi mọi lúc, và trong cả những trường hợp bình thường nhất.

Còn với các Kitô hữu, chúng ta đã nhận được Thần Khí Chúa trong bí tích Rửa Tội, đặc biệt là trong bí tích Thêm Sức. Thiên Chúa đã hứa trao ban Thần Khí của Ngài cho một Kitô hữu, và Ngài không bao giờ rút lại lời hứa đó (không bao giờ được Rửa Tội hay lãnh bí tích Thêm Sức lần thứ hai). Tuy nhiên, mức độ lãnh nhận được Thần Khí Chúa thì lại tùy vào thái độ của mỗi người : người ta có dám tin vào quyền năng của Chúa hay không, có dám lăng nghe và vâng theo sự chỉ dẫn của Thần Khí Chúa hay không, có dám buông bỏ để chừa “phần” làm việc cho Thần Khí Chúa hay không.

Người Kitô hữu làm ngôn sứ cho đời sống mới trong Thánh Thần nghĩa là :

- Tin vào Thánh Thần trong Giáo Hội và không bao giờ được quyền bi quan về tương lai của Giáo Hội, như thể không còn cách nào cứu vãn được. Không bao giờ được quyền thất vọng, ngay cả trong những hoàn cảnh xem ra “bế tắc” nhất của thời khắc lịch sử;

- Tin vào hoạt động của Thánh  Thần nơi anh chị em của mình. Trong niềm tin ấy, không bao giờ có con người “bỏ đi” hay “vô phương”, “bó tay”. Điều đó không chỉ có nghĩa là tình thương của Chúa có khả năng đón nhận hết mọi tội lỗi của con người, nhưng còn có nghĩa là những con người ấy vẫn có thể được biến đổi thực sự, không phải nhờ vào con người hay nhờ vào bất cứ điều gì, mà là nhờ vào quyền năng của Thánh Thần;

- Tin vào chính mình, khi mà đôi khi cả một đời phải trăn trở với một tật xấu mà không thể khác phục được. Làm ngôn sứ cho đời sống mới trong Thánh Thần, nghĩa là dám kiên nhẫn với chính mình, kiên nhẫn trước tiên trong niềm tin, niềm trông cậy và trong một chút nỗ lực của bản thân.
2.1 Tin vào Thánh Thần trong Giáo Hội

Một vấn đề gây nhiều tranh luận. Từ cuối thế kỷ XIX, A. Harnack đã phân biệt hai loại thừa tác viên trong Giáo Hội sơ khai : những thừa tác viên theo đoàn sủng[4]và những thừa tác viện quản trị[5]; và tác giả đề cao những thừa tác viên theo đoàn sủng. Điều này, được nhiều học giả khai thác đến độ tách biệt và đối lập giữa "đoàn sủng" và "định chế" hay "phẩm trật trong Giáo Hội".

Tuy nhiên, sau thời gian quá độ, giờ đây, trên phương diện lý thuyết, người ta đồng ý được với nhau rằng, tự bản chất, các ân huệ theo đoàn sủng và ân huệ thuộc phẩm trật cùng là ơn huệ của Thánh Thần. Hai loại ân huệ ấy không thể mâu thuẫn nhau, nhưng phải bổ túc, hỗ trợ cho nhau. Công Đồng Vatican II nói :
"Thánh Thần xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội bằng nhiều ơn huệ khác nhau, theo phẩm trật và đoàn sủng..." {GH.4}.
2.2 Tin vào hoạt động của Thánh Thần trong nếp sống hằng ngày
            Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội {số 12} khẳng định ơn đoàn sủng của Thánh Thần nhằm phục vụ Giáo Hội, đồng thời cũng khẳng định đó là những ơn huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, tỏ lộ ra một cách "bình thường" mà nhiều người có thể được đón nhận để mang lại lợi ích và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội :
"Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các tác vụ, và trang bị họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc tín hữu "phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài" {1 Cr 12, 11}, khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội, như lời chép rằng "Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích" {1 Cr 12, 7}. Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và yên ủi, vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội..."
            Đây là một bản "đúc kết" những cuộc tranh luận trong Công Đồng. Chúng ta biết rằng, trong Công Đồng đã có hai khuynh hướng định nghĩa đoàn sủng. Khuynh hướng thứ nhất[6] cho rằng đoàn sủng là một hồng ân đặc biệt, lạ thường, được Thiên Chúa ban một cách khác thường[7]và cho rằng đó là cách hiểu truyền thống trong Giáo Hội. Khuynh hướng thứ hai[8] cho rằng đoàn sủng là ân "thường sủng"[9]được Thiên Chúa ban để làm phát triển cộng đoàn Giáo Hội. Cuối cùng, lập trường thứ hai được chấp nhận; và Công Đồng đề cập đến vấn đề này khi bàn về chức vụ ngôn sứ của Dân Chúa, như chúng ta thấy trong đoạn văn kể trên.
            Từ nền tảng đó, Công Đồng cũng cho thấy đoàn sủng có thể được ban cho nhiều người, trong một thời gian dài {khác với đặc sủng}, cụ thể trong trường hợp tổ phụ các hội dòng cùng những người thuộc hội dòng của vị sáng lập ấy.
2.3 Tin vào sự hiệp nhất trong đa dạng của Thần Khí
            Thánh Thần là nguồn mạch của sự phong phú bất tận, những đồng thời cũng là nguyên lý tạo nên một sự hiệp nhất sâu xa. Đó là sự hiệp nhất trong đa dạng, một tình trang “hòa nhi bất đồng”. thiết nghĩ rằng một sự lo ngại quá đáng về trật tự, về sự đồng nhất, về sự giống nhau… cũng là một biểu hiện của một thái độ không dám tin vào sự hiệp nhất mang tính chất đặc biệt của  Thần Khí.




 

Mi Kha, ngôn sứ của người nghèo

1. Tiểu sử

Mikha sinh tại Moreset (1,14), một miềm đồi núi phía nam Juđa. Có lẽ vì quê hương bị tàn phá do cuộc xâm lăng của Assyria, nên ông lên Giêrusalem và hoạt động tại đó. Mikha sống cùng thời với Isaia và hai vị ngôn sứ có lẽ biết nhau.
Thời đó, đế quốc Assyria hùng mạnh, đã tàn phá Israel năm 722-721 và công hãm Giêrusalem năm 701.
Sứ điệp của Mikha khá giống với các ngôn sứ khác,
- Thực thi công lý như Amos
- Yêu thích lòng nhân từ như Hôsê;
- Tin tưởng vào Giavê như Isaia.
Mikha trình bày sứ điệp dưới hình thức một cuộc xét xử của Giavê.

2. Ngôn sứ bênh vực người nghèo

Mikha cũng là một ngôn sứ tố cáo những bất công để bênh vực người nghèo như Amos. Ông tố cáo những thành phần có chức quyền và có tiền bạc, họ lợi dụng ưu thế của mình mà làm thiệt hại cho người nghèo :
- Ông tố các các ngôn sứ “công chức” vì sự lạc quan giả tạo của họ, có tính cách theo thời, và cả những mưu mẹo trục lợi của họ :
Mk 3,5-8 :
 “ĐỨC CHÚA phán thế này
về các ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc :
Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô : "Bình an",
còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng,
thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ.
Vì thế, các ngươi chỉ có đêm mà không có thị kiến,
chỉ có tối tăm mà không bói toán được gì.
Đối với các ngôn sứ, mặt trời sẽ lặn, và ngày sẽ ra tối tăm.
Các nhà chiêm thị sẽ xấu hổ, bọn bói toán sẽ bẽ mặt hổ ngươi,
tất cả bọn chúng phải che môi bịt miệng
vì Thiên Chúa không đáp lời.
Phần tôi, trái lại, nhờ thần khí của ĐỨC CHÚA,
tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường
để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch,
cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó.
- Ông đau đớn tố cáo những gian lận, lừa đảo trong việc buôn bán
Mk 6,10-12 :
“Hỡi nòi gian ác, làm sao Ta chịu nổi
những của cải chiếm được bằng dối gian,
ê-pha thiếu hụt, xấu xa ghê tởm ?
Ta coi là liêm chính thế nào được
những bàn cân gian trá, những túi đựng các quả cân gian?
Hạng giàu có trong thành thì hung hãn,
còn dân thành lại quen ăn gian nói dối,           
miệng hay nói lời lẽ gian tà.
 Ồng chúc dữ cho những người chủ bóc lột tá điền
Mk 2,1-5 :
Khốn thay những kẻ nằm trên giường
toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác !
Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện
vì nắm sẵn quyền bính trong tay.
Muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy,
muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt.
Chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn gia nghiệp.
Vì vậy, ĐỨC CHÚA phán như sau :
Ta toan tính giáng hoạ xuống gia tộc này
khiến các ngươi không rút cổ ra được,
cũng không thể ngẩng đầu bước đi, vì thời đó sẽ là thời tai hoạ.
Ngày ấy, người ta sẽ ngâm thơ chế giễu các ngươi,
sẽ cất lên bài ca than vãn : "Chúng tôi đã bị huỷ diệt hoàn toàn,
phần đất của dân tôi đã vào tay kẻ khác.
Than ôi, người ta lại tước đoạt của tôi,
và chia đồng ruộng của chúng tôi cho quân phản nghịch!"
Vì vậy, trong đại hội của ĐỨC CHÚA sẽ chẳng ai chăng dây chia phần cho ngươi.
- Ông tiên báo một cuộc tàn phá dành cho những kẻ bóc lột những con nợ không có khả năng chi trả :
Mk 2,8-10 :
“Các ngươi đã nổi lên như kẻ thù chống lại dân Ta,
các ngươi giựt áo choàng ra khỏi áo dài
của những kẻ trở về từ mặt trận
đang điềm nhiên đi đường.
Phụ nữ của dân Ta, các ngươi đuổi khỏi mái nhà thân yêu của họ.
Còn con cái họ, các ngươi đã vĩnh viễn lấy đi
niềm vinh dự Ta đã ban cho chúng.
Hãy chỗi dậy lên đường !
Đây không phải là chốn nghỉ ngơi,
vì ngươi ra ô uế, nên sẽ bị tiêu diệt,
một cuộc tiêu diệt vô cùng thảm khốc.

