Tĩnh Tâm Tu Hội Nữ Tử Bác Ái
2006
I. Nước Thiên Chúa
1. Đối diện với Nước thế gian
1.1 Những ước mơ của thế giới
Con người
không thể sống nếu không có ước mơ, nhưng con người cũng đau khổ vì ước mơ. Với
ước mơ, con người có thể đạt được biết bao nhiêu tiến bộ trong cuộc sống. Càng
ngày người ta càng thấy rằng, trong tất cả mọi chuyện, ngay cả trong khoa học,
con người cũng cần khởi đầu bằng ước mơ. Tuy vậy, cũng chính vì ước mơ mà con
người phải vất vả, cực nhọc; cũng chính vì ước mơ mà con người đánh mất đi niềm
an vui tự tại; cũng chính vì ước mơ mà con người đau khổ, khi mà mơ ước không
đạt được. Vì vậy nên đã có những học thuyết dạy ta phải diệt trừ hết mọi ham
muốn để có thể đạt được sự thanh thản.
Ngày hôm nay, có lẽ không phải chỉ
là người ta ước mơ mà là khát vọng. Xưa kia, xã hội không dễ dàng mở ra những
con đường để vượt thoát số phận, và ”con vua thì lại làm vua, con sãi chùa
lại quét lá đa”. Ngày nay thì khác, xã hội, một cách tích cực, mở đường cho
những ai muốn thăng tiến; và một cách tiêu cực, bầu khí xã hội vẫn luôn mời
mọc, dẫn dụ con người bằng nhiều viễn tượng thăng tiến và hưởng thụ. Trong bầu
không khí ấy, người ta không còn có thể an phận và hình như cũng chẳng có thể
dừng lại khát vọng của mình. Người bạn trẻ ngày nay không chỉ ước mơ một cuộc
sống sung túc; một tình yêu chân thật; một đời sống bình yên không trắc trở;
một sự thành đạt về danh vọng . . . nhưng thường là khát vọng nhiều thứ, khát
vọng tiền tài, khát vọng địa vị, khát vọng hưởng thụ, khát vọng thăng tiến. . .
Hơn nữa, trong thời đại hôm nay, mọi
sự đều tiến mau, quá mau ! Những bước tiến bộ ấy giúp thăng tiến cuộc sống con
người nói chung, nhưng đồng thời cũng để lại trong tâm hồn một sự xao xuyến sâu
xa, một sự bất an đeo đuổi suốt hành trình con người, trong mọi hoàn cảnh.
Những bước tiến bộ của xã hội con người có tác dụng thách đố và phá đổ hết công
trình vững vàng của con người : căn nhà cũ tôi trở thành lỗi thời, tài năng của
tôi bị người khác đe doạ vượt qua, vị thế của tôi có thể mất, công việc của tôi
bị đặt trong một sự cạnh tranh khốc liệt, thậm chí ngay cả nhiều giá trị nhân
văn truyền thống cũng bị đặt thành vấn đề, chẳng hạn lòng trung thành, thái độ
trân trọng vuộc đời . . . Đối diện với cuộc sống hôm nay, người ta phải cố gắng
không ngừng và nhất là phải có dũng khí để vượt qua mọi thử thách. Do đó, con
người thời đại này không còn yên ổn với quá khứ và cũng chẳng đồng ý với hiện
tại; con người ngày nay luôn bị thách đố phải đấu tranh với tương lai. Thời
nay, tương lai trở thành thách đố căn bản.
Cuộc đời vốn đã không đơn giản : mơ
ước của con người thường trở thành ảo vọng, lý tưởng thường là điều không thể
đạt đến được, lực bất tòng tâm, hoàn cảnh không cho phép, . . . Ngay cả khi ra
như đã đạt được mơ ước, thì người ta lại vẫn thấy hụt hẫng, vì ước mơ và thực
tế không hoàn toàn giống nhau. . . Trong bầu không khí thị trường ngay nay,
cuộc đời ấy lại càng không đơn giản : để an ổn thôi cũng đã cần phải đấu tranh;
và khao khát thăng tiến thì phải lao vào cuộc cạnh tranh nhiều khi khốc liệt,
khiến không ít người ngã gục hoặc bị loại ra bên lề xã hội. Thế rồi, để thực
hiện ước mơ của mình, trong những hoàn cảnh khắt nghiệt ấy, người ta thường
phải làm tất cả, không trừ cả những phương cách bất chính. Trong không ít hoàn
cảnh, “hoàn cảnh xã hội” trở thành qui luật khiến cho những phương cách bất
chính ấy lại trở thành như qui luật bình thường hoặc qui luật khôn ngoan của
con người thời đại.
1.2 Qui luật của Nước thế gian
Quả thật trần gian chưa phải là Nước
Trời, và con người vẫn luôn có nguy cơ trượt từ một thứ thế gian theo nghĩa
tốt, theo nghĩa là cuộc sống Chúa ban cho, để rơi vào một thứ thế gian của
satan. Trần gian vẫn mời mọc những giấc mơ đẹp, kèm theo đó là những qui luật
sống xấu xa, qui luật đấu tranh của satan. Qui luật thế gian ấy nhiều khi còn
xâm lấn vào cả trong những “lãnh địa thiêng liêng” của Nước Trời : trong điều
hành giáo xứ, trong cơ chế của giáo phận, trong việc theo đuổi ơn gọi, trong
tác vụ linh mục, trong sứ vụ mục vụ . .
Nhân loại vẫn luôn cố gắng xoay sở
để các tương giao xã hội công bằng hơn, đó là một xã hội cố gắng thực hiện sự
công bằng phân phối và công bằng giao hoán. Sống trong xã hội ấy, người ta đòi
hỏi con người phải thể hiện được thái độ tôn trọng của cải, tài sản người khác
theo qui luật tạm gọi là “thuận mua vừa bán”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy
những chỉ thị của Chúa, phần lớn, thuộc loại qui luật ấy : “Ai giết người thì
bị đưa ra toà”, “chớ ngoại tình”, “Ai rẫy vợ thì phải chơ vợ chứng thư ly dị”,
“chớ bội thề nhưng hay trọn lời thề với Đức Chúa”, “Mắt đền mắt, rằng đền
răng”, “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”, . . .
Tuy vậy, không ít người không muốn
dừng lại ở thái độ công bằng đối với người khác. Người ta tìm nhiều kẽ hở của
luật pháp, hoặc cố tính vi phạm luật để có thể thu vén được nhiều lợi ích cho
bản thân mình, cho gia đình mình. Trong một xã hội văn minh, vẫn có nhiều người
muốn sống bầu khí man rợ của thế giới “mạnh được yếu thua”, hoặc ”cá lớn nuốt
cá bé”. Mặt khác, cách thức tổ chức đời sống của xã hôi, tư bản cũng như xã hội
chủ nghĩa, thật sự đều không trọn vẹn, và ở đâu người ta cũng thấy có những bất
công, nghĩa là xuất hiện lối sống theo qui luật “cá lớn nuốt cá bé”, một cách
khác thời tiền sử nhưng chẳng kém man rợ hơn xã hội tiền sử. Đó là qui luật của
cuộc đấu tranh bi đát, nghĩa là sự hiện diện của người này loại trừ sự hiện
diện của người kia; sự phát triển của lãnh vực này đè bẹp sự phát triển của
lãnh vực khác; sự thăng tiến của người này đưa đẩy sự suy thoái của kẻ khác… Đó
là qui luật của sức mạnh, và qui luật đó lôi cuốn nhiều nỗ lực thăng tiến của
mỗi con người vào cuộc cạnh tranh sống còn, gần với thứ bản năng sinh tồn theo
nghĩa sinh vật. Cuộc đời giống như một cuộc thi tuyển, việc người này được lựa
chọn tất nhiên là sự loại trừ đối với người khác; tôi muốn khẳng định tôi, bắt
buộc tôi phải “hạ bệ” người khác, hoặc là minh nhiên, hoặc là mặc nhiên. Điều
đó trở nên lẽ thường tình của qui luật trần gian.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa
Giêsu công bố Nước Trời như một thế giới mới, chẳng những vượt trên kiểu sống
“cá lớn nuốt cá bé”, nhưng còn vượt hẳn tinh thần “thuận mua vừa bán” của Cựu
Ước : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em. . .”, “ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại
tình”, đừng thề chi cả”, “đứng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên
phải thì hãy giơ cả má bên trái nữa”, “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những
kẻ ngược đãi anh em”. . . {Xc.
