Phẩm giá và Chức năng
trong Đời Sống Thánh Hiến

            Hơn lúc nào hết, nhu cầu huấn luyện trí thức và mục vụ đang trở nên cấp bách trong đời sống Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong đời sống thánh hiến. Ở thành phố Sài Gòn này, người Kitô  có thể cảm thấy một cách cụ thể sức sống của Giáo Hội, trong các thánh lễ và sinh hoạt mục vụ ở các giáo xứ; và ở một tầng sâu hơn, trong việc các hội dòng nam nữ đổ xô về đây để tìm kiếm ơn gọi. Người ta có thể thấy ở mọi nơi, bóng dáng âm thầm nhưng không khó nhận ra của các nữ tu, hoặc các tu sinh, lặng lẽ đạp xe trên đường phố; và người ta có thể đoán ra được các chị em ấy đang theo học một lớp nào đó, tại một trung tâm nào đó…
Về hiện tượng phong phú ơn gọi ở Việt Nam, những người bi quan thì sẽ giải thích rằng não trạng người Việt thích danh giá; mà vị thế của linh mục hoặc tu sĩ vẫn còn “có giá” trong đời sống Giáo Hội, nên số người theo đuổi ơn gọi ấy vẫn còn tương đối dồi dào…. Nhưng người khác thì lại có thể thấy rằng những nề nếp sống đạo mà cha ông chúng ta gầy dựng nên đã hình thành nên, ở tầng sâu hơn khía cạnh danh giá, một thứ cảm quan tôn giáo thấm nhiễm sâu đậm và man mác trong tâm hồn người tín hữu, mà ngay cả cuộc sống đầy những cám dỗ thăng tiến trần thế và hưởng thụ vật chất ngay nay cũng khó có thể thay thế hoàn toàn được. Chẳng hạn những người tín hữu ấy có thể, khi không “đi tu”, sống một đời sống khô khan hoặc bỏ đạo, thì về cuối đời cũng có rất nhiều cơ may tìm lại được đời sống đức tin. Những người tín hữu như thế, khi “đi tu”, cũng có thể có người theo đuổi danh giá và hưởng thụ trong “đời tu”, những cũng không phải là không có những linh mục và tu sĩ thực sự tìm lại được “chiều sâu” của một đời sống đức Tin chân chính.
Có lẽ cả hai cách nhìn đều có phần đúng. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, Giáo hội Việt Nam hôm nay không thể không tạ ơn Chúa, cám ơn những bậc tiền nhân đã gieo trồng đời sống đức Tin trên mảnh đất Việt này; và điều quan trọng chắc chắn không phải là phê phán hoặc hối tiếc, cũng không phải là hãnh tiến hay tự mãn, mà là trân trọng đón nhận gia sản ấy một cách có trách nhiệm. Trân trọng đón nhận gia sản một cách có trách nhiệm, điều đó có lẽ thể hiện trong nỗ lực củng cố việc đào tạo, chủ đề mà Chia Sẻ đã chọn cho cả năm 2011. Tuy nhiên, có lẽ chính vấn đề huấn luyện trí thức và mục vụ sẽ là nơi bộc lộ rõ nét hơn hết thực chất của đời sống thánh hiến. Việc huấn luyện trí thức và mục vụ có thể hoặc đưa đến nguy cơ của một thứ đạo danh giá nặng nề hơn nữa, hoặc góp phần vun trồng đời sống đức Tin ở mạch nguồn của sứ vụ. Chính vì thế, bài viết này xin được trở về với vấn đề phẩm giá và chức năng trong đời sống thánh hiến, một vấn đề dính dáng tới căn tính của việc huấn luyện mục vụ và trí thức.

1. Trở về mạch nguồn của phẩm giá

1.1 Ý thức phẩm giá người trong lịch sử
            Các triết gia lớn nhất của Hy Lạp, như Platon và Aristote, đã không phân biệt được phẩm giá và tài năng. Các ông thấy rằng các người phụ nữ và người nô lệ có ít trí khôn, nên đương nhiên cũng phải là những người thấp kém trong đô thị. Tuy nhiên, người ta cũng có thể tìm thấy trong thế giới Hy Lạp một số dữ kiện khẳng định, một cách nào đó, phẩm giá của con người. Từ thế kỷ thứ V tcn, trong tác phẩm Antigone, Sophocle (497-405), đã kể có một thiếu nữ đã dám bất tuân lệnh nhà vua. Nhà vua cấm không được chôn cất anh của cô, anh ta bị giết vì can tội phản quốc. Cô ta nói với vua rằng có luật của Trời còn cao hơn lệnh của vua.