- Ông đe dọa các người lãnh đạo bóc lột người dân
Mk 3,1-12
3,1 Và tôi nói : Vậy hãy nghe đây,hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, nhiệm vụ của các ông
há chẳng phải là thi hành công lý ?
Thế mà các ông lại ghét điều lành, ưa điều ác,
các ông lột da khỏi thân người ta và lóc thịt khỏi xương của họ.
Chúng ăn thịt dân tôi và lột da khỏi mình họ ;
xương của họ, chúng đập gãy tan.
Chúng chặt ra từng mảnh như thịt trong chảo, trong nồi.
Bấy giờ chúng kêu lên cùng ĐỨC CHÚA,
nhưng Người chẳng đáp lời.
Thời ấy, Người ngoảnh mặt làm ngơ
vì chúng đã làm điều gian ác.
………..)
Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en, là những kẻ ghê tởm công lý
và bẻ cong những gì ngay thẳng.
Các ngươi xây Xi-on bằng máu,
dựng Giê-ru-sa-lem bằng bất công.
Các thủ lãnh của nó xét xử dựa theo quà cáp,
các tư tế dạy bảo vì tiền, các ngôn sứ bói toán vì bạc.
Chúng ỷ vào ĐỨC CHÚA mà nói :
"ĐỨC CHÚA chẳng ở giữa chúng ta hay sao ?
Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống chúng ta đâu !"
Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm lỗi
mà Xi-on sẽ thành ruộng cày,
Giê-ru-sa-lem nên chốn tan hoang,
và núi Đền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp.
và Mk 7,3 :
“Bàn tay chúng thạo làm điều ác :
thủ lãnh chuyên phiền hà, thẩm phán quen đòi quà hối lộ,
bậc trưởng thượng buông lời độc ác
luân thường đạo lý bị ngửa nghiêng ;
Như thế, ông cũng thực sự là một ngôn sứ bênh vực người nghèo như Amos.

3. Ngôn sứ của người nghèo

Tuy nhiên, có lẽ Mikha làm sáng lên một điều sâu xa hơn, theo cảm nhận của tôi, mà ta tạm gọi là “ngôn sứ của người nghèo”. Mikha còn nói tới thái độ khiêm nhường và trung tín bước đi theo đường lối của Giavê; đó là một thái độ của người nghèo, những người bé mọn trước nhan của Giavê. Mikha tuyên sấm về việc Giavê triệu tập số còn sót lại bằng những con chiên què, những người bị tan tác tha phương và không còn bám víu vào loài người[10].
3.1 Trước tiên, chúng ta thấy Mi-kha tuyên báo số còn sót lại, tức những người được Giavê  yêu thương và cứu thoát là những người bé mọn nhất, tầm thường nhất trong Dân, những người đau khổ :
“Ngày ấy - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -
chiên nào què, Ta sẽ quy tụ lại,
chiên nào đi lạc xa hay bị Ta giáng hoạ, Ta sẽ tập hợp về.
Ta sẽ dùng chiên què làm số sót,
biến chiên đi lạc thành dân tộc hùng cường.    
ĐỨC CHÚA sẽ cai trị chúng tại núi Xi-on
từ nay đến muôn đời muôn thuở.
Phần ngươi, hỡi Tháp của Đàn Chiên,
hỡi Đồi của con gái Xi-on,
vương quốc của con gái Giê-ru-sa-lem
và vương quyền thuở trước, sẽ lại trở về với ngươi.
Tại sao bây giờ ngươi lại kêu la ầm ĩ ?
Nơi ngươi nào chẳng có vua sao ?
Hay cố vấn của ngươi đã bị tiêu diệt
khiến ngươi phải quằn quại đau đớn
như người phụ nữ lúc sinh con ?
Hỡi con gái Xi-on, hãy đớn đau quằn quại,
hãy kêu la như phụ nữ lúc sinh con,
vì giờ đây, ngươi phải đi khỏi thành và ra đồng ruộng mà ở.
Ngươi phải đi đến tận Ba-by-lon
và tại đó ngươi sẽ được cứu thoát ;
ở đó ĐỨC CHÚA sẽ chuộc ngươi lại từ tay kẻ thù ngươi. (Mk 4, 6-10).
Đó là lời tuyên sấm của Chúa, lời tuyên sấm mang lại niềm hy vọng cho những người bé mọn nhất, những người không còn biết bám víu vào đâu để rồi đặt tất cả cuộc đời mình, tương lai của mình vào tay Thiên Chúa. Đám dân còn sót lại, theo sự chọn lựa của Chúa, chính là những người nghèo hèn nhất, những người bị loại ra bên lề của cuộc sống.
Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en
cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.(…)
Bấy giờ giữa chư dân, số còn sót lại của nhà Gia-cóp
sẽ như sương ĐỨC CHÚA gửi đến,
như sương móc trên đám cỏ xanh.
Nó không cậy trông ở người thế,
chẳng mong chi nơi con cái loài người.(Mk 5,2.6)
Lời tuyên sấm của Mikha cho thấy nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa, đường lối của Thiên Chúa khác hẳn cách suy nghĩ bình thường của con người.
3.2 Dân bé mọn ấy, những con chiên què ấy, sẽ được Chúa triệu tập lại, cũng nhờ một đấng Mêsia xuẩt hiện ở một nơi nhỏ bé mà người ta không chờ đợi. Vâng, ngưòi thứ nhất trong sống còn sót lại ấy chính là một vị vua Messia, sinh ra tại thôn Bethlehem, một thôn nhỏ nhất trong các  thành phố của Giuđa, thậm chí có nhiều lúc còn không được kể như một đơn vị hành chính.
“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,
ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa,
từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện
một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.
Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en
cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.
Người sẽ dựa vào quyền lực ĐỨC CHÚA,
vào uy danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Người
mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp,
vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất.
Chính Người sẽ đem lại hoà bình.
Khi Át-sua xâm nhập xứ sở và giày đạp đất nước chúng ta, chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám thủ lãnh chống lại chúng.
Họ sẽ dùng gươm mà cai trị đất Át-sua,
lấy giáo mà cai trị xứ Nim-rốt.
Nhưng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi Át-sua
khi nó xâm nhập xứ sở, và giày xéo lãnh thổ chúng ta”. (Mk 5,1-5)
Ta biết rằng Bethlehem vẫn được coi là nơi nhỏ bé. Sách Giosuê, khi kể danh sách các thành của Giuđa, bản văn tiếng Hipri không kể đến Bethlehem, (Gs 15,58); chỉ có bản Hy lạp mới thêm vào. Thế nhưng, Ngôn sứ cho thấy, dù nhỏ bé như thế, nhưng Bethlehem lại có một nguồn gốc vững chắc “có từ thuở trước”. Có người cho rằng Mikha có ý nói đến gốc gác xa xưa của triều đại David… nhưng cùng có người hiểu  về nguồn gốc thiên giới của Đấng Messiah. Dầu sao đi nữa, người ta thấy có thể chấp nhận nghĩa thứ hai, theo nghĩa sung mãn, để nói về nguồn gốc thiên giới.
Truyền thống Do Thái cũng như Kitô giáo đều đồng thanh giải thích lời Mikha trực tiếp chỉ Đấng cứu Thế, và chỉ có ý nghĩa ấy thôi :
“Họ trả lời : "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 'Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2,5-6).
3.3 Nhiệm cục cứu độ trong truyền thống Kinh Thánh
Điều Mikha tuyên sấm thực sự là một đường nét quan trọng trong nhiệm cục Cứu Độ của Thiên Chúa. Đạo Cứu Độ, đạo về một Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em… được bộc lộ trong chiều hướng logích của tình yêu, đạo ấy được minh chứng trong  chính đường lối cứu độ luôn dành ưu tiên cho những người nghèo, những người bé mọn. Thiên Chúa là Cha yêu thương, không tìm danh giá cho mình hay tìm xoa dịu tính tự ái của mình, nhưng tỏ tình yêu đặc biệt cho những đứa con bé mọn nhất, những người rớt vào những hoàn cảnh khó khăn nhất, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Dnl 7,7:
 ĐỨC CHÚA đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân.
Is 29,19
Nhờ ĐỨC CHÚA, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi,
và vì Đức Thánh của Ít-ra-en,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng.
Is 66,2
Tất cả những vật ấy, chính tay Ta đã làm.
Tất cả những vật ấy đều là của Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Kẻ được Ta đoái nhìn : đó là người nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ.
Tv 116,6
Hằng gìn giữ những ai bé mọn,
tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.
3.4 Nơi cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu

Sứ vụ của Đức Giêsu rõ ràng là nhằm tới những người nghèo: Khởi đầu sứ vụ Chúa đã được đầy Thánh Thần để đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo {Lc 4,16,21}; đức Giêsu chỉ vui mừng một lần duy nhất khi nhận ra nhiệm cục cứu độ của Chúa Cha được thể hiện : “Ngay bấy giờ được Thánh Thần tác động, đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói . . . “ {Lc10, 21}. Kiểu sống của Chúa Giêsu la lê la với những người nghèo. . .  Ngài luôn bênh vực những người nghèo và xác định phẩm giá của người nghèo dựa vào lòng tôn trọng của chính tình thương của Chúa. Niềm vui mừng lớn nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu chính là khám phá ra thánh ý yêu thương đặc biệt của Chúa Cha dành cho những người bé mọn nhất. Chúng ta tạm kể ra một vài đoạn trong Kinh Thánh :
Lc 10,21
Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói : "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Mt 18,10 :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Mc 9,42 :
"Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.
Lc 14,13 :
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.
1 Cr 1, 26-31 :
26 Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; 28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng : Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa. 1 Cr 1, 26-31