Mt 5,17- 6, 6}. Những điều đó liên hệ
thiết thân với cách sống của người Kitô hữu và là những “đòi hỏi” hết sức cụ
thể của Nước Trời trong cuộc sống hằng ngày.
Thách đố của cuộc sống tu sĩ hôm nay
không phải là thách đố “ngoài bức tường tu viện”, nhưng là thách đố của chính
bản chất con người. Không phải là một thứ thế gian ở trong một không gian nao
đó, nhưng là tinh thần của thế gian ngay trong tâm hồn. Người tu sĩ cũng khó có
thể tránh được cám dỗ áp dụng qui luật thế gian, hoặc ít là qui luật tương đối
của Cựu Ước trong cuộc sống thánh hiến của mình : nhận định về Giáo Hội như về
một tổ chức trần gian, lo lắng về tương lai đời sống thánh hiến, cảm thấy bấp bênh
trong đoàn sủng của Hội dòng, bất mãn trong đời sống cộng đoàn và hèo mòn vì
chính bản thân hay vì của nếp sống quen thuộc hằng ngày. . .
1.3 Nước Thế gian và Qui luật thế gian đang thắng thế?
Ngày nay, mấy ai có thể chống lại
trước cám dỗ của qui luật thị trường ? Mấy ai biết tự lượng sức mình, tự tìm
thấy bình yên trong hoàn cảnh của mình ? Khao khát thăng tiến là cần thiết;
nhưng làm sao có thể vẫn giữ được sự bình an trong tâm hồn ? Trước bao nhiêu
xao xuyến và đổ vỡ vì qui luật thế gian, con người vẫn không thể dừng bước để
“an vui trong số phận”, nhưng vẫn phải lao vào cuộc để có thể “sống còn”.
Trong môi trường tu viện ngày nay,
liệu chừng những khó khăn trục trặc của cuộc sống có được “xem, xét, làm” dưới
ánh sáng Tin Mừng không ? Phải chăng tất cả những yếu kém của phẩm chất đời tu
cũng chỉ là do người tu sĩ tin vào Đức Giêsu nhưng đã không dám tin vào Tin
Mừng của Ngài ? Do đã không nhận ra sự hiện diện đã bắt đầu của Nước Trời trong
tu viện, trong lịch sử cuộc đời mình, trong nếp sống thường ngày ?
Trong suốt Tin Mừng, chúng ta thấy
đức Giêsu đã phải chiến đấu với “qui luật thế gian”, và nhất là chiến đấu với
những người hành sử nhân danh qui luật Cựu Ước như một giá trị tuyệt đối. Kết
cuộc của cuộc đấu tranh đó là đức Giêsu bị treo trên cây thập giá. Thế gian hả
hê như những kẻ chiến thắng và nhạo cười cái lý tưởng có vẻ như “ảo vọng” của
đức Giêsu.
"Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi
mình. Hắn là Vua Ít-ra-en ! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng
ta tin hắn liền ! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả
thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói : "Ta là Con Thiên Chúa !". Cả
những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế. {Mt 27,
42-44}
Ngày nay, Nước Trời bước vào cuộc
“cạnh tranh kinh tế thị trường” với nước thế gian. Cám dỗ của nước thế gian,
của qui luật sống theo thế gian, của những cách ứng xử có vẻ như mang lại thành
công trước mắt; và đó là một cám dỗ nguy hiểm. Đó không là gì khác hơn cám dỗ
của Satan đối với đức Giêsu {trình thuật cám dỗ} và dĩ nhiên cũng là cám dỗ đối
với môn đệ đức Giêsu. Người mục tử cũng thường bị cuốn theo cám dỗ muốn thiết
lập ngay trật tự trong giáo xứ, giải quyết ngay những trục trặc bằng biện pháp
của sức mạnh : đòi hỏi người khác thay vì tha thứ; người tu sĩ cũng không thoát
khỏi cám dỗ thờ phượng Chúa bằng nghi lễ, hoặc bố thí để thoả mãn danh vọng;
người Kitô hữu vẫn khó thoát khỏi cám dỗ trả thù người khác bằng những cách
tinh tế nhất…
2. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian
“Thầy
nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế
gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian."
{Ga 16,33}
2.1 Thiên Chúa đáp ứng ước mơ của con người
Thiên Chúa trân trọng ước vọng của
con người, nhưng Thiên Chúa không thiết lập một vương quốc trần thế; “Nước Ta
không thuộc về thế gian”. Isaia đã ước mơ, và ước mơ của ông cũng có vẻ là một
ước mơ vô vọng. Nhưng thật ra, đó không phải là ước mơ vô vọng, vì nó không dựa
vào khả năng của con người mà là dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa, Ước mơ đó là
chính “ước mơ” của Thiên Chúa, là do “Đức Chúa phán
như vậy” :
“Sói
với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta." ĐỨC
CHÚA phán như vậy.” {Is 65,25}
Sứ điệp chính yếu của Chúa Giêsu là
Nước Trời. Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu công bố Hiến chương Nước Trời
{Mt 5-7}, nơi đó, ước mơ của con người không phải do con người tự mình xây dựng
nên, nhưng là do hành động của Thiên Chúa; và chính Thiên Chúa thực hiện ước mơ
của con người, nhưng theo những tiêu chuẩn khác với con người thường làm. Thiên
Chúa sẽ thực hiện ước mơ ấy nơi Tin Mừng của đức Giêsu và nơi chính bản thân
đức Giêsu. Thiên Chúa thoả mãn ước vọng của con người bằng cách thiết lập Nước
Trời, một trời mới đất mới, một thế giới hoà bình, một tình yêu đại đồng. . .
trong đó, trọng tâm chính là một tình yêu tặng không lớn hơn mọi tình yêu
{Xc.Ga 15,15}.
“Thấy
đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người
mở miệng dạy họ rằng :
"Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.{. . .} {Mt 5,1-3}
Tin vào Chúa Giêsu cũng là tin tưởng
vào Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo và tin vào qui luật Nước Trời. Qui luật
của Nước Trời, có thể nói, là qui luật “tặng không”, qui luật “lấn trước”, qui
luật diễn lòng quảng đại của Thiên Chúa chứ không phải qui luật mua bán trả vay
của thế giới con người. Qui luật Nước Trời thể hiện một thế giới “đảo ngược” :
*
“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ
điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên
trời thật lớn lao.
Quả
vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như
thế.” {Mt 5, 11-12}
*
"Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước
Trời.{Mt 18,4}
“Thế
là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống
hàng chót” {Mt 20,16}
Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu
là “Nước Trời đã gần đến”, điều đó không có nghĩa là mai mốt hay vài năm nữa
Nước Trời sẽ đến; nhưng ý nghĩa chân chính của lời giảng “Nước Thiên Chúa đã
đến gần”, đó là Nước Trời đã có mặt rồi và đang hướng tới chỗ thành toàn. Cùng
với sự hiện diện của Chúa Giêsu, Nước Trời đã bắt đầu; và trong tác vụ của Giáo
Hội, Nước Trời đang lớn lên.
2.2 Tu sĩ, những người sống chết vì Nước Trời
Người Kitô hữu nói chung là những
người sống trước thực tại Nước Trời. Tuy nhiên, truyền thống Giáo Hội là cũng
nhìn thấy đời sống thánh hiến như một dấu chỉ đặc biệt về thực tại Cánh Chung.
Công đồng Vatican II lập lại giáo huấn ấy :
“Thực
vậy, dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một
thành trì mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần
tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi người tín hữu thấy của cải trên trời
đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã
đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai
và vinh quang Nước Trời {. . . }. Sau cùng bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy
Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả
biết bao . . .}{GH 44c}[1]
Tuy nhiên, bởi vì thực tại Nước Trời
đang trong quá trình “vượt qua”, quá trình “rên siết và quằn quại như sắp sinh
nở” {Rm 8,22}, nên dấu chỉ Nước Trời lại cũng luôn luôn gắn liền với Thập giá
Đức Kitô :
“Người
được thánh hiến, trong những bậc sống khác nhau được Chúa Thánh Thần khơi dậy
suốt dòng lịch sử, cảm nghiệm chân lý về Thiên Chúa là tình yêu một cách trực
tiếp và sâu xa hơn khi họ đứng dưới cây Thập giá của Chúa Kitô. Người là Đấng,
khi chết, trở nên không còn hình tượng và xấu xí trước mắt mọi người, đến nỗi
khách qua đường phải che mặt {X. Is 53,2-3}, thì trên thập giá lại biểu lộ trọn
vẹn sự tốt lành và quyền năng tình yêu Thiên Chúa” {ĐSTH 24}
Nước Trời đã có mặt ở trần gian nơi
bản thân Chúa Giêsu và đã chiếu ánh sáng hạnh phúc cho con người; nhưng Nước
Trời còn giống như kho báu, giống như ngọc đẹp, mà người người Kitô hữu nói
chung, đặc biệt là các tu sĩ cần phải đổi tất cả những giá trị trần gian để có
thể chiếm lấy được:
"Nước
Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì
liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa
ruộng ấy.