Đặc biệt, các triết gia Khắc Kỷ thời kỳ La Mã, trong tiến trình mong muốn hủy bỏ chế độ nô lệ, đã nêu lên được một sự bình đẳng tự nhiên giữa những người nô lệ và những người tự do. Họ cho rằng tất cả luật của con người đều không công bằng, đặc biệt là luật của các bạo chúa. Nhưng có một thứ luật ghi khắc trong chúng ta và không cần phải viết ra, luật đó cho phép chống lại mọi luật lệ bất công. Ciceron (106-43 tcn), trong cuốn Loi, I,10 nói rằng có một sự bình đẳng tự nhiên giữa mọi người, vì mọi người đều có chung lý tri. Triết gia Sénèque (khoảng tk I, cn) cho rằng chế độ nô lệ không có nền tảng tự nhiên mà chỉ là công ước xã hội. Nô lệ chỉ là một sự làm thuê suốt đời[1].
            Trong thời Cận đại và Hiện đại, thế giới Tây phương đã hình thành nên được một số bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền : Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1689 của Quốc Hội Anh; Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (1776). Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn của Cách Mạng Pháp 1789 là một cột mốc quan trọng, vì nó có một tầm ảnh hưởng rộng lớn khắp Âu Mỹ, nhờ được hỗ trợ của một số nhà tư tưởng trong nhóm Bách Khoa. Sang thế kỷ XX, chúng ta có bản Tuyên Ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc 1948. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc được biểu quyết tại Paris ngày 10-12-1948 . Điều Một của văn kiện ấy viết : “Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ[2].
            Một điều cần ghi nhận là người ta chỉ khám phá ra ý niệm phẩm giá con người (la dignitée de L’homme, humanité)  khi có những con người bị chà đạp. Chính sự hiện diện của người nghèo, hoặc nỗi đau thương của con người đã làm bật ra ý nghĩa cao quý, giá trị căn bản của một con người. Khi con người bị “lột trần”, khi bản thân một con người không còn được bảo vệ, trang trí, tô vẽ bằng tiền của hay địa vị, thì con người ấy lại có thể biểu lộ được rõ nét điều căn bản nhất, đòi hỏi người khác phải tôn trọng, đó là phẩm giá một con người. Ở đây, xuất hiện ra một tâm tình tôn trọng căn bản. Tôn trọng là yếu tố căn bản để thiết lập tha nhân như là những “đối tác” bình đẳng; và sự tôn trọng tha nhân như là người, chứ không phải như là một nhân vật, điều đó có khả năng biểu lộ ý nghĩa của phẩm giá con người.
Thật ra, trong nhân loại, vốn đã có tiềm tàng một thứ tình cảm tự nhiên về phẩm giá con người. Dĩ nhiên, tình cảm tôn trọng tha nhân không phải rõ nét trong mọi lãnh vực. Chẳng hạn, trước kia, người ta không quan trọng lắm mạng sống của cá nhân, so với những diễn tiến có tầm quan trọng hơn nhiều của vận mệnh một dân tộc. Tuy vậy, người ta cũng thấy tình cảm tôn trọng thưở nguyên sơ được bộc đặc biệt, chẳng hạn, trong nghi thức chôn táng. Từ khi có sự hiện diện của con người thì cũng có những nghi lễ chôn táng người chết. Đó chính là dấu vết tâm tình tôn trọng con người; bởi vì con người, dù là một xác chết, cũng cần được tôn trọng khác với xác chết của con vật.
Mặt khác, quá trình khám phá và đấu tranh cho phẩm giá con người luôn dựa trên một nền tảng khác, đó là việc coi con người như một ngôi vị, hoặc nhân vị (personne). Chỉ khi nào, một cách minh nhiên hoặc mặc nhiên, người ta ý thức mỗi con người là một nhân vị, thì khi đó, người ta mới có được một nền tảng để khẳng định về phẩm giá con người. Về khái niệm ngôi vị, các triết gia chỉ có thể tìm thấy yếu tố linh hồn như một thực tại căn bản làm nên ngôi vị. Aristote cho rằng con người, vì có linh hồn (anima) như là một bản thể tự lập (subsistentia), nên có được ngôi vị (prosopon = khuôn mặt) mà con vật không có được. Boèce (k. 470-525) thì định nghĩa ngôi vị như “một bản thể cá nhân có lý tính (rationis naturae individua substantia). Sau này, với trào lưu vô thần và duy vật, chủ trương chối bỏ Thượng Đế và linh hồn, người ta chỉ có thể nại đến nền tảng của ngôi vị là sự công nhận của nhà nước. Như thế, phẩm giá con người được xây dựng trên một nền tảng khá mong manh. Vì không ai có thể kiểm soát được Nhà Nước một cách hiệu quả. Đây chính là vấn đề gây nên sự khác biệt về quan điểm nhân quyền giữa các nhóm quốc gia khác nhau…
Cuối cùng, sự trân trọng phẩm giá con người được thể hiện trong việc đấu tranh cho nhân quyền (droit de l’homme), quyền được phát triển bản thân của mỗi người. Đó là điều tất nhiên, vì người ta không chỉ là người, nhưng còn phải làm người. Nền tảng của nhân phẩm là con người được là người, nhưng con người cũng khác con vật ở chỗ còn cần phải được làm người, nghĩa là được thể hiện mình trong một quá trình, hoàn thành cuộc đời mình trong một lịch sử, “làm nên” bản thân mình bằng một nhân cách phong phú, sung mãn. Chính vì thế mà từ ngữ ngôi vị (personne) để chỉ bản thân con người, khác với con vật, lại luôn bao hàm một khát vọng triển nở không thể bỏ đi, được diễn tả trong các từ ngữ nhân cách (personnalité) hoặc nhân vật (personnage). Người ta muốn khẳng định cá tính của mình, muốn hoàn thành ngôi vị của mình với một nhân cách sung mãn hoặc muốn trở thành một nhân vật tiếng tăm..