2. Ngôn sứ của người nghèo trong thời đại hôm nay

2.1 Tôn trọng phẩm giá của người nghèo
Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp, và cũng là của thế giới, như Platon và Aristote,  đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng. Một khi không phân biệt được phẩm giá và tài năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ khinh thường những người có ít tài năng trong cuộc đời; hoặc là người ta muốn “cào bằng” tất cả, ăn đồng chia đều trong tất cả mọi công việc, dù đó là những công việc thực sự không thích hợp. Các triết gia Hy Lạp thấy rằng các người phụ nữ và người nô lệ có ít trí khôn, nên đương nhiên cũng phải là những người thấp kém trong đô thị. Ngược lại một số trào lưu xã hội lại muốn cào bằng bằng cách phân chia tất cả mọi người phải và được làm những công việc như nhau.
Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa :
Mt 18,10
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
            Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là sự sẵn sàng cho đi ít nhiều những gì thuộc về chính bản thân mình :
Lc 21,3-4 :
“Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
Tình yêu thương bộc lộ trong một sự tôn trọng phẩm giá con người không đương nhiên đồng nghĩa với làm việc bác ái hay từ thiện. Con người cần cơm ăn áo mặc, cần nhà cửa và nhiều phương tiện khác,… những trên hết con người cần được người khác đón nhận như một con người, cần được sống và chết như một con người, cần được là và được làm người, chứ không phải như một con vật hay như một món đồ chơi của kẻ khác.
Là ngôn sứ của người nghèo ngày hôm nay, trước tiên chính là làm sáng lên phẩm giá của một con người; và nhất làm sáng lên phẩm giá của người nghèo.
2.2 Sức mạnh của lời chứng của người nghèo
*1. Nguyên lý mang lại sức sống cho Giáo Hội

Nếu trở lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận ra một sự khác biệt giữa các nguyên - lý -sống, xét như động lực làm sinh động sức sống của Giáo Hội, đó là sự khác biệt giữa : giáo huấn, làm gương, và làm chứng.
Trong ba trăm năm đầu của Giáo Hội, nguyên lý nuôi dưỡng đời sống đức tin Kitô giáo nằm trong lời chứng của các vị tử đạo, dù là giáo sĩ hay giáo dân. Thời đó, các vị tử đạo là những người được tôn trọng hơn hết, và lời chứng của các ngài cũng là nguồn động lực lớn lao nhất cho đời sống đức Tin Kitô giáo. Qủa thật, so với sức mạnh của quyền lực trần thế, các vị tử đạo là những con người nhỏ bé, yếu đuối, “trần trụi”, thua cuộc. Nhưng những con người yếu đuối ấy lại dám đương đầu một cách hiên ngang với một sức mạnh có thể tiêu diệt bản thân mình. Hành vi chấp nhận hy sinh mạng sống thể hiện được một lòng can đảm kỳ diệu, và là lời chứng mạnh mẽ nhất về quyền năng của Thiên Chúa. Đó không phải là sự cam đảm của bản thân các vị tử đạo có khả năng bảo vệ đức Tin; đó không phải là sự “cao cả” của một nhân đức luân lý (can đảm) có khả năng che chở cho nguyên lý siêu nhiên (đức Tin); đó cũng không phải là sức mạnh của nhân đức luân lý có khả năng khơi nguồn cho một mạch sống phong phú như một gương sáng cho người khác noi theo. Ngược lại, chính nhờ đức Tin, những con người yếu đuối có thể trở nên can đảm; chính quyền năng của Thiên Chúa đã biến những con người vốn yếu đuối mỏng giòn trở thành những con người mạnh mẽ phi thường.
“Nhờ đó, Cha kiện toàn sức mạnh nơi những con người mỏng giòn, và tăng sinh lực cho những người yếu đuối, để họ làm chứng cho Cha” (Kinh tiền tụng lễ các thánh Tử Đạo)
 Như thế, cội nguồn sức mạnh trong hành vi tử đạo chính là quyền năng đầy tình yêu thương của Thiên Chúa chứ không phải đức độ của con người; nguồn sức sống lan tràn và làm sinh động cho sự sống của Giáo Hội chính là Thiên Chúa trong tác động siêu nhiên của Ngài chứ không phải nhân đức luân lý như một mẫu gương hoặc như một bài học. Nguyên lý cứu độ Kitô giáo không phải chỉ tác động đến con người như một giáo huấn tri thức soi sáng trí khôn, không phải chỉ như một gương sáng có khả năng khơi dậy ý chí; nhưng chính là ân sủng siêu nhiên có khả năng biến đổi toàn diện con người, mà rốt cùng vẫn quy về nguyên lý của tình yêu. Chính tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện như một sự liên đới, hiệp thông cụ thể của Chúa Giêsu với vị tử đạo đã làm nên lòng can đảm phi thường của các ngài, và cũng chính tình yêu ấy trở nên như một nguyên lý sống căn bản cho sự sống kitô giáo trong lòng Giáo Hội. Điều gì là cứu cánh thì cũng là nguyên lý và điều gì là nguyên lý thì cũng là cứu cánh. Nếu cứu cánh của cuộc đời các vị tử đạo là được sống bên Chúa, thì nguyên lý làm cho các ngài trở thành chứng nhân của Chúa cũng chỉ có thể là tình yêu thương của Chúa. Điều đó cũng đúng cho tất cả bước hành trình của Giáo Hội.
2. Những chuyển biến
Khi Giáo Hội thoát khỏi được thời kỳ bị bắt hại, thì nguyên lý mang lại sức sống trong đời sống Giáo Hội cũng đổi khác. Các giáo sĩ khẳng định quyền và uy thế của mình trong Giáo Hội; quyền và uy thế đó bộc lộ, dĩ nhiên trong việc quản trị, những sâu xa hơn trong chức năng giáo huấn. Giáo huấn luôn là một trong những yếu tố quan trọng của đời sống đức Tin Kitô giáo, những không phải là nguyên lý sống căn bản; vì Kitô giáo không phải là một học thuyết, những là một sự sống. Nếu lấy nguyên lý giáo huấn là nguyên lý chính yếu, chúng ta rơi vào não trạng của người Hy Lạp. Đối với người Hy Lạp, thần thánh không thể là những ý muốn “trái chứng trở trời”, nhưng phải là những gì biểu lộ một trật tự. Dần dần thần thánh được đồng hóa với quy luật, và nhiệm vụ chính yếu của con người không phải là tương giao theo phương thức thờ phượng, nhưng là hiểu biết. Do đó, chính các triết gia mới là nhân vật quan trọng nhất trong xã hội của người Hy Lạp. Hiểu biết là yếu tố quan trọng nhất trong việc hoán cải một con người; và Socrate đã có thể phát biểu rằng : không ai là người gian ác cố tình. Người ta gian ác chỉ vì không hiểu biết; và nhiệm vụ chính yếu của các triết gia Hy Lạp là giúp con người tìm được sự hiểu biết quy luật, tức hiểu biết thần thánh, để có thể sống theo thần thánh.
Trong truyền thống Do Thái Kitô giáo, tội lỗi không phải chỉ là một sự thiếu hiểu biết, mà là sự cắt đứt một tương quan. Từ đó, tội lỗi làm xáo trộn con người, và con người chỉ có thể tìm lại được “trật tự” trong bản thân mình khi nối lại được mối tương quan căn bản nhất, tương quan thân tình với Chúa. Thánh Phaolô nói rằng : “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu : vì điều tôi muốn (nghĩa là tôi biết điều đó là tốt), thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét (nghĩa là tôi biết điều đó là xấu), thì tôi lại cứ làm”. (Rm 7,15).
Nếu nhìn vào đời sống của Giáo Hội, chúng ta thấy vẫn có những cảm nghĩ theo kiểu người cha mắng đứa con : “tao đã giải nghĩa cho mày mọi nguy cơ của ma túy rồi, tại sao mày lại cứ hút hít”, thì chúng ta có thể hiểu được đời sống Kitô giáo đã không còn bắt mạch vào đúng nguồn của sức sống Kitô giáo.
Đồng thời, cũng vào lúc Giáo Hội không còn những chứng tá của các vị tử đạo nữa, thì vào thế kỷ thứ IV, xuất hiện các tu sĩ. Tu sĩ là những người có một đời sống, nói chung, có thể trở nên gương mẫu cho các thành phần khác trong Giáo Hội. Quả thật, qua dòng lịch sử Giáo Hội, sự hiện dịen và đời sống người tu sĩ là một đóng góp quan trọng cho sức sống của Giáo Hội. Tuy nhiên, một cách chung chung, đời sống tu sĩ được thể hiện như gương mẫu cao cả cho người tín hữu. Gương sáng luôn là điều cần thiết, nhưng vẫn không phải là nguyên lý căn bản của sức sống Kitô giáo. Nếp sống nhà tu thường khác biệt hẳn với nếp sống chung của người tín hữu, nên dễ tạo nên tình trạng “kính nhi viễn chi”. Đó là tình trạng người tín hữu thật lòng kính phục đời sống tu sĩ thánh thiện, những không cảm nhận được gia tăng thêm lòng trông cậy. Gương sáng soi chiếu giống như ngọn đèn chiếu thẳng vào mắt và người đi đường bị chói mắt chứ không thấy rõ hơn bước đường của chính mình; trong khi làm chứng lại giống như một ngọn đèn chiếu đằng sau để cho những người đang mê lầm tìm được đường đi trong thế giới mịt mù. Người ta kính phục đời sống của người đi tu chứ không dễ nhận ra dấu vết tình thương của Thiên Chúa. Nếu sự hiện diện, hoặc đức độ của người tu sĩ, chỉ lôi kéo được những người tín hữu “khá đạo đức” hoặc qui tụ được một số thành phần ưu tuyển, thì ta có thể đoán được tác động của người tu sĩ mới chỉ nằm trong mức độ làm gương.
3. Đâu là nguyên lý sống của Giáo Hội hiện nay ?