"Nước
Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một
viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
{Mt 13,44-46}
Tu sĩ chính là những người dám tin
rằng Hiến chương Nước Trời đang trở thành qui luật của thế giới nhân loại.
Trong thế giới trần gian hôm nay, Hiến chương Nước Trời vẫn chưa “hiển nhiên”;
nhưng Nước Trời làm nên hạt, nên men, nên muối, nên ánh sáng. . . . để biến đổi
trần gian. Nói như Dostoievsky, cái đẹp cứu độ thế giới; nhưng cái đẹp căn bản
hơn hết, đó là chính vẻ đẹp của tình yêu Đức Kitô. Tu sĩ là những người đi tìm
cái đẹp với linh đạo “yêu thích vẻ đẹp thần linh”[2],
và là những người làm chứng về “vẻ đẹp” ấy :
“Người
tốt lành, ôi Ngôi Lời bên cạnh Thiên Chúa {…}. Người tốt lành trên trời, tốt
lành dưới đất {…}; tốt lành trong các phép lạ, tốt lành trong nhục hình; tốt
lành khi Người mời gọi đi đến sự sống và tốt lành khi không phải lo âu về cái
chết {…}; tốt lành trên thập giá, tốt lành trong nhà mồ, tốt lành trên trời cao
{…}. Chớ gì sự yếu hèn của thể xác đừng để anh em không nhìn thấy vẻ lộng lẫy
tốt lành của người !”[3]
2.3 Tin vào Nước Thiên Chúa
Trong đường hướng Công Công đồng
Vatican II, chúng ta biết Giáo Hội tìm cách hiểu lại ý nghĩa thực tại Cánh
Chung, và điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cách sống đời sống đức
Tin của người Kitô hữu.
Khác với Nhất Lãm và Phaolô, tin
Mừng Gioan không nói đến “Triều đại Thiên Chúa” (trừ ở Ga 3,3-5.) và cũng chẳng
nói tới sự “Quang lâm của Con Người” từ đám mây trời. Thực tại cánh chung theo
Gioan không còn qui chiếu vào ngày tận thế như một thời điểm hay khung cảnh
trời mới đất mới, vũ trụ thay đổi của ngày cánh chung, nhưng là những thực tại
“bây giờ”[4]. Gioan
diễn tả sự sống vĩnh cữu cũng như việc xét xử thế gian đang diễn ở đây và lúc
này, khi mà người ta chấp nhận hay từ khước tin vào Đức Kitô :
*“Thật
Tôi bảo các ông: ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời
đời và khỏi vị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Thật tôi bảo các
ông: giờ đã đến – và chính lúc này đây – giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên
Chúa; ai nghe thì sẽ được sống” {Ga 5, 24-25}.
*
“Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian. Giờ đây, thủ lãnh thế gian này
sắp bị tống ra ngoài”{Ga 12, 31}
Như thế, trong Tân Ước, người ta
đã thấy nhiều yếu tố nêu lên sự hiện diện của thực tại cánh chung giữa lòng
lịch sử. Phán xét, Phục sinh, đời sống vĩnh cửu, sự hòa giải con người với
nhau, đời sống thân mật với Thiên Chúa… đó là những yếu tố của một tạo thành
mới đã khởi đầu ngay trần gian này. Tất cả tạo thành chỉ còn chờ đợi “Ngày của
Chúa”, không phải như một thời điểm chấm dứt tất cả mọi sự, nhưng như một sự
biến đổi để hoàn tất và mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho tất cả lịch sử nhân loại
cũng như cho tất cả sự tiến hóa của vũ trụ. Trong chiều hướng ấy, Hiến chế tín
lý về Giáo Hội khẳng định:
“Như thế, thời đại cuối cùng đã đến
với chúng ta rồi vậy {Xc. 1 Cr 10,11}… chúng ta, những người đang sống trong
thời đại sau hết này” {1 Cr 10,11). Việc canh tân thế giới được thiết lập một
cách bất khả phục hồi và thực sự đã bắt đầu một cách nào đó ngay từ bây giờ, vì
Giáo Hội trên mặt đất đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy
chưa hoàn hảo. Dù vậy, cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị
{Xc. 2 P 3,13}, Giáo Hội lữ hành mang khuôn mặt chóng qua của thời này, qua các
bí tích và định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội vẫn sống giữa
các thụ sinh tới này còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn lúc sinh con,
và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện {Xc. Rm 8, 19-22}” {MV 48c}.
Như thế, Nước Trời đã có mặt, nhưng
ở dạng “hạt”, dạng “men”, đó chính là những giá trị Tin Mừng, những giá trị
được công bố, chẳng hạn, trong Bài giảng Trên Núi {Mt 5,1 – 7,29}. Những thái
độ hiền từ, xót thương, thứ tha, trân trọng những người bé mọn… không phải chỉ
là những phương cách chịu vậy để đổi lấy nước Thiên đàng mai sau, nhưng trước
tiên chính là những hạt men cần được gieo vãi, cần được vun trồng, cần được vùi
vào đấu bột trần gian để biến đổi bộ mặt trần gian và làm cho trần gian được
trở thành Nước Thiên Chúa.
Qui luật Nước Trời vượt lên trên qui
luật của thế gian. Chúa Giêsu khẳng định :
“Thầy
đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn…. Vậy, Thầy bảo cho anh em
biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì
sẽ chẳng được vào Nước Trời.” {Mt 5, 17.20}
Nước Trời đã gần đến, điều ấy không
phải là một lời kêu gọi từ bỏ thế gian và chuẩn bị để bước vào Thiên đàng;
nhưng đó lời lời kêu gọi của lòng trông cậy, nghĩa là Tin rằng Nước Trời đã có
mặt và đang thể hiện “tính tất thắng” của Nước Trời, nhờ cuộc chiến thắng tử
thần của Đức Giêsu. Nước Trời đã gần đến, chấp nhận điều đó tức là dám chấp
nhận qui luật Nước Trời cho dù trước mắt có bị thế gian ghét bỏ. Tin Nước Trời
đã gần đến, nghĩa là tin rằng những men, những muối của Nước Trời có khả năng
chiến thắng, biến đổi cuộc sống trần gian, làm dậy men bộ mặt trái đất.
Người tu sĩ chân chính là người
“trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”[5],
chứ không phải tìm thoả mãn những giấc mơ của thế gian. Trong hành trình tiến
về Nước Trời, người tu sĩ có thể yếu đuối, sa ngã, nhưng không bao giờ được
thất vọng, không bao giờ buông bỏ ngọn cờ Nước Trời dù có ngã xuống bùn rồi.
Tin vào Đức Giêsu nghĩa là tin vào cuộc chiến thắng của Ngài đối với thế gian :
“Hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian” {Ga 16,33}; nghĩa là tin rằng
những qui luật Nước Trời, cụ thể là Bài Giảng Trên núi sẽ là qui luật chiến
thắng để xây dựng nên Nước Trời.
Cùng với ý nghĩa về phẩm giá con
người càng ngày càng gia tăng, thì cũng càng ngày người ta nhận ra cơ chế dân
chủ là điều thiết yếu trong mọi tổ chức, để đổ chức ấy có thể phát triển, để có
thể làm giảm bớt những yếu tố tiêu cực. Từ cơ cấu “tam quyền phân lập” của
Montesquieu {1689-1755}, người ta còn nhận ra sự cần thiết thiết yếu của một
thứ “quyền thứ tư” trong xã hội, đó là quyền của báo chí tự do để có thể vận
hành xã hội một cách tốt đẹp hơn. Báo chí sẽ đóng vai trò chất xúc tác cũng như
một sự kiểm soát năng động đối với mọi sai sót và lạm dụng của các quyền nói
trên.