Mặc dầu những bản tuyên ngôn và nhân quyền vẫn có những giới hạn cụ thể, nhưng ta cũng phải công nhận việc khám phá và phát triển ý thức nhân phẩm và nhân quyền là một thành quả lớn lao trong tư tưởng nhân loại. Khi không ý thức rõ rệt về phẩm giá con người, con người có thể sẽ bị đối xử tệ hại đến tận cùng. Việc không ý thức phẩm giá con người là nguyên nhân gây ra những tội ác trầm trọng nhất trong lịch sử. Những người theo chủ thuyết Phát Xít đã tiêu diệt hàng loạt người Do Thái, vì họ cho rằng những người Do Thái và người da mầu thuộc về loại dưới-người….
Ngoài ra, ta còn thấy có một nguy cơ khác, đó là sự mập mờ giữa phẩm giá và chức năng. Chẳng hạn, ở thế kỷ XX, khi người ta muốn giải phóng phụ nữ khỏi xó bếp, muốn giành quyền bình đẳng cho phụ nữ thì người ta lại cào bằng mọi chức năng, nghĩa là đấu tranh để người phụ nữ cũng đi lính, xuống hầm mỏ, hoặc coi việc được đi làm ngoài xã hội như người nam là một thành quả của việc đấu tranh cho sự bình đẳng…
1.2 Kitô giáo và nhân phẩm
Trong Sách Thánh, người ta khám phá ra một kho tàng phong phú để xác nhận phẩm giá người. Trước tiên, phải kể đến nền tảng quan trong nhất của khoa nhân học Kitô giáo, đó là : con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa :
“Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.". Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. (St 1,26-27)
            Ở vùng cận đông cổ, người ta đã có khái niệm con người là hình ảnh của thần linh, nhưng khái niệm ấy chỉ được áp dụng cho các vị vua. Vua là con Trời, vua thay Trời để cai trị thần dân. Trong khi đó, Kinh Thánh lại áp dụng ý niệm này cho tất cả mọi người; và mọi người được giống hình ảnh Thiên Chúa để cai quản trái đất. Kinh Thánh xác nhận con người nói chung, xác nhận người nam và người nữ, được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, đó chính là nền tảng của phẩm giá con người[3]. Mặt khác, ngay trong Cựu Ước, người ta đã thấy những luật lệ nghiên cấm không được làm thiệt hại đến mạng sống, tài sản, danh dự của người khác, đặc biệt là những điều khoản nhằm bệnh vực quyền lợi của những “ngoại kiều, bà góa, mồ côi” (Xc. Xh 21,20-23). Trong Dân Israen, ngay cả nhà vua, nếu không tuân theo những mệnh lệnh ấy thì cũng bị phạt, chẳng hạn trường hợp vua Đavít (x. 2Sm 12,7-10) và vua Achab (X. 1V 21,17-24).
            Trong Tân Ước, chúng ta thấy Chúa Giêsu đặc biệt bênh vực những người bệnh tật, động lòng thương xót với những người đau khổ, cảm thông và tìm cách cứu vớt với những người tội lỗi… Chính Tin Mừng của Chúa Giêsu mới thật sự là nguồn mạch của phẩm giá con người, phẩm giá là-người cũng như phẩm giá làm-người. Chúa Giêsu cho thấy phẩm giá là-người của những kẻ bé mọn và khẳng định nền tảng của sự bình đẳng ấy được chuẩn nhận nơi chính Thiên Chúa. Sự quan tâm của Thiên Chúa đến cá nhân con người được khẳng định trong việc trao ban cho mỗi người có một thiên thần bản mệnh.
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. (Mt 18, 10)
            Tuy nhiên, con người không phải chỉ hiện diện trên mặt đất như một cái gì đã hoàn tất. Con người cần phải sống cuộc đời mình để hoàn thành phẩm giá là người bằng một tiến trình làm người. Con người và cuộc đời, đó là hai điều không thể tách rời nhau. Phẩm giá là người cần phải được “hoàn tất” khi tính đến một thứ tạm gọi là “phẩm giá làm người” hay “phẩm chất đời người”. Chúa Giêsu cũng khẳng định phẩm giá làm-người khi cho biết điều làm nên phẩm tính cao của đời sống con người không phải do một so sánh sự hơn thua bên ngoài, nhưng là một sự hoàn thành chính bản thân mình trong cuộc đời, và điều đó thể hiện trong sự sẵn sàng cho đi ít nhiều chính bản thân mình:
 “Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
Và cuối cùng, cũng chính Thiên Chúa mới thể hiện được một sự tôn trọng “phẩm giá siêu nhiên” của con người, khi mời gọi tất cả mọi người, cả những người nghèo hèn tầm thường nhất, đều đón nhận được trọn vẹn ơn cứu độ :
“Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.  Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. (x. Mt 20, 13-16).
