Giao Ước bản thân
1. Nỗi xao xuyến của người độc thân
Độc thân thì “khoẻ” hơn lập gia đình nhiều, vì không phải vướng víu nhiều chuyện, không phải
chiều ý nhau trong nhiều chuyện vô duyên, hoặc vô lý. Nhưng đời sống độc thân
không giải quyết được nỗi cô đơn sâu xa của con người. Đến một độ tuổi nào đó,
người sống đời sống độc thân cảm thấy mình không thuộc về ai, và cũng không ai
thuộc về mình. Vì không ai thuộc về mình, nên người sống độc thân không dại gi
“bung ra” hết mình, cho đi trọn vẹn những gì cần thiết để bảo đảm cho cuộc sống
của mình. Vì mình không thuộc về ai, nên người sống độc thân không dám phó đời
mình cho ai cả, phải tính toán kỹ lưỡng cho cuộc đời mình, phải tìm mọi cách để
có thể tự mình đón nhận những khó khăn của bệnh tật, của biến động …Cuộc sống
không có mối liên hệ vói ai khác một cách sâu xa dễ làm cho người sống độc thân
tìm cách bảo vệ đời mình bằng những sự vật. Người sống độc thân thường tìm cách
ổn định đời mình bằng thời khóa biểu, bằng những sự vật quen thuộc, những cách
thức sống quen thuộc… mà tự thâm tâm vẫn man mác một sự xao xuyến về tương lai
của mình. Rồi khi bệnh tật, người sống độc thân cũng thường tìm cách giải quyết
mọi sự theo tiêu chuẩn là tìm sự an toàn cho mình chứ không phải vì lợi ích cho
những người thân.
2. Hai nhu cầu căn bản
Con người ta có hai nhu cầu căn bản, nhu cầu được chấp
nhận và nhu cầu khẳng định bản thân. Hai nhu cầu này tương tác mật thiết với
nhau, nhưng không phải là dễ hoà hợp một cách đúng đắn. Trong rất nhiều trường
hợp, trong phần lớn cách tính toán của con người, khi người ta tìm cách thoả
mãn nhu cầu này, thì một cách nghịch lý, người ta lại khoét sâu chỗ thiếu hụt
của nhu cầu kia. Nhu cầu được chấp nhận là nhu cầu căn bản, nhưng vì không muốn
được chấp nhận như là một sự thương hại, người ta phải tìm cách khẳng định bản
thân. Tuy nhiên, nếu như ta tính toán phương trình của cuộc sống theo kiểu cần
khẳng định bản thân để được chấp nhận, người ta sẽ rơi vào tình trạng không
được chấp nhận chính bản thân, mà chỉ được chấp nhận như là tài năng, như là
tiền bạc, như là sắc đẹp…, tức là những gì có thể mất đi trong khi bản thân của
ta vẫn còn đó.
Nhưng nếu không khẳng định bản thân, thì người ta có thể
tìm ở đâu được một sự chấp nhận vô điều kiện, hoặc hơn nữa là một tình yêu tha
thứ ? Nếu không khẳng định bản thân, người ta có rơi vào một thái độ sống bèo
bọt, gặp chăng hay chớ ?
Con người giống như kẻ đứng ở dưới nước sâu, chân không
đụng đất mà đầu thì cứ muốn vươn lên để được bằng chị bằng em. Nhiều khi muốn
vươn lên bằng một sự khẳng định bản thân tốt, thì người ta lại rơi vào tình
trạng chân không chạm đất, nghĩa là thực sự mình phải dấu đi rất nhiều khuyết
điểm, sai sót, tội lỗi của mình; và đó cũng là tình trạng không được chấp nhận
từ bên dưới, không được chấp nhận trong con người thật của mình, không được
chấp nhận chính bản thân của mình.
Thật ra, chỉ có một con đường chân chính, con đường dám
để chân mình chạm đất, nghĩa là trước tiên chính mình dám chấp nhận con người
thật của mình, dù là bị “ngập nước” trong tình trạng không được bằng chị bằng
em. Nhưng con đường này cần phải được một ai đó dám chấp nhận bản thân mình, ai
đó dám đỡ nâng cuộc đời mình “ở bên dưới”… Khi đó, cuộc đời sẽ được cấu trúc
theo phương trình : được chấp nhận bản thân, ra sức khẳng định bản thân để đáp
lại nghĩa tình vì mình đã được chấp nhận rồi. Đây là một phương trình không dễ
“cân bằng”, vì không dễ mà người ta có được sự chấp nhận bản thân cách đơn
thuần, vô điều kiện và tha thứ.
Chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt của hai nhu cầu căn
bản khi so sánh thế giới trong nhà và thế giới ngoài đường. Khi ta đi ra đường,
mọi sự đều là đổi chác. Trong thế giới ngoài đường, từ những đồ vật cho đến
thân xác con người, từ những tài năng cá nhân cho đến vị thế xã hội, và cả đức
độ của một con người, tất cả đều được đưa vào bài toán kinh tế thị trường,
nghĩa là được đặt lên một bàn cân để cân nhắc lời lỗ của một cuộc trao đổi. Nét
đặc trưng của việc buôn bán này là làm sao hai bên cùng có lợi, nghĩa là bên
nào cũng phải thu lời được cho mình. Mặt khác, việc mua bán đổi chác ấy luôn là
chuyện thời vụ, hiểu theo nghĩa là trong từng “hợp đồng” có tính ngắn hạn, bởi
vì đó không phải là giao ước đụng chạm đến bản thân.
Trong khi đó, khi về đến gia đình, người ta sống trong
một bầu không khí khác, bầu không khí của một sự chấp nhận bản thân của nhau.
Khi đó, những tương quan hằng ngày không phải là đổi chác, không phải là những
trao đổi theo nguyên lý của sự công bằng.
Cuộc trao đổi của thế giới ngoài đường không đụng đến
được bản thân của con người, chỉ là những trao đổi những sự vật (sự vật là tất
cả những gì không phải là bản thân của con người). Trong thế giới trao đổi sự
vật đó, nếu người ta có xúc phạm đến phẩm giá, hoặc đối sử lịch sự với nhau,
thì thật ra đó cũng chỉ là chuyện “lễ nghĩa” mà thôi. Trên nền tảng ấy, cuộc
đối thoại ngoài đường thật ra cũng chẳng phải là cuộc đối thoại thoả mãn được
khát vọng sống với của con người.
Ở trong gia đình, người ta chấp nhận bản thân của nhau.
Nơi đây, những gặp gỡ, trao đổi hằng ngày, không phải là trao đổi, nhưng hướng
mở tới một sự liên kết sâu hơn, làm dày lên nghĩa tình trong hành trình cuộc
sống. Trong gia đình, mọi “trao đổi sự vật” chỉ là một cách diễn tả của bản
thân cho nhau; trong khi đó, nơi thế giới ngoài đường, chính bản thân lại có
nguy cơ bị giản lược vào “sự vật” để đổi chác.
Gia đình là một lý tưởng đẹp trong đó con người có thể
cảm nhận mình được chấp nhận. Tuy nhiên, không phải ai cũng tìm được một đời
sống gia đình, và không phải gia đình nào cũng thể hiện được trọn vẹn lý tưởng
chấp nhận bản thân của nhau. Chỉ trong Đức Tin Kitô giáo, mọi người mới thực sự
tìm được nơi chốn an bình căn bản cho tâm hồn mình.
3. Giao ước bản thân với Chúa Giêsu
Khi người ta làm một căn nhà tạm thời, một căn nhà không
có móng, thì điều quan trọng là phải nối kết kèo cột với nhau thật chắc. Nhưng
khi người ta muốn dựng một căn nhà vững bền, thì điều quan trọng hơn là phải có
nền móng vững chắc. Với căn nhà tạm thời, khi kèo cột bung ra, căn nhà sụp đổ.
Nhưng với một căn nhà có móng, khi kèo cột rời ra, lung lay, lắc lư, nó vẫn có
thể đứng được. Rồi người ta lại tìm cách nối kết kèo cột lại với nhau. Hình ảnh
căn nhà như thế giống với những mối tương quan con người với nhau. Khi người ta
“gá nghĩa” tạm thời, theo tình đồng nghiệp, tình nghĩa làng xóm… thì cần phải
biết cư xử với nhau cho đẹp, phải biết điều, biết ngó trước nhìn sau, biết liệu
cơm gắp mắm… bởi vì nếu “kèo cột” không ăn khớp với nhau, thì mọi sự sẽ đổ bể
hết.
Tuy nhiên, trong đời sống gia đình, khi người ta chấp
nhận bản thân của nhau, thì mặc dù những điều ăn khớp trên kèo cột vẫn luôn cần
thiết, nhưng điều quan trọng nhất lại chính là một sự “thuộc về nhau”, thuộc
trọn về nhau; đây là một sự liên kết trong móng nền. Nhiều khi, trong gia đình,
anh chị em không hợp tính nhau, thường xuyên cãi vã… nhưng dù sao họ vẫn là anh
chị em của nhau, vẫn thuộc về nhau từ trong dòng máu của mẹ cha. Do đó, dù nói
gì thì nói, dù tức bực với nhau sao đó, người ta vẫn phải dành ưu tiên những gì
quí nhất cho những người thuộc về mình chứ không phải cho một người ngoài, dù đây
là người rất hợp tính với mình.