Hình như từ sau thời kỳ bị bắt hại, sức sống của Giáo Hội không còn mạnh mẽ nữa, vì không còn tác động của “làm chứng”. “Giáo huấn” và “làm gương” tỏ bày tài năng của nhân đức của con người. Giáo huấn và làm gương làm cho người ta thấy rõ được nhân vật này, đấng bậc kia. Trong khi đó, “làm chứng” lại có khả năng làm sáng lên chính quyền năng và tình yêu thương của Chúa. Người Kitô hữu làm chứng về ơn cứu độ của Thiên Chúa, hoặc trở nên như “ánh sáng trần gian”, như “men”, như “muối” phải thực sự làm sáng lên tác động cứu độ của Thiên Chúa chứ không phải đức độ của người này người kia. Một cách nào đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ có thể sáng lên như ánh sáng nơi tối tăm, nghĩa là trong sự yếu đuối và tầm thường của người làm chứng. Chính nhờ đó, tác dụng của “làm chứng” có thể giúp cho người khác, đặc biệt là những người sống trong “bóng tối” được thêm niềm trông cậy và xác tín vào quyền năng của Chúa. Có lẽ chúng ta nên đọc lại bản văn của thánh Phaolô trong thư thứ hai Corintho :
“Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi : "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2 Cr 12, 7-10)

* Trở về với truyền thống : ơn cứu độ cho người nghèo.

Sức mạnh của “làm chứng” có thể tìm thấy ở đâu trong  Giáo Hội hiện nay ? Tôi nghĩ rằng ta có thể tìm thấy nơi chính người nghèo, những người nghèo cả về thể chất và tinh thần, cả trong năng lực và đức độ, những người nghèo được cứu độ. Thật sự ra, “giáo huấn” và “gương sáng”, trong nền tảng của Kitô giáo, ưu tiên hơn hết, cũng phải là “lời chứng” một cách nào đó. Giáo huấn thể hiện chức năng “lời chúng” khi chính giáo huấn ấy được trải ra một quá trình được Lời Chúa cật vấn, khi giáo huấn bộc lộ một sự đảo ngược lối nhìn, khi người rao giảng nghiệm ra được một lần “à ra thế !” đối với đường lối của chính Thiên Chúa. Chính trong ý nghĩa đó mà thánh Thomas nói được rằng : tôi học được dưới chân Thánh Giá nhiều hơn trong sách vở. Cũng thế, gương sáng thể hiện chức nang “lời chứng” khi đời sống luân lý ấy thực sự là một sự chiến thắng của quyền năng cứu độ trên bản tính yếu đuối mỏng giòn của con người. Tóm lại, giáo huấn và gương sáng chỉ có thể làm lời chứng trong và qua cái “nghèo”, cái “bé mọn” của chính mình.
Tuy nhiên, trong dòng lịch sử Giáo Hội, ở một tầm mức toàn diện hơn, chính những người “nghèo”, người tội lỗi sám hối… mới thực sự là những người có khả năng làm sống lại một niềm tin vào quyền năng Chúa và tạo nên động lực sống cho Giáo Hội. Ta có thể khẳng định đó là “quy luật” Kitô giáo, hiện nay và mãi mãi, vì đó chính là đường nét căn bản của lịch sử ơn cứu độ.
Trong hiện tình Giáo Hội, người nghèo chưa có “chỗ đứng” trong Giáo Hội. Giáo Hội vẫn bộc lộ trong rất nhiểu đường nét, từ tư tưởng cho đến quản trị, từ tu đức cho đến mục vụ… là giáo hội của những con chiên ngoan, hoặc giáo hội của những người có khả năng hiểu biết một cách nào đó. Sinh hoạt của Giáo Hội, bộc lộ sức sống của Giáo Hội, nói chung, vẫn có tính cách “từ trên xuống” và rất ít những mối tương tác của sự sống đức Tin trong sự hiệp thông “chiều ngang”, hoặc “từ dưới lên “. Người nghèo, người bé mọn trong Giáo Hội vẫn là những người lãnh nhận chứ không phải là người được “đóng góp” sự hiện diện của mình như một nét đặc trưng của Giáo Hội Chúa Kitô, và đóng góp chứng tá của mình như một căn tính đặc trưng của lịch sử ơn Cứu Độ Kitô giáo.
Kết :
Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp như Platon và Aristote, đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng nơi con người. Tất cả phẩm chất cao quí nhất của con người bị giản lược vào lý trí; và năng lực của lý trí là nguyên tắc phân biệt sự cao quí của con người. Một khi không phân biệt được phẩm giá và tài năng, người ta, hoặc sẽ rơi vào thái độ khinh thường những người có ít tài năng trong cuộc đời; hoặc là người ta muốn “cào bằng” tất cả, “ăn đồng chia đều” trong mô hình tổ chức của xã hội.
Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10)
Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều quí trọng của đời sống con người không phải là một so sánh sự hơn thua từ sự thành công bên ngoài, nhưng là sự sẵn sàng cho đi ít nhiều những gì thuộc về chính bản thân mình :
“Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
Tình yêu thương bộc lộ trong một sự tôn trọng phẩm giá con người không đương nhiên đồng nghĩa với làm việc bác ái hay từ thiện. Con người cần cơm ăn áo mặc, cần nhà cửa và nhiều phương tiện khác,… những trên hết con người cần được người khác đón nhận như một con người, cần được sống và chết như một con người, cần được là và được làm người, chứ không phải như một con vật hay như một món đồ chơi của kẻ khác.
Và cuối cùng, cũng chính Thiên Chúa mới thể hiện được một sự tôn trọng “phẩm giá siêu nhiên” của con người, khi mời gọi tất cả mọi người, cả những người nghèo hèn tầm thường nhất, được đón nhận được trọn vẹn ơn cứu độ, khi Ngài thực hiện một mầu nhiệm cứu độ đảo ngược so với kiểu suy nghĩ sáo mòn của con người :
"Đức Giê-su nói với họ : "Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.(Mt 21,31)
 
* Linh Đạo của người nghèo

- Tám Mối phúc
- Sống bằng bản thân : giao ước bản thân
- Buông bỏ để đón nhận Thần Khí của Chúa
-
 
 

Nếu trở lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận ra một sự khác biệt giữa các động lực làm sinh động Giáo Hội, sự khác biệt giữa : giáo huấn, làm gương, và làm chứng.
Ba trăm năm đầu, sức mạnh của đời sống đức tin Kitô giáo nằm trong lời chứng của các vị tử đạo, không kể giáo sĩ hay giáo dân. Hết thời kỳ bắt đạo, các giáo sĩ khẳng định quyền và uy thế của mình trong Giáo Hội, quyền và uy thế đó bộc lộ, dĩ nhiên trong việc quản trị, những sâu xa hơn trong chức năng giáo huấn. Đồng thời, vào thế kỷ thứ IV đó, xuất hiện các tu sĩ, những người có một đời sống, nói chung, có thể trở nên gương mẫu cho các thành phần khác trong Giáo Hội.
            Lời giáo huấn luôn luôn là cần thiết, nhưng thực sự những “ý tưởng” không phải là động lực căn bản, không dễ gì tạo nên năng lực sống cho Giáo Hội. Cũng thế, tấm gương của các tu sĩ luôn cần thiết, nhưng lại cũng dễ tạo nên tình trạng “kính nhi viễn chi”. Hình như từ sau thời kỳ bắt hại, sức sống của Giáo Hội không còn mạnh mẽ nữa, vì không còn tác động của làm chứng. Trong khi giáo huấn và làm gương rất dễ tỏ bày tài năng của nhân đức của con người, thì làm chứng lại có khả năng làm sáng lên chính quyền năng và tình yêu thương của Chúa; làm chứng giúp cho người khác thêm niềm trông cậy và xác tín vào quyền năng của Chúa.
            Sức mạnh của làm chứng có thể tìm thấy ở đâu trong  Giáo Hội hiên nay ? Tôi nghĩ rằng ta có thể tìm thấy nơi chính người nghèo, những người nghèo được cứu độ, những người nghèo cả về thể chất và tinh thần, cả trong năng lực và đức độ. Thật sự ra, giáo huấn và gương sáng, trong nền tảng của Kitô giáo, ưu tiên hơn hết, cũng phải là lời chứng một cách nào đó. Chính những người nghèo mới thực sự là những người có khả năng làm sống lại một niềm tin vào quyền năng Chúa và tạo nên động lực sống cho Giáo Hội, hiện nay và mãi mãi, vì đó chính là đường nét của lịch sử ơn cứu độ.

Làm ngôn sứ của người nghèo, ngôn sứ về phẩm giá người nghèo, cũng phải là ngôn sứ về quyền năng cứu độ của Thiên Chúa nơi người nghèo.




Isaia, Ngôn sứ về tình yêu hy sinh

1. Tiểu sử

Tên Isaia có nghĩa là “Giavê cứu độ”. Ông thuộc gia đình quyền qúy, và có lẽ thuộc dòng dõi hoàng gia. Isaia có một trí khôn sắc sảo, một kiến thức uyên bác, có khả năng thấu triệt những vấn đề của thời đại. Ông là một thi sĩ thiên tài, có khả năng “xuất khẩu thành thi”. Ông cũng là con người có ý chí mạnh mẽ, một con người quả cảm, sẵn sàng lãnh nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết, Isaia là một con người sùng đạo, hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông được mệnh danh là “ngôn sứ về sự thánh thiện và uy quyền của Giavê”.
Isaia phê phán các tệ trạng xã hội : thờ quấy, bất công xã hội, sự đỏm dáng của các quí bà ở Giêrusalem… trong thời Ozia. Sau đó, vào thời Achez và Edêkias, ông chủ trương một thứ “chính trị đức tin”, nghĩa là hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa, không tìm nương tựa nơi những thế lực ngoại bang.
Chúng ta chỉ lưu ý đến vài ý tưởng trong những bài ca về “Người Tôi Trung của Giavê”, trong phần người ta quen gọi là Isaia II.