Mặc dầu có tác giả cho rằng sự chậm trễ trong suy tư triết học về xã hội trong một thế giới tây phương tràn ngập tư tưởng Kitô giáo là một điều đáng xấu hổ. Điều đó vừa là một lời trách móc nhưng cũng là một khẳng định về nguồn mạch phong phú của Thánh Kinh về vấn đề phẩm giá con người. Không ai có thể phủ nhận là Kitô giáo đã đóng góp rất nhiều trong sự tiến triển về nhân phẩm và nhân quyền. Những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, trong thực tế đều xuất phát từ các nền văn minh chịu ảnh ảnh hưởng của Kitô giáo. Chính đây là lý do khiến những quốc gia Hồi Giáo không chấp nhận những tiêu chuẩn nhân quyền của thế giới Tây phương.
Nguồn gốc gần nhất của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cách mạng Pháp cũng phát xuất từ Giáo Hội Công giáo. Trong trào lưu tìm thuộc địa của các quốc gia Châu Âu vào thế kỷ XVI, có những nhà thần học Tây phương biện minh cho hành động này bằng lý luận : Vũ trụ này của Thiên Chúa, nên những ai tôn thờ Chúa thì có quyền chiếm hữu vũ trụ… Tuy nhiên, nhà thần học Francisco de Victoria (1484-1546), Dòng Đa Minh, giáo sư đại học Salamanca cho rằng việc làm chủ đất đai làm quyền tự nhiên dựa trên bản tính người chứ không dựa trên niềm tin tôn giáo. Những người thổ dân có quyền sở hữu đất đai của họ, và nhà vua Tây Ban Nha không có quyền chiếm hữu. Sự việc này được tranh cãi khá nhiều. Ngày 2-6-1537, đức giáo hoàng Phaolô III  ra sắc chỉ Sublimis Deus, khẳng định : Các thổ dân, tuy không phải là Kitô hữu, nhưng không thể bị tước đoạt tự do và chủ quyền sở hữu. Họ có quyền được hưởng tự do, sở hữu và thủ đắc tài sản. Không ai được phép bắt họ làm nô lệ”. Chính văn bản ấy đã giúp cha Bartôlômê de Las Casas tìm được nền tảng để đấu tranh cho việc phế bỏ chế độ nô lệ ở Châu Mỹ.

2. Để tìm lại ý nghĩa của chức năng

            Việc trở về với bình diện phẩm giá bao hàm nhiều ý nghĩa phong phú. Tuy nhiên, trong vấn đề huấn luyện tri thức và mục vụ, việc trở về với phẩm giá là nhằm để xác định rõ ý nghĩa của chức năng. Khi người ta “nhìn xuống”, khi lương tâm con người bị chất vấn do sự hiện diện của những người cùng khổ, thì vấn đề phẩm giá sẽ trở nên nóng bỏng. Tuy nhiên, khi thế giới đang phóng mình trên con đường tiến bộ, khi mọi người trong xã hội đua nhau để thăng tiến, khi tầm mắt con người thích “nhìn lên”, thì có lẽ chính vấn đề chức năng cần được làm sáng tỏ hơn hết. Chúng ta có được một vài kinh nghiệm quí báu trong dòng lịch sử.
Trong 300 đầu của lịch sử Giáo Hội, khi mà Giáo Hội chỉ là một thiểu số, đang gồng mình chịu đựng sự bách hại của chính quyền Roma cũng như sự nghi kỵ của thế giới “ngoại giáo”, thì nội bộ Giáo hội có được một sự đoàn kết chặt chẽ, đồng thời cũng có ý thức về sự bình đẳng căn bản về phẩm giá làm con Chúa. Trong thời gian ấy, người Kitô hữu ý thức phẩm giá căn bản của mình là Kitô hữu, được ban tặng qua bí tích Rửa Tội, và mọi Kitô hữu đều bình đẳng với nhau trong phẩm giá cao quí ấy. Mặc dù, ngay từ ban đầu, nếp sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai đã có những cơ cấu căn bản của các tác vụ trong cộng đoàn, tuy vậy cha Congar ghi nhận rằng Tân Ước “không nhấn mạnh tới sự phân biệt giữa giáo dân và linh mục trong Giáo Hội, nhưng nhấn mạnh tới sự phân biệt giữa Dân Chúa và những người không phải là dân Chúa[4]. Trong bầu không khí ấy, những ân huệ khác, chẳng hạn bí tích Truyền Chức, không làm cho giáo sĩ trở nên cao quý hơn giáo dân, những là đảm nhận một chức năng đối với cộng đoàn. Chỉ sau khi hết bị bách hại, bầu khí Giáo Hội mới bị phân rẽ do sự khác biệt nội bộ, trong đó, giáo sĩ và tu sĩ dần dần trở thành những thành phần cao quí hơn so với giáo dân. Những giá trị ấy biến mô hình Giáo Hội trở thành “kim tự tháp”, trên đầu là giám mục, rồi linh mục, rồi tu sĩ, và ở cuối của bậc thang giá trị là giáo dân. Chỉ với Công Đồng Vatican II, Giáo Hội mới tìm lại được ý nghĩa cao quí ban đầu, theo đó mọi Kitô hữu đều bình đẳng về phẩm giá làm con cái Chúa; và từ đó mới xuất hiện nền thần học tác vụ :
“"Vì như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể, nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể lẫn nhau" (Rm 12,4-5). Thế nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: "chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Thánh Tẩy" (Eph 4,5), cùng chung một phẩm giá của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội, không còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi lẽ "không còn là người Do Thái hoặc Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô" (Gal 3,38, bản Hy Lạp; x. Col 3,11).