Như thế, chúng ta hiểu ra rằng bí quyết của tình yêu
không phải là sự ăn khớp tính tình, không phải chỉ là yêu thích những nét đẹp
của nhau, nhưng căn bản hơn, đó là sống trong một nền tảng “thuộc về nhau”. Bí
quyết đó là một thực tế hết sức quen thuộc của đời thường, ta có thể dễ dàng
kiểm chứng và mọi người có thể sống được. Một khi đã xây dựng được một sự thuộc
về nhau, tức là một sự đón nhận bản thân của nhau, người ta có khả năng vượt qua
được những mâu thuẫn, những xung đột, hoặc những chướng ngại của một tật xấu
nào đó, để có thể đón nhận người thuộc về mình một cách quảng đại và vô điều
kiện.
Nếu như trong Cựu Ứơc, giao ước giữa Giavê với Dân còn có
phần tính toán, tìm lợi lộc và chưa dính dáng trọn vẹn đến bản thân của mỗi
người, thì Tân Ước mới thực sự là giao ước ở mức độ bản thân. Nơi đây, Thiên
Chúa trao trọn bản thân của Ngài trong Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, và người Kitô hữu cũng dâng
trao trọn vẹn bản thân mình cho Chúa.
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16)
Chúng ta có thể thấy rõ giao ước của bí tích Rửa Tội
không phải là một thứ giao ước thuận mua vừa bán. Trong loại giao ước như thế,
mỗi bên chỉ góp vào một phần sự vật nào đó của mình chứ không đóng góp chính
bản thân mình. Ngược lại, trong giao ước “móng nền”, giao ước “ngôi vị” sẽ làm
nên một “cộng đồng ngôi vị”, trong đó, người ta đem chính bản thân mình ra để
“ký kết”. Trong giao ước ngôi vị như thế, mỗi bên trao phó trọn vẹn bản thân
mình cho nhau và cũng đón nhận trọn vẹn bản thân của người kia.
Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta; và mỗi
người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội, chấp nhận chết đi cho con người cũ để
sống một con người mới hoàn toàn, con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa, từ lối
sống cho tới cả những ý nghĩ thầm kín nhất….
* "Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình,
cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có
chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về
Chúa" (Rm 14,7-8)
* "Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang
sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì
mình". (2Cr 5,15)
Có thể nói, tất cả đời sống Kitô hữu không là gì khác hơn
sự triển khai nguồn sức sống mới từ bí tích Rửa Tội. Sống trong giao ước “móng
nền” của bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa là Đấng “cùng phe”
với mình, Thiên Chúa giúp mình “trả nợ đời” chứ Ngài không phải là ông chủ nợ.
Thiên Chúa là người Cha với tất cả phẩm chất của người Cha chứ không phải là
một ông chủ :
"Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : 'Mau đem áo đẹp
nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt
con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết
mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng." (Lc
15, 21-24)
Trong Tân Ước, Thiên Chúa trao ban chính bản thân mình,
chứ không phải chỉ là trao ban một đồ vật, một món hàng nào đó. Điều đó giống
như một người “nắm đàng lưỡi” chứ không nắm đàng chuôi, chỉ có niềm tin vào
tình yêu được đáp trả là sức mạnh duy nhất để đợi chờ. Tình yêu trao bao cần
phải được chờ đợi, để lãnh nhận chính bản thân của người tín hữu tự do trao
tặng. Thiên Chúa đã muốn chọn con đường yêu thương như thế.
* Tạm Kết
Chỉ khi quyết định ký giao ước bản thân với ai khác,
người ta mới thoát khỏi được nỗi cô đơn “siêu hình”, nỗi cô đơn bám chặt vào
thân phận người. Nhưng ký giao ước bản thân, đó cũng là một khởi đầu của hành
trình ra khỏi bản thân, là bắt đầu biết sống vì ai khác, sống cho ai khác, và
hướng tới dám chết vì ai khác. Bắt đầu sống giao ước bản thân là một quyết định
có tính sinh-mệnh của ý nghĩa đời sống con người, đặc biệt là đời sống Kitô
giáo. Ta có thực sự dám sống giao ước bản thân với Chúa Giêsu ?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.