2. Các bài thơ về Người Tôi Trung

2.1 Bài thơ 1 : Is 42, 1-9
Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ của Ngài qua sự trung gian của một Người Tôi Trung. Người Tôi Trung phải đương đầu với một thế giới thù nghịch. Ông thực hiện điều Thiên Chúa muốn bằng một phong cách riêng: âm thầm chứ không rầm rộ, không hô hoán dân chúng, không la lối trên công trường; Người Tôi Trung cũng không chiến đấu với sự ác như một vị tướng oai phong, nhưng như một kẻ ngã quỵ trước cường bạo. Ông phụng sự công lý với lòng nhẫn nại, nhân từ và cứu chữa những người hèn mọn nhất trong Dân…
Phương thức đấu tranh cho công lý của Người Tôi Trung thể hiện chính đường lối của Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Ngài cũng hành động âm thầm và kiên nhẫn đón nhận sự phản bội của Dân…
Is 42,1-9
42,1Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
   là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng,
   Ta cho thần khí Ta ngự trên nó ;
   nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
2  Nó sẽ không kêu to, không nói lớn,
   không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
3  Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy,
   tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
   Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
4  Nó không yếu hèn, không chịu phục,
   cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
   Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.
5  Đây là lời Thiên Chúa, lời ĐỨC CHÚA,
   Đấng sáng tạo và căng vòm trời,
   Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan,
   Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất,
   ban sinh khí cho toàn thể cư dân.
6  Người phán thế này : "Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi,
   vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
   Ta đã nắm tay ngươi,
   đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
   làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
7  để mở mắt cho những ai mù loà,
   đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
   dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."
8  Ta là ĐỨC CHÚA, đó là danh Ta.
   Vinh quang của Ta, Ta không nhường cho ai khác ;
   lời tán tụng dành cho Ta, Ta không để các tượng thần tước đoạt.
9  Chuyện cũ đã qua rồi, nay Ta loan báo những điều mới,
   và trước khi những điều này xảy ra,
   Ta đã cho các ngươi nghe biết.
2.2 Bài thơ 2 : Is 49,1-6
Người Tôi Trung được Thiên Chúa kêu gọi từ trong lòng mẹ. Thiên Chúa thánh hiến ông để dùng ông như một khí cụ chọn lọc…
Is 49,1-6
49,1 Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây,
   hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý :
   ĐỨC CHÚA đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
   lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.
2  Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén,
   giấu tôi dưới bàn tay của Người.
   Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn,
   cất tôi trong ống tên của Người.
3  Người đã phán cùng tôi : "Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
   Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang."
4  Phần tôi, tôi đã nói :
   "Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì."
   Nhưng sự thật, đã có ĐỨC CHÚA minh xét cho tôi,
   Người dành sẵn cho tôi phần thưởng.
5  Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
   Người là Đấng nhào nặn ra tôi
   từ khi tôi còn trong lòng mẹ
   để tôi trở thành người tôi trung,
   đem nhà Gia-cóp về cho Người
   và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người.
   Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
   và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.
6  Người phán : "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
   để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
   để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
   Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
   để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất."
2.3 Bài thơ 3 : Is 50, 4-11
Người Tôi Trung đón nhận một thân phận bi đát, ông giơ lưng cho kẻ đánh đập, không giấu mặt để khỏi bị lăng nhục…
Is 50,4-11
   ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng
   đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
   để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
   Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
   để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
5  ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
   còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6  Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
   giơ má cho người ta giật râu.
   Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
7  Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
   vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
   vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
   Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
8  Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
   Ai tranh tụng với tôi ? Cùng nhau ta hầu toà !
   Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi !
9  Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
   ai còn dám kết tội ?
   Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
10             Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
   nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
   ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
   hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
   và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
11 Phần tất cả các ngươi, những ai đã phóng hoả,
   dùng mũi tên lửa làm vũ khí, hãy đâm đầu vào đống lửa
   chính các ngươi đã đốt lên, vào làn tên các ngươi đã châm lửa.
   Những gì các ngươi đang phải chịu đều là do chính tay Ta :
   các ngươi sẽ nằm xuống trong đớn đau cùng cực.

2.4 Bài thơ 4 : Is  52, 13 – 53,12
 Tấn bi kịch của Người Tôi Trung đi đến giai đoạn cao điểm, đó là Người Tôi Trung phải đón nhận một bi kịch đẫm máu cho cuộc đời mình. Người Tôi Trung không còn dáng vẻ gì của con người nữa, ông phó mặc bản thân mình cho sức mạnh thù nghịch. Sự ác được tự do tung hoành, sự ác không còn chút e ngại, không còn bị một sự chống đối nào; sự ác mặc sức bộc lộ hết sức mạnh hủy diệt trên bản thân Người Tôi Trung. . .
Is 52,13-53,12
 Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt,
sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng.
14 Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta
   mặt mày tan nát chẳng ra người,
   không còn dáng vẻ người ta nữa,
15 cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ,
   vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại,
   được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.
53,1 Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được ?
   Cánh tay uy quyền của ĐỨC CHÚA đã được tỏ cho ai ?
2  Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh,
   như khúc rễ trên đất khô cằn.
   Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong
   đáng chúng ta ngắm nhìn,
   dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
3  Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
   phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
   Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
   bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
4  Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
   đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
   còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
   bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
5  Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
   bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm ;
   người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
   đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.
6  Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu,
   lang thang mỗi người một ngả.
   Nhưng ĐỨC CHÚA đã đổ trên đầu người
   tội lỗi của tất cả chúng ta.
7  Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca ;
   như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
   người chẳng hề mở miệng.
8  Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
   Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới ?
   Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
   vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
9  Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
   bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo
   và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.
10 ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
   Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
   người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
   và nhờ người, ý muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu.
11 Nhờ nỗi thống khổ của mình,
   người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.
   Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta,
   sẽ làm cho muôn người nên công chính
   và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
12 Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,
   và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,
   nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
   bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân ;
   nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người
   và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.
Hình dạng Người Tôi Trung không còn duyên dáng, không còn đẹp đẽ, ông như một rễ cây trong đất khô cằn, ông bị chà đạp dưới chân; ông bị khinh bỉ; trở nên phế vật của nhân loại… đến độ người ta thấy như vậy và nghĩ rằng ông bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng người ta không biết rằng Người Tôi Trung mang lấy sự đau khổ của mọi người, ông gánh chịu hình phạt xứng với tội lỗi của mọi người… và cực hình của ông mang lại sự bình an cho chính họ.
Như thế cuộc thụ nạn của ông, trong chiều sâu lại chính là  bằng chính tình thân mật của ông đối với Thiên Chúa. Ông hiến mạng sống mình để thực hiện ý Thiên Chúa và ông sẽ được vinh hiển mai sau; linh hồn ông được nhìn thấy vinh quang; ông sẽ có được một giòng dõi đông đảo và ngày của ông sẽ vô tận…