Chúng ta phải công nhận tính chất
dân chủ ít được thể hiện trong cơ chế của Giáo Hội. Hầu hết các quyết định quan
trọng đều đi theo hướng từ trên xuống dưới và được vận hành bằng tinh thần của
đức vâng phục.
Trong đời sống Giáo Hội, chỉ có
những nỗ lực xoay xở của những “bề dưới” và những quyết định nhằm giữ nề nếp kỷ
luật của “bề trên”. Vai trò của “thành phần thứ ba”, tức những nhà thần học,
những “ngôn sứ” trong Giáo Hội, giống như những nhà báo tự do trong quyền ăn
nói, không được tôn trọng hoặc không có. Chính vì thế, trong đời sống cụ thể
của Giáo Hội, có không ít những chuyện “quá quắt” ở nơi này nơi khác vẫn ngang
nhiên tồn tại. Dĩ nhiên, chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần, và trong suốt dòng
lịch sử, Thánh thần vẫn không ngừng thổi những luồng gió mới một cách bất ngờ.
Tuy nhiên, nói chung, chúng ta có thể thấy “cơ chế” của Giáo Hội rất chậm biến
đổi và thích nghi. Người ta nói rằng, chỉ có hai động lực biến đổi trong Giáo
Hội, một là các vị thánh, hai là Giáo Hội sẽ bị thúc đẩy buộc phải biến đổi vì
những áp lực bên ngoài, khi mà chính bản thân Giáo Hội đã không tự biến đổi. Dĩ
nhiên, cả hai yếu tố ấy đều là tác động của Thánh Thần; tuy vậy, như là con
người, hẳn nhiều người không khỏi sốt ruột.
Nói chung, dưới mắt những người bên
ngoài, hình ảnh Giáo Hội có vẻ như đạo của đám đông, của những con người sống
theo người khác, sống theo tổ chức, và rất dễ bị tác động để đi tới những thái
độ quá khích; đó là thứ đạo của một tập thể hơi có tính “đoàn lũ”. Thứ đạo ấy
ít tạo ra được thái độ tự do đích thực, những cái nhìn minh triết thực sự;
nhưng lại rất dễ có những thứ khôn vặt, lý sự vụn vặt để minh chứng cho một
điều đã được chấp nhận rồi; một thứ ganh đua nhiều hơn là tha thiết với chân
lý.
Có lẽ tính cách tập thể đã quá ăn
sâu trong vận hành của đời sống Giáo Hội. Các vị hữu trách thích giải quyết
mau, giải quyết ngay những rắc rối và thường muốn áp dụng những luật lệ chung
của tập thể. Kỷ luật của Giáo Hội Việt Nam thì thường theo đường lối “không
kiểm soát được thì cấm”. Đó là những luật cấm nhằm tới một số lạm dụng của số
đông, những đồng thời cũng luôn kéo theo bất công đối với một số trường hợp
riêng hoặc cản trở những nỗ lực phát triển. Những luật cấm đồng tế, cấm dâng
quá hai lễ, những biện pháp hạn chế các bài hát không hợp phụng vụ. . . hình
như đều theo phương cách như thế cả. Luật lệ dĩ nhiên là cần thiết, nhưng phải
hết sức tránh những biện pháp đối phó, nghĩa là những biện pháp chẳng dựa trên
một nền tảng đạo lý hay nhân bản mà chỉ là nhằm đối phó với tình huống. Đáng lẽ
ra, theo tôi, nỗ lực trước tiên là phải giáo dục lương tâm, đào tạo những con
người trưởng thành, khuyến khích những hoạt động phê bình để tạo ý thức cho mọi
người.
Mỗi một người, mỗi một con chiên đều
là những con người độc đáo trước mặt Chúa, mỗi con chiên ấy cần được đồng hành;
nghĩa là các vị hữu trách cần cố gắng lưu tâm đến chính trình trạng cụ thể của
mỗi con người để từng bước nâng đỡ và hướng dẫn họ. Việc này dĩ nhiên là khó,
nhất là trong một giáo xứ quá đông con chiên, nhưng nếu không có một chút cố
gắng, nỗ lực đồng hành nhiều hơn, nếu không tỉnh thức với trách nhiệm ấy, thì
sứ vụ mục tử có nguy cơ biến chất thành khoa học quản trị.
Về khía cạnh này, có lẽ có hai lãnh
vực đáng nói nhất, đó là : vai trò mục tử và sứ vụ giảng dạy.
Quả thật là khó khi mà một người cầm
quyền mà lại không sử dụng quyền bính, khi một người có trách nhiệm quản trị
nhưng lại thực sự là một người phục vụ, người hầu hạ người khác. . . Ngược lại,
ta thường thấy khi cầm quyền bính trong tay, một người phục vụ dễ trở thành
người thống trị hay ít ra là một người quản trị. Khi người linh mục khi áp dụng
phương thức quản trị trong giáo xứ cũng thường dễ bị kéo theo một “tinh thần”
thế gian : cám dỗ thi hành công tác như một công chức; cám dỗ quản trị giáo xứ
chứ không phải là mục tử; cám dỗ an thân, dễ dãi. Thay vì đồng hành và liên luỵ
với những khó khăn của con chiên thì người linh mục lại muốn đưa ra những qui
tắc chung, không giải quyết những hoàn cảnh trục trặc, khó khăn riêng biệt.
Có thật linh mục đau nỗi đau của con
chiên lạc ? Linh mục vui mừng vì tìm thấy con chiên lạc. Có căn bệnh thành tích
trong đời sống Giáo Hội giống như trong xã hội hiện nay không ?
Hình như có một nghịch lý căn bản
trong vấn đề phục vụ. Đạo diễn Trần Văn Thủy, trong phim Chuyện Tử Tế đã cho
thấy chuyện nghịch lý của những người “đầy tớ nhân dân”, những người đầy tớ đi
xe con, xách cặp, đi trên thảm đỏ, trong khi nhưng người “chủ” của đất nước thì
chen chúc nhau mua vé để có được một chỗ trên những chuyến xe chật cứng người.
Chuyện nghịch lý như thế đã trở thành một thực tế “bình thường“ mà mọi người
dần dần phải chấp nhận như một qui luật “bình thường” của cuộc sống. Tuy vậy,
thực tế của cuộc sống ấy vẫn trở thành một điều gì mỉa mai, phũ phàng khi người
ta cố ghép chúng với những từ hay ý đẹp như : “đầy tớ nhân dân”, “phục vụ”, “hy
sinh”…
Chuyện nghịch lý như thế cũng diễn
ra khá bình thường trong nhà đạo; tuy nó còn được bảo vệ bằng một tinh thần đạo
đức và kính trọng “các đấng bậc” trong Giáo Hội. Thật ra, ngày nay, chúng ta đã
có thể nghe được khá nhiều những lời phàn nàn về thái độ quan liêu và đòi hỏi
người khác… của các linh mục; tuy nhiên, ta vẫn thấy phần lớn người giáo dân
còn thật lòng tôn trọng “những người mang chức thánh”. Chỉ có điều, thỉnh
thoảng được nghe những lời cám ơn, xưng tụng : “các cha đã bớt chút thời giờ
vàng ngọc”, “không quản ngại đường xá xa xôi”, “vì lòng thương đã hy sinh”,
“giúp đỡ chúng con”… thì cái nghịch lý, mỉa mai lại tỏ hiện như một cái dằm
châm chích gây khó chịu.
Cái nghịch lý trong nhà đạo hiện nay
được hoá giải hay được bao bọc bằng một bầu khí thiêng liêng, đạo đức; chính
cái bầu khí đạo đức đậm đặc như thế đã có thể bao bọc khái niệm phục vụ, hy
sinh với lối sống của những ông chủ. Tuy nhiên, bầu không khí nhà đạo đậm đặc
đang dần dần loãng ra; tinh thần đạo đức chân thành và nặng tính tuân phục của
người giáo dân đang dần dần thay đổi, nhất là với giới trẻ; điều đó chắc chắn
sẽ dần dần làm nổi bật lên cái nghịch lý của những người phục vụ trong cung
cách chủ ông, nếu như các “đầy tớ” không kịp thay đổi cung cách phục vụ của
mình.