Vì thế, tuy trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa (x. 2P 1,1). Mặc dù theo ý Chúa Kitô, có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô”.[5](GH 32)
            Lối nhìn của Vatican II đã biến đổi mô hình Giáo Hội. Giáo Hội trước đây như một kim tự tháp, trở thành mô hình một sự thông hiệp bình đẳng trong Thánh Thần, trong đó, mỗi thành phần đều có chức năng riêng để phục vụ Giáo Hội.

3. Đi đến cùng ý nghĩa của phẩm giá và chức năng

            Thật ra, phẩm giá luôn phải được liên kết với chức năng, ngay trong bình diện căn bản nhất của hiện hữu người. Nếu không, khi người ta đòi hỏi một sự bình đẳng về phẩm giá, thì đó chỉ là một sự tôn trọng tối thiểu; và khi người ta nói về chức năng, thì chỉ là những chức năng trong tổ chức xã hội, dành cho những người đảm nhận trọng trách nào đó. Giữa phẩm giá và chức năng có một khoảng cách là đời sống riêng tư của mỗi người.
Có lẽ khoảng cách “đời sống riêng tư” chính là mấu chốt của vấn đề. Đối với các tổ chức xã hội, các quốc gia, thì việc tôn trọng một khoảng đời sống riêng tư của mỗi người là điều hết sức cần thiết, nếu không, quốc gia hay tổ chức đó sẽ rơi vào chủ thuyết toàn trị (totaritarisme), trong đó mỗi cá nhận chỉ được coi như một con số, chỉ có nghĩa trong kế hoạch chung của nhà nước. Nhà nước hay tập thể không sinh ra cá nhân và cũng không có quyền ban phát phẩm giá cho cá nhân. Nhà Nước hay tập thể chỉ có quyền trên những gì liên quan đến chức năng trong xã hội, đòi hỏi cá nhân trong những đóng góp vì lợi ích chung trong chức năng riêng của mỗi thành phần. Đối với phẩm giá, nhà nước hoặc các tổ chức xã hội loài người chỉ có bổn phận phải tôn trọng và chăm lo cho phẩm giá ấy được được bảo đảm. Chính vì thế, phẩm giá người thường được gắn liền hoặc đồng hóa với nhân quyền, nghĩa là những quyền lợi căn bản (tối thiểu) của một con người, trong đó khoảng cách “đời sống riêng tư” cần được coi như một nơi bất khả xâm phạm, như một đòi hỏi tối thiểu của phẩm giá người.
Thế nhưng, nếu coi phẩm giá người chỉ như một sự tôn trọng cái tối thiểu, thì cá nhân cũng chỉ “được tôn trọng” trong mức độ tối thiểu. Khi ấy, “đời sống riêng tư” có thể là “được tôn trọng” hoặc là “bị tôn trọng”, nghĩa là để cho mỗi người có quyền sống và quyền chết, có quyền phát triển và quyền tự hủy hoại đời sống của mình, quyền ăn mặc hoặc quyền “tự do chết đói”,…. miễn là không vi phạm đến ai khác, không đụng chạm đến công ích. Đây chính là bầu khí của những nước tây phương. Tuy nhiên, khi cá nhân được tôn trọng hay bị tôn trọng như cái tối thiểu, thì cái “riêng tư” ấy, một cách trái ngược, lại luôn luôn tìm cách tái lập lại những gì mà nhu cầu đòi hỏi về nhân phẩm đã phá hủy đi. Để đi đến khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi người, thì người ta phải loại bỏ chế độ nô lệ, loại bỏ mọi thứ giai cấp xã hội, mọi sự phân biệt chủng tộc, mầu da, phái tính, tín ngưỡng… Thế nhưng, trong thực tế, con người lại không bao giờ loại bỏ được tính ích kỷ, tính ganh tỵ hơn thua. Con người có nhu cầu khẳng định chính mình như một như cầu chân chính để có thể làm-người; rồi chính nhu cầu khẳng định chính mình sẽ lại là “đầu mối tội” để con người tái lập lại những thứ giai cấp mới, những thứ phân biệt mới, tái lập lại những thứ bất bình đẳng khác, theo địa vị xã hội, tài năng, tiền bạc, thậm chí cả trong đức độ. Làm sao có được một cảm quan chân thực về sự bình đẳng về phẩm giá giữa giám đốc và nhân viên, giữa thầy giáo và người lao công trong trường, giữa bác sĩ và những y công, giữa quan chức với những người dân nghèo khổ… ?