3. Huyền nhiệm Người Tôi Trung

3.1 Vừa là Israen vừa là một “Cá Nhân” nào đó
Những hình ảnh của Người Tôi Trung luôn bao hàm một huyền nhiệm nào đó khó có thể múc cạn được; có lúc Người Tôi Trung được tỏ rõ là chính Israen; nhưng nhiều chỗ lại cho thấy đây là một cá nhân đặc biệt, vượt trổi hơn tập thể dân Israel, có nhiệm vụ mang lại ơn cứu độ cho Dân cũng như cho toàn thể nhân loại :
49,5 Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
   Người là Đấng nhào nặn ra tôi
   từ khi tôi còn trong lòng mẹ
   để tôi trở thành người tôi trung,
   đem nhà Gia-cóp về cho Người
   và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người.
   Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
   và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.
6  Người phán : "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
   để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
   để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
   Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
   để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is 49,5-6)
3.2 Người Tôi Trung vừa diễn tả tình trạng của ngôn sứ vừa vượt quá mọi ngôn sứ trong lịch sử
Hình như những bài ca này được khởi hứng từ vận mạng cụ thể của những ngôn sứ, những người đã lãnh chịu những nỗi đau vì loan báo kế hoạch của Giavê, hoặc nói chung là một suy nghĩ về những đau khổ mà người lành phải hứng chịu. Isaia nhìn đến những tấm gương của các ngôn sứ và nhận ra ý nghĩa của những khổ đau. Khổ đau của ngôn sứ không mất đi, không rơi vào hư không, không phải là một thất bại chung cuộc; khổ đau mang một ý nghĩa sâu xa hơn, nó có chỗ đứng đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, nơi các bài ca về Người Tôi Trung, có lẽ Isaia nhận ra một sứ điệp không phải ở những lời tuyên cáo của các ngôn sứ, mà còn nơi chính là cuộc đời của các ông. Trong mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện, một nhiệm cục gắn liền với ô nhục, đau đớn, oan uổng, Isaia nhận ra việc giao hòa của Thiên Chúa đối với Israel không phải chỉ được loan báo, nhưng cần được thể hiện một cách cụ thể, và thể hiện một cách kỳ diệu bằng một tình yêu hy sinh. Có vẻ như nhiệm cục cứu độ diễn tiến đến một giai đoạn, khi mà những người trung gian như vua, tư tế đã không hoàn thành được sứ mệnh, thì chính các ngôn sứ, dù tự nguyện hay miễn cưỡng, phải lãnh trách nhiệm thiêng liêng về anh chị em mình, như Môisen đã làm ngày xưa. Ngôn sứ muốn nối kết lại tình thân của Dân với Thiên Chúa thì cũng phải gánh chịu trên mình tội lỗi của họ. Người ta có thể thấy thấp thoáng những yếu tố đó trong một số nơi khác, chẳng hạn :
* Ngôn sứ lãnh nhận tội lỗi thay cho Dân
Ed 4,4-8 :
Phần ngươi, hãy nằm nghiêng bên trái và mang lấy tội lỗi nhà Ít-ra-en. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày thì ngươi cũng gánh tội chúng bấy nhiêu ngày. 5 Còn Ta, Ta sẽ tính cho ngươi số năm tội lỗi của chúng theo số ngày : ba trăm chín mươi ngày ngươi phải gánh tội nhà Ít-ra-en. 6 Sau khi giữ đủ số ngày ấy, ngươi lại nằm nghiêng bên phải mà gánh lấy tội lỗi nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta tính cho ngươi mỗi ngày là một năm. 7 Rồi ngươi hướng mặt và đưa cánh tay trần về phía Giê-ru-sa-lem đang bị vây hãm mà tuyên sấm để lên án nó. 8 Này Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, khiến ngươi không trở mình bên này bên kia được, cho đến khi ngươi giữ đủ số ngày ngươi nằm bất động”.
* Ngôn sứ bầu cử cho Dân trước mặt Thiên Chúa
Gr 14,19-22 :
 Lạy Chúa, phải chăng Ngài đã quyết từ bỏ Giu-đa ?
   Phải chăng Xi-on khiến lòng Ngài ghê tởm ?
   Vậy cớ sao Ngài đánh phạt chúng con
   đến vô phương chữa chạy ?
   Chúng con đợi hoà bình nhưng chẳng được may lành chi hết !
   Mong đến thời bình phục,
   mà chỉ thấy rùng rợn khiếp kinh !
20 Lạy CHÚA, chúng con nhận rằng mình gian ác
   và cha ông sai lỗi đã nhiều.
   Quả chúng con đều đắc tội với Chúa !
21 Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê bỏ chúng con,
   đừng rẻ rúng toà vinh hiển của Ngài.
   Dám xin Ngài nhớ lại, đừng huỷ bỏ giao ước
   giữa Ngài với chúng con.
22 Trong số chư thần của các dân tộc,
   có thần nào làm được mưa chăng ?
   Có phải trời đổ được mưa rào,
   hay chính Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng con ?
   Chúng con trông cậy nơi Ngài,
   vì chính Ngài đã làm ra tất cả những điều đó !

* Ngôn sứ nhận ra Thiên Chúa đòi máu kẻ có tội nơi tay của mình
Ed 33,8 : ““33,8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng : "Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết", mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.” (Xc. Ed 3,20…)
Cũng thế, trong lịch sử ơn Cứu độ, người ta thấy có một số yếu tố tiên báo một nhiệm cục cứu độ mang tính cách gánh tội thay như thế, chẳng hạn hình ảnh con chiên bị dẫn đến lò sát sinh trong ngày Xá tội… mà từ đó, ta có thể thấy nhiệm cục cứu độ có tính chất của một cuộc “tử đạo”. Thật ra, không bao giờ một ai đó đã là “người của Thiên Chúa”, hay là ngôn sứ mà lại không phải chịu một sự mất mát một phần lợi lộc hay một phần tình yêu nào đó : Abraham đồng ý sát tế con ruột của mình, Môsê chịu chết trên thềm đất hứa để đền tội thay cho Dân; còn Hôsê thì đón nhận cuộc tình duyên cay đắng của mình, đón nhận người vợ ngoại tình nhiều lần, đón nhận nỗi tủi nhục lớn nhất của một người Israel, đó là đón nhận những đứa con không phải do máu huyết của chính mình… Đau khổ không phải là chuyện bất thường, nhưng là điều kiện để thực hiện sứ mệnh.
Tuy nhiên, những bài ca này không chỉ dừng lại ở sự đau khổ của người lành hay của các ngôn sứ. Thật thế, người ta nhận thấy không một ngôn sứ nào có thể thực sự đáp ứng được trọn vẹn những điều đã tiên báo về Người Tôi Trung. Sự khổ đau của các ngôn sứ, dù có lớn lao đến mấy, như Giêrêmia chẳng hạn, thì cũng chỉ gắn liền với một thời cuộc nhất định, nằm trọn trong mức độ giới hạn của lịch sử cụ thể. Trong khi đó, viễn tượng của ơn cứu độ của Giavê Thiên Chúa thì lại vượt quá, chẳng những bao trùm toàn thể lịch sử của Dân, nhưng còn vươn tới tầm mức lịch sử của nhân loại. Do đó, những bài ca ấy như thể còn phóng tầm nhìn về một Ngôn Sứ cao cả hơn, một Ngôn Sứ duy nhất, Đấng Mêsia cao cả mà cả Dân tộc vẫn đợi trông… chính nơi nhân vật ấy mà Thiên Chúa mới có thể tỏ bày trọn vẹn chương trình cứu độ lạ kỳ của Người.
3.3  Hay hình ảnh Người Tôi Trung chỉ là một biểu tượng ?
Những lời sấm về Người Tôi Trung hình như không ngừng ám ảnh chính lương tâm của chính Isaia. Ông loan báo một điều mà chính ông cũng không hiểu được; ông trăn trở với một viễn tượng mà chính ông không thể hình dung ra được trong thực tại của lịch sử. Điều đó tạo nên trong truyền thống Do Thái một khúc mắc nan giải mà đôi khi có người chỉ muốn hiểu những lời thơ này theo một nghĩa bóng bẩy. Truyền thống Do Thái dường như lúng túng trong việc tìm ra được một tổng hợp giữa hình ảnh một Đấng Mêsia được trông đợi như “Con Người” oai nghiêm thuộc thiên giới đến trên mây trời của Daniel (Dn 7,13) với hình ảnh một Người Tôi Trung mang đậm nét con người, bị sỉ nhục và đau khổ trong Isaia.
Trong truyền thống Do Thái giáo, người ta thấy rằng những nhà thần kiến táo bạo nhất cũng không làm sao dung hòa được hai viễn tượng đó, mặc dầu là dung hòa một cách vụng về đi nữa. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong triết gia Do Thái Maimonide (1135-1204 sau JC) một suy niệm như sau : “Bạn đừng có bao giờ nghĩ rằng vào thời kỳ của Đấng Cứu Thế, có cái gì sẽ thay đổi trên thế giới bình thường nay… Không, thế giới vẫn như thường, và điều Isaia đã nói… và tất cả những điều giống như thế về vấn đề Đấng Cứu Thế đều là những mechalim, những dụ ngôn” [11].
 Hoặc chúng ta có thể đọc trong bài thơ của Frischmann, một thi sĩ Ba lan, gốc Do Thái, một hình ảnh biểu tượng một Đấng Cứu Thế bị trói bằng những sợi xích vàng trên thiên giới : Ngài đón nhận những nỗi đau của nhân loại, qua mọi thời đại. Từ trên cao Ngài  nhìn thấy mọi nỗi kinh hãi của cuộc sống nơi anh em Ngài… Ngài như vùng vẫy để xuống thế, Ngài khao khát, Ngài  lấy hết nghị lực để bẻ gẫy xiềng xích, để thoát ra, để phóng xuống, để giải thoá, để cứu vớt… nhưng Ngài  vẫn bị trói bằng những sợi xích vàng[12]
Phải chăng cuối cùng hình ảnh Người Tôi Trung trong Isaia cũng chỉ là “dụ ngôn” ? là cách diễn tả lòng khao khát cứu độ của một Đấng Mêsia bị xích bằng những sợi xích vàng ? là một động lực muôn đời trong dòng lịch sử,  bộc lộ trong những con người anh hùng hết thời đại này sang thời đại khác, để lao vào cuộc cứu độ con người ?

4. Chân trời Kitô giáo

Ta cũng thấy, chính các môn đệ của Chúa Giêsu, ban đầu cũng không thể nào hiểu được, đúng hơn là không thể nào đón nhận được một “thần trí” của Thiên Chúa để chấp nhận đi theo một Đấng Mêsia “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”, một Đấng Mêsia  bị nộp, bị đánh đòn và bị giết như một tội nhân… Não trạng Do Thái đã ăn quá sâu vào tâm hồn những người môn đệ của Chúa. Thế nhưng, trong sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa, dần dần, người Kitô hữu nhận thấy những bài ca về Người Tôi Trung chỉ thể hiện cách rõ ràng, minh bạch nhất nơi Đức Giêsu Kitô. Hơn hết những lời ngôn sứ khác, chính tính cách nghịch lý lạ thường trong bài ca Người Tôi Trung, được chứng nghiệm một cách am hợp lạ kỳ nơi cuộc đời, và nhất là nơi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, lại là một lời minh chứng hùng hồn về vai trò Cứu Thế của Đức Giêsu Kitô :
- Tiếng từ trời tỏ lộ khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giôđan, với lời trích Is 42,1 (X. Mt 1,11);
- Khi đức Giêsu truyền cho bệnh nhân được khỏi phải giữ kín về phép lạ (Mt 12,21) thì đó là thực hiện Is 42, 1-3;
- Khi Luca  ( 9,51) nói rằng “Ngài dạn mặt” (Lc 9,51 :9,51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem.) thì đó là Ngài nhắc lại lời Is 50,7 (trơ mặt chai như đá);
- Khi Chúa Giêsu  nói với Nicôđêmô : Con Người phải bị treo lên (Ga  3,14) thì ứng nghiệm lời Is 53, 4-5 : Người Tôi Trung mang trên mình những tật nguyền của mọi người. . . ….