Chúng ta cũng biết rằng, tự bản
chất, Tin Mừng đức Giêsu là một cuộc đảo lộn qui luật thế gian. Cũng chính vì
đức Giêsu không đáp ứng những yêu sách có tính thế gian của người Do Thái mà
Ngài bị giết chết. Chính vì đức Giêsu không thiết lập Vương Quyền bằng quyền
bính, bằng sức mạnh nên tất cả người Do Thái thời đó, cả các tông đồ cũng đều
bị “bé cái lầm”. Các ông tưởng rằng Chúa lên Giêsusalem để thiết lập vương
quyền và cần mau chóng tìm một chỗ tốt nhất trong Nước của Ngài {Xc. Lc
9,46-48}. Đức Giêsu đã nói rõ chiều hướng đảo ngược của cộng đoàn Kitô hữu,
cộng đoàn Giáo Hội : trong cộng đoàn của Giáo Hội, Chúa Giêsu cho thấy rõ có
một sự khác biệt căn bản : “Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh
em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” {Lc 9,48}. Tuy vậy, trao quyền mà lại yêu
cầu phục vụ, điều ấy, theo lẽ tự nhiên, giống như trao cho một người kia cái
búa và bảo anh hãy dùng cái búa ấy để vuốt ve đứa con của mình.
Trong thế giới hiện nay, sự khủng
hoảng ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ quảng cáo, ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ thương
mại, ngôn ngữ lễ giáo . . . làm cho bản chất của ngôn ngữ như một phương tiện
bộc lộ bản thân và cảm thông với tha nhân không còn nhiều nữa. Người ta “Nói
dzậy mà không phải dzậy”. Trong bầu khí khủng hoảng ấy, người ta đồng ý và chấp
nhận với nhau rằng những kiểu nói không đúng sự thật ấy là chuyện bình thường.
Khủng hoảng ngôn ngữ là khi mà chẳng mấy ai còn tin vào bản thân của ngôn ngữ.
Điều đó chắc chắn liên hệ sâu xa tới lời loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
Linh mục, dù muốn hay không, vẫn
“phải nói” với cộng đoàn, và điều thúc bách trước mắt là phải nói cho hay. Linh
mục là người có “cái miệng to hơn cái tai”; là người thường xuyên phải nói,
xuất hiện chỗ nào thì phải nói chỗ ấy. Hằng ngày phải nói, hằng tuần phải nói;
trách nhiệm ấy nhiều làm cho người linh mục chỉ còn “đủ thì giờ” để tìm ý
tưởng, tìm ngôn từ, để nói cho hay, còn chuyện sống điều mình nói thì đành để
lại đó, chuyện tính sau. Cảm giác ấy lâu dần thành quen, làm sao để nói cho
hay, tìm tòi dữ liệu để nói, thú vị với điều mình nói. Ban đầu, người linh mục
mới còn một chút áy náy vì mình nói mà chưa làm, nhưng rồi cũng quen dần, điều
phải nói ta cứ nói, thậm chí kết án người khác trong lời nói mà không ngờ rằng
điều đó thật ra cũng là kết án chính mình {mình cũng chẳng hơn gì}. Thế giới
của lời nói trở thành một qũi đạo độc lập, diễn ra song song với đời sống
thường ngày, nhưng chẳng liên hệ gì đến đời sống thường ngày của chính mình.
Trách nhiệm phải nói thúc bách liên tục khiến người linh mục không còn đủ thời
giờ dừng chân để nối kết một chút điều mình nói với cuộc sống thật của bản
thân.
Có người nhận định rằng : nếu người
linh mục sống được 50 % điều mình nói, chắc là Giáo Hội đã khác lắm rồi ! Quả
thật, người giáo dân chẳng thể hiểu hết những khó khăn của đời linh mục. Nhưng
thực chất của vấn đề, có lẽ không phải là do sự hiểu lầm của người giáo dân đối
với linh mục mà phải công nhận rằng tư cách của một số linh mục không đủ để
được kính trọng. Chúng ta có thể thấy, rất nhiều điều, khi linh mục đứng ở vai
trò của cha xứ, thì đòi buộc giáo dân một cách mạnh kẽ, thậm chí kết án giáo
dân; nhưng khi chính vị linh mục ấy, đứng ở vai trò của một người bình thường
trong cộng đoàn, chẳng hạn trong những buổi họp các linh mục với nhau, thì lại
ứng xử hoàn toàn ngược lại; chẳng hạn ngồi lên hàng ghế trên trong những buổi
hội họp, chẳng hạn tình trạng đến trễ trong những buổi họp, chẳng hạn việc nói
chuyện khi có người đang phải trình bày một vấn đề chung . . . Rồi ta thấy linh
mục cũng chẳng yêu thương và tha thứ cho nhau, các linh mục cũng gian dối trong
lãnh vực tiền bạc, cũng bị mờ mắt vì quà cáp, cũng lệ thuộc người giầu, kết án
con chiên như thể đó một người không thuộc trách nhiệm của mình . . . .
Mặt khác, căn bệnh chủ quan cũng là
một thứ bệnh đặc trưng của người linh mục; bệnh của những người càng ngày càng
ít khả năng lắng nghe, càng ngày càng mất khả năng học được những bài học mới,
học từ trong sách vở, trong báo chí, trong chính những biến cố xẩy ra chung
quanh và trong cả những “con chiên” của mình. Bệnh chủ quan có lẽ không là gì
khác hơn con đẻ của tình trạng nói nhiều hơn nghe, dạy nhiều hơn học.
Chúng ta có thể nhận ra sự so le
giữa lời nói và việc làm của người khác môt cách khá dễ dàng, nhưng để nhận ra
điều ấy nơi chính bản thân mình thì thật sự là một điều hết sức khó khăn. Ngay
cả một tên tội phạm rành rành trước pháp luật hoặc trước lương tri của xã hội
cũng vẫn có thể chê trách người khác, vẫn tự hào về một cách thế sống của chính
mình. Chính não trạng của mỗi người là điểm qui chiếu của thứ “chân lý” chủ
quan ấy, mà não trạng thì chẳng mấy ai tự nhận mình là quá cấp tiến hay lạc
hậu. Một ông 50 tuổi có thể thấy ông 60 tuổi là quá già và anh 40 tuổi là quá
non; thì anh 40 tuổi cũng lại nhận xét giống như vậy đối với những lớp tuổi
trên hoặc dưới mình. Nhiều khi người ta chỉ mở mắt một lần khi nhắm mắt, nghĩa
là sau khi chết. Hoặc là người ta chỉ thực sự mở mắt, thấy rõ về bản thân mình
khi rơi vào một tình huống bi đát nào đó. Có nhiều tội phạm chỉ khóc và hối hận
khi bị xử án. Thật sự vấn đề chính yếu không phải là việc người ta đã đánh lừa
người khác, nhưng là người ta đã tự đánh lừa chính mình. Cái nguy hiểm nhất của
bệnh giả mình là chính người ta chẳng nhận ra mình giả hình mà lại cứ tưởng
rằng mình thực sự thánh thiện.
Điều đó cho thấy nguồn gốc sâu xa
của tình trạng chủ quan, tình trạng nói và làm khi đi đôi với nhau, tình trạng
phản chứng, đó là thái độ trốn tránh chính bản thân mình, tự lừa dối chính
mình. Triết gia Platon đã từng nói : tình thân hữu với chính mình là điều khó
nhất.
Căn bệnh chủ quan không là căn bệnh
riêng của ai và chúng ta có thể thông cảm với các giám mục, linh mục. Lối sống
quen thuộc của các vị là một môi trường tốt cho bệnh chủ quan. Thế nhưng ta vẫn
nhận ra căn bệnh ấy khá nặng nề nơi các giới chức trong Giáo Hội; và dù có cảm
thông thế nào, hệ quả vẫn là : nói mà không làm, đó là phản chứng {Xc. Mt
21,28-32}, đó là gương mù {Xc. Mt 18,6-7}. Phản chứng hoặc gương mù, có một tác
dụng hết sức tai hại, chẳng những nó làm cho lời nói không có hiệu quả, nhưng
còn làm tiêu tan giá trị đích thực của nội dung lời nói; phản chứng là một sự
đánh lừa bị lột mặt nạ; là sự “phá sản” của nội dung sứ điệp.