            Trong thực tế, chính sự hiện diện bi đát của những người cùng khổ đã giúp nhân loại khám phá ra ý nghĩa của phẩm giá con người. người ta chỉ nhận ra phẩm giá người khi có những người bị xúc phạm, bị chà đạp, bị khinh rẻ, bị đối xử cách bất công. Quả thật, phẩm giá người chỉ xuất hiện trong ánh mắt “nhìn xuống”, dân gian thì thể hiện một sự tôn trọng phẩm giá người khi người ta chết (nghi lễ chôn táng), các triết gia khắc kỷ thời kỳ Roma thì muốn đấu tranh để xóa bỏ chế độ nô lệ, những bản tuyên ngôn nhân quyền của thời đại mới xuất hiện để tổ chức một xã hội không còn những giai cấp, để bênh vực những người nghèo khổ… Trong thế giới con người với nhau, phẩm giá người không vươn lên khỏi được mức độ cái tối thiểul; phẩm giá chỉ được đồng nhất với nhân quyền; và một cách cụ thể, bị giản lược vào “cõi riêng tư” của mỗi người. Chính vì thế, xã hội con người không thể nào thoát được một sự phân cấp xã hội. Nếu ngày nay không còn phân biệt nô lệ như và tự do như xưa kia, thì lại là có những phân cấp, ở mức độ giá trị chứ không phải chỉ ở mức độ chức năng, giữa giầu với nghèo, giữa cao sang và thấp hèn, giữa chủ và tớ…
Thật ra, phẩm giá không phải là điều tối thiểu, nhưng là điều tối đa. Con người có phẩm giá, đó là nền tảng để xây dựng tất cả mọi sự như là những con người. Nói một cách nào đó, con người có “phẩm giá là người” và “phẩm giá làm người”. Nơi con người, bản thân (là-người) và cuộc đời (làm-người) luôn là “tuy hai mà một”. Tất cả mọi sự, mọi thành công và phát triển của một con người chính là diễn tả, thể hiện phẩm giá con người. Cũng như con người cần được thể hiện bản thân một cách chính thực trong cuộc sống hiện sinh, để hoàn thành vận mạng cao quí của mình, thì tất những gì con người sống và hoạt động cũng đều là sự triển khai của phẩm giá cao quý của con người.
Trong cái bế tắc của xã hội loài người, chúng ta nhận ra ý nghĩa trọn vẹn hơn của phẩm giá người trong đức Tin Kitô giáo. Con người được Chúa sáng tạo từ hư vô. Đó là cái mong manh của thân phận con người. Nhưng từ hư vô, con người lại được sáng tạo “giống hình ảnh Thiên Chúa”, đây lại là nền tảng vững chắc nhất của phẩm giá người. Phẩm giá ấy được thể hiện một cách xuyên suốt trong địa vị là-người và hành trình làm-người, nghĩa là chẳng những đòi hỏi phải được tôn trọng như cái tối thiểu, nhưng còn có quyền làm chủ vũ trụ, đặt tên cho muôn vật, quyền phát triển, thăng tiến, quyền được sống phong phú trong trọn vẹn hành trình đời người như cái tối đa. Phẩm giá cao quí ấy không tự nhiên mà có, và cũng không có cách nào con người có thể tự mình giành lấy, hoặc đổi chác mà có được. “Bản thân” của mỗi người chỉ được một ai khác tặng-không sự nhìn nhận. Khi ta muốn đổi sự nhìn nhận của ai khác bằng tài năng, sắc đẹp, đức độ…của mình, thì một cách sâu xa, bản thân của ta vẫn không được nhìn nhận. Bản thân hay phẩm giá là điều không thể mang ra buôn bán, đổi chác như một món hàng. Phẩm giá chỉ có thể có được do Thiên Chúa tặng không. Chính vì thế mà phẩm giá mới có thể đạt đến mức độ “siêu hình”, nghĩa là gắn liền với bản tính con người, ở mọi thời mọi nơi, chứ không phải do một nhà nước hay tập thể cụ thể nào công nhận.