5. Ngôn sứ của tình yêu hy sinh ngày hôm nay

5.1 Dám vượt trên nguyên tắc công bằng
Con người không ngừng đi tìm một thế giới công bằng hơn. Thế nhưng, nói cho cùng, xã hội con người không bao giờ có được một sự công bằng trọn vẹn. Hoặc đúng hơn, tất cả những bộ luật của nhân loại, tất cả những cuộc đấu tranh cho công bằng vĩ đại nhất trong lịch sử, thật ra cũng chỉ là một “chút đường” bỏ vào “bể muối” mênh mông của bất công. Một con người được cưu mang và được sinh ra, em bé ấy đã gánh chịu hoặc đã vô tình hưởng thụ nơi bản thân nó vô cùng những bất công của cuộc đời, bất công của lịch sử, bất công của dân tộc này với dân tộc kia, bất công của môi trường xã hội có từ thời ông bà tổ tiên của cháu bé, bất công của làng xóm, bất công của luật lệ xã hội, bất công ngay trong gia đình… Rồi trên hành trình cuộc đời, mỗi bước đi của em bé cũng đều được đan dệt trên những thành quả của bất công…
Dĩ nhiên là chúng ta không bao giờ được coi thường những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, hoặc làm giảm nhẹ tầm quan trọng của những cuộc đấu tranh ấy. Nhận diện ra được đại dương của bất công là để không ai được quyền an thân trong hoàn cảnh may mắn nào đó của mình; không ai được quyền bào chữa cho mình khỏi chịu trách nhiệm trước những khổ đau của người khác; không ai được quyền sống theo kiểu “bàn tay sạch”, hoặc “đi cà khêu” giữa cuộc đời. Một ảo tưởng về sự công bằng cũng đã là một sự bất công; và cũng nguy hiểm chẳng kém gì chính sự bất công lu lù mà ai cũng thấy được.
Hơn nữa, còn có một ảo tưởng khác không kém nguy hiểm, tạm nói là ảo tưởng nhân danh sự công bằng để đấu tranh với bất công. Bởi vì tự “chính chỗ” đứng mà ta cho là công bằng để đấu tranh, thật ra cũng chẳng công bằng. Suy cho đến ngọn nguồn, thì chỗ đứng nào cũng đã bị muốm bùn của bất công. Trong thực tế, đấu tranh chống bất công nhân danh công bằng, dựa vào luật pháp hay quyền con người, là điều cần làm trước mắt; nhưng suy cho cùng của cuộc đời, muốn đấu tranh chống bất công tận gốc, phải nhân danh nguyên lý “mắc nợ nghĩa tình”. Do đó, tất cả những thứ cách mạng nhằm “chia đều lợi tức”, cào bằng… đều rơi vào một sự bất công khác. Cuộc đời, tự nó, đã đặt tất cả mọi người vào trong một tình trạng MẮC NỢ nhau quá nhiều. Trong cuộc sống ấy, người ta mà chỉ có thể TRẢ NỢ ĐỜI bằng một tâm tình MẮC NỢ NGHĨA TÌNH; và tâm tình ấy lại chính là một động lực căn bản cho hành trình vươn lên của xã hội con người, chứ không phải một thứ lý trí công bằng, được đề cao quá đáng từ những thế kỷ trước ở Tây phương.
Chỉ nguyên lý mắc nợ nghĩa tình mới có thể thôi thúc một tình yêu hy sinh, một yếu tố không thể nào thiếu cho tâm hồn con người và ngay cả cho vận hành của xã hội loài người. Người ta có thể thấy rõ điều ấy trong “vận hành” của đời sống gia đình.
5.2 Thể hiện một tình yêu đi bước trước
            Chỉ trong nguyên lý mắc nợ nghĩa tình người ta mới có thể dấn mình vượt qua mức độ “thuận mua vừa bán” để khai mở cho thế giới tình nghĩa, thế giới “tặng không” và “lãnh nhận với lòng tri ân”. Một thế giới phòng vệ, đối phó, tính toán…. thì không bao giờ có thể bắt đầu đi vào hành trình nghĩa tình. Như thế, người ngôn sứ của tình yêu hy sinh thật sự là người dám đi bước trước, dám bắt đầu một trách nhiệm với tinh thần tự nguyện, dám chấp nhận “nắm đằng lưỡi” trong cuộc đổi trao… ; và có lẽ điều đó, trước tiên cần thể hiện trong đời sống đức tin của người Kitô hữu. Một người Kitô hữu sống “đối phó” với Chúa, Chúa bắt làm tới đâu thì ta làm tới đó… thì thật ra người đó chưa phải là một Kitô hữu đích thực, một Kitô hữu đón nhận chính tình yêu hy sinh của Đức Giêsu và sống theo bước chân của Ngài.
5.3 Dám dấn thân liên lụy với đời
            Có những người Kitô hữu tâm sự rằng, từ khi vào hội đoàn, tôi thấy mình càng thêm tội, tranh cãi nhiều, buồn bực nhiều, nói xấu nhiều… Đó là một thực tế khó có thể chỗi cãi. Tuy nhiên, thái độ rút lui, an thân thì lại chẳng khác gì tuyên bố rằng : tay tôi đã sạch, ai lao vào bếp để dọn bàn tiệc Nước Trời thì cứ việc làm; khi nào dọn bàn xong, nhớ gọi tôi vào ăn với…
            Thái độ an thân như thế thực ra đã là kẻ bẩn từ bên trong. Đó là thái độ của những người không dám liên lụy với ai, không dám chịu phiền hà vì ai, không dám cho đi chính bản thân và không dám đi vào hành trình của hạt lúa, chết đi mới sinh nhiều bông hạt…



Đức Maria, Ngôn sứ của niềm hy vọng


Suy niệm lời kinh Magnificat của đức Maria

1. Bài ca của muôn người

Bài ca Magnificat vọng lại nhiều bài ca vãn và Thánh Vịnh, cũng như nhiều đoạn Sách Thánh nói về người nghèo, người hèn mọn được Thiên Chúa đáp cứu và bênh vực. Bài ca này cũng diễn tả tâm tình của một người  dân Israel, hoà nhập niềm vui của mình với vận mạng của Dân và ca tụng những ân huệ Thiên Chúa ban cho Dân Israel. Đồng thời bài ca này cũng vọng lại những lời của cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, những người bé mọn được Chúa đoái thương kêu gọi và ban cho hồng ân được sống trong dòng lịch sử ơn cứu độ của Ngài.
            Chúng ta nhận ra nơi đây tâm tình của Mẹ Maria, Người chìm đắm trong thế giới của Chúa chứ không có một chút vinh vang của thế gian; Người chìm ngập trong dòng lịch sử ơn cứu độ chứ không phải chỉ là chuyện đơn lẻ cá nhân; và Ngài cũng chìm đắm trong lòng Dân mới của Chúa, vì thật ra Đức Maria cũng chính là Hội Thánh, là hình ảnh tiên trưng của Hội Thánh, và là hình ảnh tiên trưng của mỗi người Kitô hữu được sống trong thực tại Nước Trời của Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta cũng được quyền hát lên bài ca Magnificat như lời của chính mình, như lời ca tụng Chúa từ bản thân và từ hoàn cảnh của mình như chính Đức Maria vậy.
1,46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
   "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
   vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
   Người đoái thương nhìn tới;
   từ nay, hết mọi đời
   sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
   biết bao điều cao cả,
   danh Người thật chí thánh chí tôn !
50 Đời nọ tới đời kia,
   Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
   dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
   Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
   người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
   vì Người nhớ lại lòng thương xót
   dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
   và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1,46-55)

2. Niềm vui của Đức Maria :

 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
Niềm vui của Mẹ Maria gắn liền với niềm vui của ơn cứu độ được loan báo trong Cựu Ước :
Is 61,10 :
Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao !
Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ,
choàng cho tôi đức chính trực công minh,
như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang.
Kb 3,18 :
“Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA,
hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”
Đó là một niềm vui sâu xa phát xuất từ “thần trí”, bộc lộ ra thành lời ngợi khen của “linh hồn”. Đó là một niềm vui của một con người toàn diện, lay động toàn diện một con người, trong thân xác, trong linh hồn và trong hành trình lịch sử của một đời người.
Khi ta được ăn ngon, thân xác ta được thoả mãn; khi ta được khen ngợi, tâm trí ta cũng được thoả mãn, nhưng khi ta nhận được ơn cứu độ, thì thần trí, tức là tinh thần, tức là nguyên lý sống, tức là lý do hiện hữu của cuộc đời ta, tất cả những điều đó tìm được “căn tính” của mình trong sự hoàn thành chính vận mạng của mình. Thật ra, niềm vui trọn vẹn của một con người chỉ có thể có được trong một sự hoàn thành vận mạng, nghĩa là toàn thể con người, và toàn thể cuộc đời con người. Niềm vui đó chỉ có thể có được trong ơn cứu độ toàn vẹn của Thiên Chúa. Tiếng reo vui của Mẹ Maria cho ta thấy cuộc đời con người không phải chỉ là sự thoả mãn thân xác, không phải chỉ là thoả mãn tâm trí, không phải chỉ là niềm vui lúc này, nhưng là một sự thành đạt trọn vẹn đời sống, trọn vẹn thân phận một con người; sự thành đạt chỉ có thể phát xuất từ ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chính vì thế, ta hiểu được niềm vui sâu xa và chân chính nhất của con người không thể ra ngoài, không thể đứng ngoài được vận hành ơn cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, điều có thể mang lại niềm hy vọng cho con người được đặt vào trong bình diện “khó mà dễ”, nghĩa là trong niềm tin mà nếu ai không dám tin thì không đón nhận được; còn những ai dám tin thì sẽ nhận được.