Như chúng ta biết, Đức Gioan XXIII
muốn Công đồng Vatican II là một công đồng “mục vụ”. Từ ngữ này không được các
nhà thần học hiểu giống nhau. Tuy vậy, có một khuynh hướng chung mà người ta có
thể nhận thấy rõ ràng, đó là Công Đồng muốn trình bày giáo huấn của mình một
cách thiết thực hơn, gắn liền với ngôn ngữ và cuộc sống con người nhiều hơn.
Hơn nữa, ý muốn thể hiện tính cách mục vụ ấy còn làm xuất hiện khuynh hướng
thần học thiên về thực hành. Dựa trên lời “làm sự thật” của Thánh Gioan, “Còn
ai làm sự thật thì đến với ánh sáng để được thấy rạng tỏ là các việc của mình
đã được làm trong Thiên Chúa”[6] và một
phần chịu ảnh hưởng nỗ lực cải tạo thế giới của Marx, một số nhà thần học chủ
trường chân lý không phải là đối tượng để chiêm ngắm như trong viễn tượng của
triết học Hy Lạp, nhưng là ý nghĩa của hành động. Thậm chí có người còn cho
rằng sự thật nằm trong hành động[7].
Những điều đó ít nhiều cũng góp phần
làm cho việc trình bày đạo lý của Giáo Hội hợp với tâm thức thời đại hơn và làm
cho nền tín lý Kitô giáo có ý nghĩa hơn. Đoạn văn số 11 của Hiến chế Tín lý về
Mặc khải xác định tính chất căn bản của Mặc khải là tính chất cứu độ. Mặc khải
là nhằm cứu độ con người chứ không phải nhằm để “hiểu biết” theo nghĩa duy tri
hoặc trở nên như một bài toán đố cho con người. Những loay hoay tìm biết Thiên
Chúa theo kiểu khoa siêu hình về Thượng Đế, thực ra, chỉ là thái độ của những
anh mù sờ voi. Mặt khác, ta cũng thấy rằng những nỗ lực tìm hiểu Thiên Chúa
trong chính Ngài, những phẩm tính của Thiên Chúa được loại suy từ đức tính của
con người, những đức tính thuộc văn hoá của một thời đại nhất định, rồi lại
được trình bày theo đường hướng “từ trên ban xuống”, những nỗ lực ấy thường có
nguy cơ đè bẹp con người chứ không phải luôn mang lại sự giải thoát và ơn cứu
độ. Quả thật nhân loại đã học biết tôn vinh Thượng Đế từ sớm, nhưng biết tôn
trọng phẩm giá con người thì muộn lắm, và điều ấy đã không ít lần làm cho Thiên
Chúa trở thành một Đấng hành khổ con người. Chúng ta thấy điều đó trong lịch sử
vấn đề nhân quyền và cả trong một nền thần học quá chú trọng đến “vinh quang
Thiên Chúa”, quá nhậy bén với những tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng lại “sơ
cứng” với những tội xúc phạm đến con người.
Dĩ nhiên, "mặc khải nhằm cứu
độ" không có nghĩa là một sự dễ dãi, không mở đường cho sự phóng túng làm
hư hoại bản tính con người. Mặc khải nhằm ơn cứu độ chính là nẻo đường giúp con
người tìm lại bản chất của đích thực như được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa. Đó là hành trình dễ dàng, vì nó mời gọi mọi người, đặc biệt là những
người nghèo, và vì đó là hành trình có Chúa cùng đi; nhưng đó là đi trên con
đường gian nan, con đường thập giá.
Tuy thế, cách trình bầy của chúng ta
về mạc khải của Thiên Chúa, trong thời đại hôm nay, không thể dừng lại ở một số
lý thuyết phải chấp nhận bằng lý trí, và cũng không thể cứ mãi là một thứ bài
học dành cho con nít, theo kiểu nhắm mắt mà tin, theo nghĩa để mặc mọi hệ quả
cho "Chúa" hay cho những người có trách nhiệm trong Giáo Hội[8].
Hơn lúc nào hết, trong thời đại nhân
loại đề cao phẩm giá con người như ngày nay, Giáo Hội cần làm sáng tỏ điều
thánh Irênê đã nói : Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống. Điều đó có
nghĩa là những điều khoản tín lý cũng như những đòi hỏi của luân lý Kitô giáo
đều có những tác dụng cứu độ; nhằm hoà giải, nhằm giải phóng, nhằm nâng đỡ con
người một cách cụ thể, chân thật, sâu xa….
Thế nhưng, những điều ấy, đặc biệt
trong hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam, hình như còn rất xa vời.
Cha Thimothy Radcliffe, nguyên bề
trên Tổng Quyền Dòng Đa Minh, trong bài nói chuyện tại Hội nghị Quốc Gia về
Giới Linh Mục tại Trường Học Digby Stuart, Roehampton, Anh quốc, tháng 9-2002
cho thấy nỗi đau của đời linh mục, nỗi đau của một vị thế trung gian, vừa trung
thành với giáo huấn của Giáo Hội mà mình là người đại diện, vừa dám can đảm đặt
mình vào những hoàn cảnh khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua của người
tín hữu mà mình được trao phó trách nhiệm :
“Chúng
ta được gọi mời để công bố tin vui và giáo huấn của Giáo Hội. Tuy vậy, có thể
chúng ta nhận thấy rõ những gì mà chúng ta hướng dẫn thì hình như quá ư là xa
vời với những gì mà giáo dân của chúng ta trải nghiệm, chúng xem ra khó hiểu và
chẳng thực tế chút nào. Có lúc đôi mắt của họ xem ra đờ đẫn chẳng có một chút
gì là sinh động cả.
Tình
trạng này rõ nhất khi chúng ta hướng dẫn về luân lý, đặc biệt là về vấn đề tính
dục.{…}
Ở
đây tôi không có ý chúng ta cần phải đặt lại tính xác thực trong lời giảng dạy
của chúng ta, tôi chỉ muốn nêu vấn nạn tại sao những lời chúng ta giảng dạy lại
khó hiểu đối với họ đến thế. Có thể chúng ta yêu mến những lời giáo huấn luân
lý Giáo Hội và còn xác tín nữa là đằng khác, nhưng tại sao chúng ta vẫn cảm
thấy nản lòng nản chí vì nhận thấy có một hố thẳm quá lớn giữa một cái nhìn
luân lý mà chúng ta được mời gọi rao giảng và cuộc sống thực tại của những
người mà chúng ta đang sống với và sống cho đó. Nào, bây giờ chúng ta hãy cùng
nhau đối diện với vấn nạn này. Nếu chúng ta thành tâm thực sự, thì có lẽ phần
lớn chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta cũng chẳng có khá hơn họ là bao khi
chúng ta đặt mình vào trong hoàn cảnh của họ. Phần tôi, tôi chắc chắn rằng, tôi
cũng như thế thôi, và còn tuyệt chiêu nữa là đằng khác !”
Mặt khác, đối với tâm thức con người
ngày nay, khoa luân lý Kitô giáo cũng không nên nhuốm mùi chủ thuyết duy ý muốn
[volontarisme] của Roger Bacon hay Ockam, nghĩa là Thiên Chúa có toàn quyền
muốn một điều nào đó là tốt hay xấu; nghĩa là tội chỉ là tội vì Thiên Chúa muốn
thế và nhân đức cũng chỉ là nhân đức chỉ vì Chúa muốn thế. Cách trình bầy luân
lý như thế khiến người ta chỉ còn thấy những nghĩa vụ, những đòi buộc; cách
trình bầy ấy dựa theo mẫu câu "tôi phải", "anh em phải".
Trong giáo lý cũng như trong cách giảng huấn của Giáo Hội, hình như còn có quá
nhiều điều "anh chị em phải…".
“Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng
nổi”{Mt 16,13-20}
Chúa Giêsu biết rõ con người của
Phêrô, một con người hăng say nhưng bốc đồng, lửa rơm chóng tàn, một con người
ra vẻ mạnh bạo bên ngoài, nhưng bên trong lại nhát đảm, và nhất là một con
người chẳng có học thức bao nhiêu, một anh “hai lúa” chính hiệu. Thế nhưng Chúa
đã chọn Phêrô, không phải vì chính bản thân ông và cũng chẳng phải vì một giây
phút “bốc đồng” của Chúa, nhưng vì nhận ra dấu chỉ sự lựa chọn của Chúa Cha :
“Đức
Giê-su nói với ông : "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có
phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy,
Đấng ngự trên trời.” {Mt 16,17}
Đó cũng là nền tảng sâu xa của Giáo
Hội. Cách thức lựa chọn và bộc lộ nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa chẳng bao giờ
chúng ta có thể thấu hiểu được.