Thật ra, đối với Kitô giáo, việc con người được sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên Chúa” mang ý nghĩa trọn vẹn nhất là để sống-với Chúa. Phẩm giá “giống hình ảnh Thiên Chúa” chỉ có thể phát triển trọn vẹn, phong phú khi con người được sống-với Chúa. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ của Đức Giêsu. Với Đức Giêsu, con người được mời gọi phát triển trọn vẹn phẩm giá người vì được mời gọi để sống-với Chúa Giêsu và trở nên nghĩa tử của Chúa Cha. Trong đời sống đức Tin, chính bí tích Rửa Tội làm nên phẩm giá Kitô hữu, và mọi sinh hoạt của đời sống đức Tin, theo đức Gioan Phaolô II, chỉ là sự triển khai nền tảng bí tích Rửa Tội, nghĩa là một giao ước bản thân của Chúa với ta. Ý nghĩa cao quí nhất của phẩm giá người luôn hướng tới khả thể “được kêu gọi”. Thật ra, phẩm giá không phải là cái gì đơn độc. Phẩm giá chỉ có thực khi được một ai khác nhìn nhận. Phẩm giá không phải là cái tối thiểu, nằm ngủ yên ở đáy sâu phận người, và chỉ bật lên tiếng nói khô khốc để khẳng định mình khi bị chà đạp. Nhưng phẩm giá là-người chỉ nên trọn vẹn khi được đánh thức, được chỗi dậy và được làm-người trong mối tương quan có tính ngôi vị (personnel), mối tương quan luôn bao hàm sự chân nhận phẩm giá. Như thế, ở đây, cái “khoảng cách riêng tư” không còn có nghĩa “số lượng” nhưng là “phẩm tính”. “Cõi riêng tư” không phải là một thứ “không gian”, một vài lãnh vực mà không xã hội nào được đụng chạm tới, nhưng là một chủ quyền mà chỉ riêng mỗi người có quyền quyết định, chủ quyền để giữ lại bản thân và cuộc đời tôi, hoặc cống hiến cả bản thân và cuộc đời tôi cho ai khác.
Ta có thể nói được rằng vấn đề phẩm giá và chức năng, trong Kitô giáo, được giải đáp bằng “mầu nhiệm” ơn gọi và sứ mạng. Với ơn gọi, con người được trao tặng phẩm giá một cách “miễn phí”, được trao tặng một phẩm cao quí hơn hết mọi sự khác trong bản thân và cuộc đời; để rồi, từ cõi riêng tư của chủ quyền, tôi có thể sẵn sàng cống hiến tất cả, thể hiện chức năng phục vụ bằng cách ban tặng lại cách miễn phí cả bản thân và cuộc đời. Bản thân không có ơn gọi chỉ là một cuộc đấu tranh để bảo vệ cái phẩm giá tối thiểu; cuộc sống không có sứ vụ chỉ là một chức năng đối phó với những đòi hỏi bó buộc từ tổ chức chung. Trong ơn gọi và sứ mạng, không có một thứ tài năng, địa vị, hay đức độ nào cao quí hơn phẩm giá “được gọi” và có thể thay thế cho phẩm giá ấy. Trong ơn gọi và sứ mạng, mọi thứ ân ban tặng không đều là điều củng cố và diễn tả phẩm giá cao quí cũng như đều bao hàm lời mời gọi phục vụ như chức năng. Ai đó lấy ân ban chỉ nhằm thể hiện chức năng để làm nên như một thứ phẩm giá giả tạo của mình, đó là kẻ ăn gian.

4. “Cộng đoàn phẩm giá” và “cộng đoàn chức năng”

Trong cuộc sống bình thường, cả trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, người ta vẫn cứ chao đảo giữa phẩm giá và chức năng. Khi “nhìn xuống”, người ta nhận ra phẩm giá nhưng không nhận ra chức năng. Khi “nhìn lên”, người ta nhận ra chức năng mà lại quên mất phẩm giá. Những người tu sĩ “bình thường” thì tìm sự an ủi nơi “phẩm giá thấp kém” để không thấy ra một chút chức năng nào khác hơn là tuân giữ kỷ luật. Nhưng người khác có nhiều điều kiện thăng tiến thì không thể dễ dàng trở về phẩm giá cao quý nhất mà mình đã được lãnh nhận. Ngay trong đời sống Giáo Hội, thái độ ăn gian, lấy những tài năng được ban tặng nhằm thể hiện chức năng để tô vẽ thêm cho phẩm giá của mình, vẫn là điều ta có thể thấy ở mọi cộng đoàn, cộng đoàn giáo xứ cũng như cộng đoàn tu trì.
            Một cách cụ thể, ta có thấy có ba loại hội họp trong cuộc sống cộng đoàn : họp thảo luận, họp học hỏi hay huấn đức và họp chia sẻ. Trong buổi họp thảo luận, những người giỏi sẽ là những người đóng góp nhiều nhất và tốt nhất. Đôi khi chúng ta có một chuyên viên giỏi, trình bày thấu lý một vấn đề, người khác có thể im lặng lắng nghe và chấp nhận hoàn toàn. Trong buổi họp học hỏi hoặc huấn đức, người chịu trách nhiệm sẽ đưa ra những bài học khúc chiết, hoặc những mẫu gương sáng để mọi người cùng noi theo. Họp chia sẻ thì mọi người cùng chia sẻ, không phải cái hay cái tốt của mình, nhưng có thể là những tâm tư, những trăn trở, những cảm nhận và mọi người lắng nghe sẽ hiểu, thông cảm để chấp nhận nhau nhiều hơn.