3. Lòng khiêm tốn của người được cứu độ

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Niềm vui về sự thành đạt ấy, từ nay, trong một thời kỳ mới, một nhiệm cục mới, không còn tùy thuộc vào công đức của con người, nhưng là hồng ân tặng không của Thiên Chúa. Con người trong nhiệm cục mới là con người sống hết “khả năng lãnh nhận” của mình - theo thần học, con người có khả năng lãnh nhận tuyệt đối- và lãnh nhận một cách chân chính, đó là lãnh nhận trong lòng tri ân. Khẳng định điều đó hoàn toàn khác với một thứ “khiêm nhường” giả tạo của con người.
“Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu ? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh ? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh ? (1 Cr 4,7)
Một khi nhận ra, khẳng định, “tuyên bố” với tất cả thần trí về hồng ân mình được lãnh nhận từ tình thương của Chúa, thì không còn phải bận tâm tới một thứ khiêm nhường khách sáo, lễ nghĩa, hoặc một thứ khiêm nhường của nhân đức luân lý. Khiêm nhường của người sống trong ơn cứu độ khác hẳn thứ khiêm nhường của một nỗ lực tập luyện nhận đức.
Đức Maria đã lãnh nhận chân chính và lãnh nhận trọn vẹn hồng ân của Chúa, để có thể thẳng thắn nói lên rằng : “Từ nay hết mọi đời sẽ tôi diễm phúc”. Điều này hoàn toàn không phải là một thứ kiêu ngạo, những là “làm chứng” cho tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Thật sự chỉ có người nghèo mới biết lãnh nhận, mới biết lãnh nhận trong lòng tri ân, và người nghèo mới có thể thực sự làm chứng cho Chúa. Đó mới thực là thứ mặn của “muối Tin Mừng”, thứ sáng của “đèn Tin Mừng”
Sau này thánh Phaolo cũng đã nói lên một sự khiêm tốn thực sự của ơn cứu độ : anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước đức Kitô.
Chính sự khiêm nhường trong dòng sống của ơn cứu độ mới làm sáng lên quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa chứ không phải thứ khiêm nhường luân lý của con người :
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn !

4. Khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Từ một hồng ân của Thiên Chúa ban cho chính bản thân mình, đức Maria khám phá ra lòng thương xót của Chúa. Đó là thái độ chân chính của người nhận lãnh trong nhiệm cục cứu độ Kinh Thánh, đặc biệt là Kitô giáo. Nhận lãnh thực sự không phải là nhận lãnh hồng ân sự vật, nhưng là lãnh nhận chính bản thân; ở đây lại là Bản Thân của Chúa, hay lãnh nhận chính tình thương của Chúa. Đức Maria lãnh nhận hồng ân làm mẹ, những đó lại là lãnh nhận chính lòng thương xót của Chúa, nghĩa là nhận ra Chúa ở với mình và thương yêu mình.
            Cũng thế, lòng trông cậy trong truyền thống ơn cứu độ, truyền thống Do Thái - Kitô giáo khác với niềm hy vọng của con người cũng ở chỗ : trông cậy không phải là một sự dựa dẫm, nhưng được kết dệt trong một hệ tin-cậy-mến; nghĩa là một mối tương quan sung mãn và phong phú; nghĩa là một lòng trông cậy gắn liền với tình yêu và tin tưởng một ngôi vị, một bản thân chứ không phải gắn liền với sự vật. Lãnh một sự vật, nghĩa là chiếm hữu, nghĩa là tiêu thụ sự vật; điều đó chẳng khác gì rút về phía mình sợi giây nối kết ngôi vị, chẳng khác gì cắt đứt mối liên kết hai bản thân. Ngược lại, lãnh nhận chính bản thân của ai khác tức là khám phá lòng yêu thương chân chính, khám phá ra bước đồng hành của ai khác trên cuộc đời mình.
Một khi việc lãnh nhận bộc lộ ra thành lời ca tụng lòng thương xót Chúa, thì ta có thể nhận ra được “bản chất” của việc lãnh nhận chân chính, của một lòng trông cậy chân chính. Chính khả năng lãnh nhận chân chính, lãnh nhận chính Chúa mới có thể mở ra niềm trông cậy chân chính, trông cậy của cả bản thân, trông cậy của cả vận mạng con người mình.

5. Vận hành của ơn cứu độ

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Cũng từ một sự kiện, từ một hồng ân riêng lẻ mà Mẹ đón nhận được, Mẹ nhận ra được chiều hướng vận hành của ơn cứu độ, chiều hướng của một sự đảo ngược, và là một sự đảo ngược của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa, tình yêu Agape, là một tình yêu cho đi chính bản thân, tình yêu làm cho người mình yêu được phong phú trọn vẹn. Trong tình thương Agape của Thiên Chúa, con người được đón nhận trọn vẹn nhất, đón nhận chính Thiên Chúa. Nếu tình thương của Chúa không phải là Agape thì con người, dù có muốn cũng không thể lãnh nhận được chính bản thân của Chúa.
Đối với tình yêu thương trọn vẹn của Chúa, kẻ được lãnh nhận trọn vẹn nhất chính là kẻ khiêm tốn, nghèo khó để lãnh nhận trọn vẹn bản thân của Thiên Chúa. Mầu nhiệm về con người được thành toàn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nơi đó, con người càng dám chấp nhận cái nghèo của mình đến đâu, thì lại càng được đón nhận hồng ân tặng không của Thiên Chúa đến đó. Trong nhiệm cục mới, con ngưòi được lãnh nhận, và lãnh nhận trọn vẹn nhất chính là lãnh nhận từ chính sự hèn mọn của bản thân.
            Như thế, chương trình cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa thể hiện trong vận mạng kỳ lạ của con người được cứu độ; biểu lộ trong một cuộc đảo ngược hoàn toàn những giá trị và những não trạng quen thuộc của con người. Sách Gióp đã từng nói lên điều đó :
G 12,19
12,19Người bắt các tư tế phải đi chân đất
Người lật đổ những kẻ quyền uy.
Chính điều này lại bộc lộ một khả năng sống lòng trông cậy cho mọi người, đặc biệt là những người nghèo.

6. Hội Nhập đời mình vào lịch sử ơn cứu độ

“54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời."
Sau cùng, từ một sự kiện đơn lẻ độc nhất của mầu nhiệm nhập thể mà đức Maria lãnh nhận, Mẹ lại nhận ra được chính bản thân Mẹ được đưa vào hội nhập một cách sâu xa hơn vào lịch sử ơn cứu độ. Việc Mẹ nhận được hồng ân làm mẹ không là gì khác hơn việc Thiên Chúa đang thực hiện nhiệm cụ Cứu Độ kỳ lạ của Ngài ngang qua bản thân của Mẹ.
Thiên Chúa đã hứa với Dân, và giờ đây, Ngài cương quyết thực hiện lời hứa của Ngài trong bản thân của Mẹ. Đức Maria trở thành nơi quy tụ của tất cả khát mong, tất cả hy vọng của Dân Israen. Đức Maria là hiện thân của niềm hy vọng suốt bao đời của “cô gái Sion”. Và cũng chính nơi bản thân của Mẹ, niềm hy vọng của Dân tộc được Thiên Chúa đáp lại. Mẹ trở thành người trung gian về phía nhân loại để đón nhận trọn vẹn Đấng Trung Gian duy nhất mà Thiên Chúa ban cho là Đức Giêsu Kitô. Từ vị thế đó, Mẹ ca tụng Thiên Chúa như lời ca tụng của cả nhân loại, và bản thân Mẹ là lời chứng cho cả nhân loại về lòng trông cậy nơi Thiên Chúa.
Nơi đây không có ơn riêng, nhưng là một giòng lịch sử ơn cứu độ. Cái riêng trở thành cái chung và cái chung thể hiện nơi cái riêng. Nơi đây không phải là một sự phân chia đồng đều, nhưng là một sự đan xen của tình yêu thương, người được lãnh nhận cũng là người chia sẻ, vì lãnh nhận là lãnh nhận vì mọi người.

7. Bài ca của người Kitô hữu

            Cuối cùng chúng ta có thể nhận ra bài ca của Mẹ Maria cũng là bài ca của mọi người Kitô hữu. Khởi đầu của nhiệm cục cứu độ mới không còn là một thế giới của những người “trả vay sòng phẳng” với Thiên Chúa, những là những người được lãnh nhận trong lòng tri ân. Thế giới mới của Chúa, trong Đức Maria, hình ảnh tiên trưng của Giáo Hội, là thế giới mọi thành viên đều “có quyền” hát lên bài ca của niềm vui được cứu độ; hát lên bài ca tình thân mật của chính bản thân mình với Chúa, và hát lên bài ca của sự hiệp nhất trong dòng lịch sử ơn cứu độ cho muôn người. Đó quả thật là bài ca của niềm tin, bài ca của lòng trông cậy, bài ca của lòng yêu mến.

 












[1] Bertrand Russell, Thế Giới Ngày nay và Tương Lai Nhân Loại, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn Hóa,1996.
[2] Gioan Phaolô II,  Thông Điệp  Tin Mừng Sự Sống s. 2.
[3] Kinh Hòa Bình
[4] Ministères charismatiques.
[5] Ministères d' administration
[6] Khuynh hướng này do đức hồng y Ruffini bảo vệ.
[7] "Don extraordinaire", theo nghĩa "đặc sủng".
[8] Khuynh hướng này do đức hồng y Suenens bảo vệ.
[9] Grâce ordinaire.
[10] Điều này hơi giống như điều chúng ta đã thấy trong hành trình của thánh Vinh Sơn, đi từ một thứ “linh đạo cho người nghèo” đến một thứ “linh đạo của người nghèo”
[11] Trích lại trong bài “Không có ngày “G” đối với Đấng Cứu Thế”, của Robert Aron; trong tuyển tập : A. Frossard, J Dheilly, M. Halpern, R. Aron, Để Làm Giầu Kiến Thức Kinh Thánh, tập IV, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, t/p HCM, 1993, tr. 1316.
[12] Nt, trang 1318-1320.

2 nhận xét:

 
Top