Dựa vào dấu chỉ sự lựa chọn của Chúa
Cha, Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội với lời xác quyết vững vàng, mạnh mẽ; một
lời xác quyết “đơn thuần” và vô điều kiện. Lời xác quyết của Chúa Giêsu quá rõ
ràng khiến cho không ai có thể nại một lý do nào, tìm tòi một điều kiện nào,
hoặc cắt nghĩa khác đi dựa theo môt tình huống đặc biệt nào khác để có thể phủ
nhận nền tảng của Giáo Hội :
“Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” {Mt 16,18}
Đồng thời, lời xác quyết ấy cũng bảo
đảm về tương lai của Giáo Hội, một lời bảo đảm cũng không có một nền tảng tự
nhiên nào có thể cắt nghĩa hay “bào hành”, mà chỉ có niềm tin.
“
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”{Mt 16,18}
Tất cả những ý nghĩa ấy cho thấy
nguồn cội, nền móng và tương lai của Giáo Hội đều khác với lý lẽ hay sự khôn
ngoan tự nhiên của con người. Đường lối của Thiên Chúa khác xa và vượt cao hơn
đường lối của con người.
Trời
cao hơn đất chừng nào
thì
đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và
tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.{Is 55,9}
Đường lối của Thiên Chúa mời gọi
chúng ta sống niềm tin. Không có cách nào khác. Tất cả những khuyết điểm của
Giáo Hội vẫn lù lù ra đó, trong quá khứ, hiện tại đây và chắc chắn vẫn còn
trong tương lai. Chúng ta chỉ có thể sống trong Giáo Hội, sống cùng với Giáo
Hội trong “thế giới” của đức Tin. Cùng lắm, với niềm tin, chúng ta chỉ có thể
cảm nhận dần dần những ý nghĩa và giá trị đường lối của Thiên Chúa trong dòng
lịch sử.
Cuộc sống ở thế giới “có thời gian”
luôn luôn là cuộc sống bất toàn trong một thế giới bất toàn. Bản chất của thế
giới “có thời gian” là có sự qua đi, sự chấm dứt để nẩy sinh những cái mới và
những tiến trình mới. Tính cách “qua đi”, tính cách phải bị “chấm dứt” ấy gắn
liền với tất cả mọi thực tại của thế giới và của cuộc sống con người. Do đó,
một trong những phẩm tính căn bản của người trưởng thành lại là khả năng chấp
nhận cái tương đối, chấp nhận giới hạn của chính mình và giới hạn của người
khác cũng như của thế giới chung quanh. Con người luôn là kẻ khao khát tuyệt
đối, nhưng đòi hỏi tính chất tuyệt đối nơi một thế giới “có thời gian” lại là
một đòi hỏi phi lý và đưa đến những tâm tình tuyệt vọng.
Do đó, thái độ chân chính của một
con người trưởng thành là thái độ : - vẫn khao khát tuyệt đối; - đồng thời vẫn
chấp nhận và bình an trong những giới hạn của cuộc sống. Hai yếu tố ấy sẽ mâu
thuẫn khi ta đặt chúng trong cùng một bình diện, nhưng đó lại là hai yếu tố bổ
túc nhau nếu ta nhìn nhận chúng ở hai bình diện khác nhau : con người cần bình
an, và điều đó chỉ có được khi ta chấp nhận thực trạng tương đối và bất toàn
của cuộc sống hiện tại. Tuy vậy, thái độ buông trôi, thái độ thoả mãn với cái
tương đối, cái giới hạn sẽ làm cho “con thuyền” của đời người lùi bước, tụt hậu
và biến chất trong dòng sống của cuộc đời. Do đó, tuy vẫn chấp nhận cái tương
đối, con người lại cần khao khát tuyệt đối để có thể vươn lên mãi, thăng tiến
mãi, tìm tòi mãi và từ đó có thể khám phá cũng như lãnh nhận được những thực
tại vươn cao hơn.
Mặt khác, con người vẫn còn một khả
năng vượt quá sức mạnh của lý trí khôn ngoan, đó là khả năng “đánh giá” như một
chủ thể. Nghĩa là, đối với một đối tượng bất toàn, ta vẫn có thể coi đó là một
tuyệt đối cho ta do chính lựa chọn tự do trong tinh thần của ta.
Nói một cách cụ thể, tôi chấp nhận
đứa con của tôi, không có nghĩa là tôi cứ để đứa con của tôi mãi mãi ngu dốt hoặc
vô giáo dục; nhưng khi chấp nhận đứa con trọn vẹn tôi còn khao khát cho nó lớn
lên, giỏi hơn và nên người xứng đáng hơn. Nhưng ngay khi đứa con của tôi “chẳng
ra gì” đối với người khác, tôi vẫn có thể “đánh giá” và nhìn nhận đứa con của
tôi như một cần thiết tuyệt đối, không thể đổi đứa khác hay lựa chọn một thanh
niên khác vì thanh niên khác hoàn hảo hơn đứa con của mình.
Như thế, sống ở thế giới “có thời
gian” nghĩa là học để sống với giới hạn và khiếm khuyết, nghĩa là chấp nhận
sống với cái giới hạn và tương đối; nhưng lại được thôi thúc để chấp nhận trọn
vẹn người khác và mong ước một sự thăng tiến mãi mãi. Đó có lẽ là giải pháp duy
nhất để người ta không rơi vào thái độ đòi hỏi nhau một cách quá đáng hay phi
lý; đồng thời cũng chẳng rơi vào thái độ an ổn, “bình nhân như vại”. Một đàng
là sống với ước mơ, với lý tưởng mà bỏ quên thực tại, một đàng là sống tầm
thường và sa đọa trong thực tại vì không có lý tưởng.
Thật ra, cách sống chính thực ấy
chẳng thể tự duyệt chính cho chính nó bằng lý trí hợp lý. Cách sống ấy chỉ có
thể tìm thấy nền tảng trong một bình diện khác, bình diện tâm linh, hoặc bình
diện của đức Tin.
2.2 Tin vào Chúa và tin vào nhau
Chính niềm tin vào Chúa giúp con
người có thể tin vào nhau. Niềm tin nơi Chúa là chân trời rộng mở để con người
có thể dám tin vào nhau mà không sợ rơi vào ảo mộng phù phiếm của một thứ chủ
nghĩa anh hùng cá nhân.Chính khi ta tin vào Chúa, ta đã “lấn trước” và vượt qua
thái độ “thuận mua vừa bán”, khi đó ta mở rộng khung trời để có thể bao bọc,
chấp nhận những con người cụ thể, ngay cả khi bị phản bội. Chỉ có con người mới
có thể phản bội, còn Thiên Chúa thì không bao giờ phản bội cả; và Thiên Chúa
chẳng để cho sự “lầm lẫm” do đã tin một con người, nếu có, lại trở thành một
thái độ xấu.
Quả thật con đường của người Kitô là
con đường vòng : muốn tha thứ thì trước tiên phải đón nhận sự tha thứ của Thiên
Chúa trong đức Kitô; muốn chăn dắt con chiên thì phải yêu mến Chúa Giêsu và từ
đó tìm thấy lý tưởng cao vời của đời mục tử; muốn sống chân thật với tha nhân thì
phải đối diện với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt cõi lòng để có thể buông bỏ được
những chiếc mặt nạ giả tạo; muốn phục vụ tha nhân thì hãy để cho đức Giêsu phục
vụ mình và ra đi bằng chính động lực phục vụ đến cùng của Đức Giêsu; muốn xót
thương người thì hãy nhận ra lòng thương xót của đức Giêsu . .
“Anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” {Ga 15,12}. Không có cách nào khác, người kitô
hữu được kêu gọi yêu thương, hiệp thông, liên đới, chia sẻ trách nhiệm “như”
đức Kitô. “Như thầy đã yêu thương”, điều đó vừa có nghĩa là lời mời gọi vươn
lên đến lý tưởng hy sinh mạng sống; vừa có nghĩa là yêu thương bằng chính tình
yêu của đức Giêsu tác động trong bản thân mình.