Họp thảo luận là những buổi họp có tính chức năng, để nhằm giải quyết một vụ việc xẩy ra; trong đó một người nào đó giỏi dang hoặc có điều kiện cần thiết thì có thể làm thay cho mọi người khác. Họp học hỏi hay huấn đức thì có liên quan đến mọi người, nhưng tầm quan trọng vẫn là người chịu trách nhiệm, sự thiếu vắng của một thành viên không trực tiếp ảnh hưởng đến cộng đoàn. Họp học hỏi hay huấn đức cũng nặng tính chức năng nhiều hơn. Trong buổi họp chia sẻ, mỗi người đều được mời gọi hiện diện một cách tích cực, điều chia sẻ của một thành viên nào đó là điều bất khả thay thế và phải được tôn trọng. Chủ đích của buổi họp chia sẻ không phải nhằm chức năng giải quyết một tình huống, một tình trạng, một vụ việc gì cả, mà chỉ là để mọi người đón nhận phẩm giá của nhau trong thực trạng bản thân của mỗi người.
Từ các mô hình hội họp cộng đoàn, ta có thể mở rộng ra để hiểu hơn về phẩm chất của chính cộng đoàn. Một bầu khí cộng đoàn nặng tính chức năng thì có những thành viên trở thành dư thừa, có những người có quyền nói nhiều, có quyền phê phán người khác. Hơn nữa, khi những tiêu chuẩn chung được xác lập một cách quá nhiều, hoặc như những tiêu chuẩn tri thức, hoặc như những tiêu chuẩn luân lý, thì những hoàn cảnh, những tâm tình riêng tư sẽ càng dễ bị phê phán. Một bầu khí cộng đoàn nặng tính chức năng sẽ không có chỗ để đón nhận, để đồng hành, để liên lụy những thành viên có vấn đề. Một cộng đoàn nặng tính chức năng, những người ưu tuyển sẽ là những người đắt giá nhất, và những kẻ bé mọn sẽ lại những kẻ dễ bị loại trừ nhất. Từ tiêu chuẩn này, ta có thể thấy một sự lệch lạc nào đó của bầu khí cộng đoàn đối với nhiệm cục cứu độ ưu tiên cho những người bé mọn mà Chúa Giêsu đã công bố như mầu nhiệm Nước Trời. Ta có thể thấy ở đây một thứ thần khí thế gian khác với sự tác động huyền nhiệm của Thần Khí Thiên Chúa.
Tạm kết
Trong bầu khí xã hội hiện nay, phẩm giá con người lại được tô vẽ bằng những gì tầm thường nhất, không phải do chức năng của con người, nhưng là chức năng của sự vật : một đôi dép, hoặc dầu gội đầu,… có thể làm cho người ta tự tin hơn, lịch lãm hơn. !!! Liệu chừng việc huấn luyện trí thức và mục vụ trong đời sống thánh hiến lại chỉ là một cách cung cấp cho các thành viên những thứ “đôi dép” hay “dầu gội đầu” không ?
            Lòng tôn trọng đối với phẩm giá người là điều kiện căn bản để con người có thể sống trong thế giới yêu thương đích thực. Chỉ khi nào bầu khí cộng đoàn toát lên một sự bình đẳng về phẩm giá thì những “kỹ năng” trí thức hay mục vụ mới thực sự thể hiện đúng căn tính chức năng mà thôi. Thật ra, sức mạnh đích thực của cộng đoàn không nằm ở chức năng nhưng ở sự chân thực của bầu khí tôn trọng phẩm giá. Bởi vì, từ một sự trân trọng phẩm giá của từng thành viên trong cộng đoàn, chúng ta sẽ có được những chứng tá của đời sống đức tin, chứng ta sự hiện diện của Chúa, chứng tá quyền năng và tình yêu kỳ diệu của Chúa. Ngược lại, thiếu sự trân trọng phẩm giá của từng thành viên, cộng đoàn sẽ rớt vào thái độ duy luân lý hoặc duy lý.

Nguyễn Trọng Viễn O.P.












































[1] Sénèque, Benef. III 22-28). Xc. Jacqueline Lagrée : Le naturalisme stoïcien. Conférence prononcée au lycée Chateaubriand de Rennes le mardi 2 octobre 2001.
[2] Xc. Phan Tấn Thành O.P., Đời Sống Tâm Linh VIII, Phẩm Giá con người : Nhân Phẩm và Nhân Quyền.
[3] Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II sử dụng thuật ngữ này khi bàn về phẩm giá con người (s.12) và sách Giáo Lý Công Giáo cũng tiếp tục đường hướng ấy (ss355-361). Càng ngày Giáo Hội càng thấy rõ tầm quan trọng của khẳng định này trong nhiều lãnh vực (X. Văn kiện của Ủy ban thần học công giáo “Communion et Service : L’homme créé à l’image de Dieu, phát hành ngày 23/7/2004)
[4] Xc. Y. Congar, Les Laic et Mission de L’Église, trích lại trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Ed. Cerf, 1987, p.612.
[5] Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 32.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Top