2.3 Hành trình cùng Hội Thánh
Nói cho đúng nghĩa, Giáo Hội chẳng
phải là các “đấng bậc”, nhưng Giáo Hội, xét như Thân mình Chúa Kitô, bao gồm
mọi Kitô hữu, trong đó dĩ nhiên là có các tu sĩ. Tu sĩ không đồng hành cùng
Giáo Hội nhưng là đồng hành với các thành phần khác trong lòng Giáo Hội. Nói
tới những khiếm khuyết trong Giáo Hội, người tu sĩ cũng có hoàn toàn trách
nhiệm như các thành phần khác, chứ không phải là người đứng ngoài. Tu sĩ không
được quyền “rửa tay” như một người vô can.
Sâu xa hơn, khi chúng ta tuyên xưng
niềm tin vào Giáo Hội, một Giáo Hội thánh thiện, chúng ta hiểu rằng đó là sự
thánh thiện của Chúa không ngừng thông ban và trang điểm cho Giáo Hội, Hiền thê
của đức Kitô; và không ai khác hơn chính các tu sĩ là thành phần gắn liền với
khía cạnh thánh thiện ấy của Giáo Hội. Chính các tu sĩ là người chịu trách nhiệm
chính yếu về chuyển thông sự thánh của Chúa đến với Giáo Hội. Đức thánh cha
Gioan Phaolô II, trong tông huấn Đời sống Thánh hiến, nói rằng :
“Theo
ánh sáng Công Đồng Vatican II, người ta đã xác nhận rằng việc khấn giữ các lời
khuyên Phúc Âm gắn chặt với đời sống và sự thánh hiện của Giáo Hội” {ĐSTH 29b}
Do đó :
“Đời sống thiêng liêng của họ củng
phải mưu cầu lợi ích cho toàn thể Giáo Hội . . .” {GH 44b}
Chính vì vậy, trong niềm tin, người
tu sĩ chỉ có thể “giải quyết” những khúc mắc trong đời sống Giáo Hội bằng một
sự liên luỵ, hiệp thông sâu xa và trọn vẹn. Về ý nghĩa của việc hiệp thông với
Giáo Hội hữu hình, có lẽ chúng ta chỉ cần đọc lại bản văn của đức Gioan Phaolô
II trong tông huấn Đời sống Thánh hiến :
“Các
đấng sáng lập dòng luôn luôn minh chứng một ý thức sâu xa về Giáo Hội, biểu lộ
qua việc các ngài tham gia hết mình vào mọi chiều kích của đời sống Giáo Hội
cũng như bằng sự mau mắn vâng phục các vị chủ chăn, đặc biệt với đức giáo hoàng
Roma. Chính nhìn vào tình yêu của các ngài đối với Giáo Hội, “cột trụ và điểm
tựa của chân lý” {1 Tm 3,15}, mà ta mới hiểu được sự tôn sùng mà thánh Phanxicô
Assi dành cho “Đức Giáo hoàng”, sự táo bạo thảo hiếu mà thánh Catarina thành
Siêna dành cho Đấng mà chị gọi là “Chúa Kitô dịu hiền trền trái đất”, sự vâng phục
tông đồ và cảm nghiệm cùng với Giáo Hội của thánh Ignatio Loyola, sự hoan hỉ
tuyên xưng đức tin của thánh Têrêxa Giêsu : “Tôi là ái nữ của Giáo Hội”. Như
vậy ta hiểu được niềm khát khao nồng nhiệu của thánh Têrêxa thành Lisieux :
“Giữa trái tim của Giáo Hội, Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu . . .”. Đấy là những
chứng cứ tiêu biểu về sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội mà các vị thánh nam
nữ, các đấng sáng lập dòng, đã trải qua trong những thời kỳ và những hoàn cảnh
khác nhau và thường rất khó khăn. Đó là những tấm gương mà các người được thánh
hiến cần phải liên tục nghĩ đến, để đương đầu với những sự đột khởi, ngày nay
đặc biệt dữ dội, có thể làm xa rời tâm điểm và gây phá hoại.
Sự gắn bó bằng cả tâm hồn với trí
khôn với quyền bính của các giám mục là một khía cạnh quyết định của sự hiệp
thông với Giáo Hội : sự gắn bó nay phải được những người thánh hiến sống một
cách trung thực và biểu dương rõ ràng trước cộng đoàn Dân Chúa, nhất là những
ai dấn thân nghiên cứu thần học, làm công tác đào tạo, in ấn, giảng dạy giáo
lý, hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Bởi vì những người được
thánh hiến chiếm giữa một vị trí đặc biệt trong Giáo Hội, nên thái độ của họ về
vấn đề trên có tầm quan trọng lớn lao đối với cộng đoàn Dân Chúa” {ĐSTH 46 b,c}
Tu sĩ là những người sống “sâu”
trong lòng Giáo Hội, hiểu, liên luỵ với nhiều khúc mắc trong lòng Giáo Hội nên
cũng bị thử thách nhiều hơn. Thế nhưng, với niềm tin, người tu sĩ sống qui luật
Nước Trời bằng thái độ “đi đường vòng”, thái độ “lấn trước” trong niềm tin vào
đường lối của Chúa :
Xin dạy con đường lối Ngài, lạy CHÚA,
để con vững bước
theo chân lý của Ngài.
Xin Chúa hướng
lòng con,
để con biết một
niềm kính tôn Danh Thánh.{Tv 86,11}
Bởi
vì :
Lạy Thiên Chúa, đường lối Ngài quả là thánh thiện,
có thần nào cao
cả như Thiên Chúa ? {Tv 77,14}
III. Đời sống thánh hiến
1. Những tính toán theo luật tự nhiên
1.1 Thách đố của bản chất đời sống thánh hiến
Khủng hoảng căn tính là khi người ta
không trả lời được câu hỏi “tôi là ai ?”. Có khủng hoảng căn tính trong xã hội
khi người “thư ký” không còn xác tín vào ý nghĩa của việc mình làm, không còn
tìm thấy niềm vui, niềm tự hào và lương tâm trách nhiệm trong nghề nghiệp
chuyên môn của mình; nhưng bị chi phối do những ý kiến, những lời dèm pha, hoặc
bị thúc đẩy do động lực nào khác, chẳng hạn tiền bạc. Khủng hoảng căn tính
trong đời sống thánh hiến xẩy ra khi mà người tu sĩ không trả lời được cho
chính mình câu hỏi : tu sĩ là ai ?
Dĩ nhiên, “trả lời” ở đây không phải
chỉ là, và thường khi cũng không phải là một câu trả lời trên lý thuyết, trong
văn bản hay trong lời nói minh nhiên; nhưng là một cảm nhận, một trải nghiệm
của chính bản thân và hình thành nên một phong thái, một tư cách cho cuộc đời
mình. Xét như thế, “cơn khủng hoảng” có thể xẩy ra với cả một trào lưu chung
hoặc với một số ít người nào đó; “cơn khủng hoảng” có thể xẩy ra lúc này lúc
khác trong quá trình sống của một con người.
Trước đây, người ta tìm thấy trong
câu truyện người thanh niên giầu có muốn sống trọn lành {Mt 19,16-22} như nền
tảng Thánh Kinh của đời sống tu trì. Câu truyện ấy gợi lên một ước muốn vượt
hơn cách sống đạo của người giáo dân, những người chỉ cần sống đạo “trung bình”
bằng cách cố gắng giữ trọn Mười Điều Răn. Tuy nhiên, với Công đồng Vatican II,
việc đi tìm đời sống trọn lành, tức nỗ lực nên thánh, không phải là chuyện
riêng của một số người nào, mà là ơn gọi chung của tất cả mọi Kitô hữu {GH
chương V}, và người giáo dân cũng có linh đạo riêng để nên thánh {GH, chương
IV}. Lãnh vực vẫn coi như của riêng người tu sĩ đã bị “quốc hữu hoá”.
Mặt khác, sau công đồng Vatican II,
người giáo dân bắt đầu tham gia vào đời sống Giáo Hội nhiều hơn, và càng ngày
càng có nhiều giáo dân có khả năng đảm nhận những công việc mà trước đây những
tu sĩ đơn thuần[9], nhất là
nữ tu, vẫn thường đảm nhận : dạy giáo lý, tập hát ca đoàn, phục vụ bàn thánh .
. .
Những điều ấy không khỏi đụng chạm
đến “căn tính” của đời sống thánh hiến. Nẻo đường trọn lành không phải lãnh vực
độc quyền của tu sĩ, và nhiều công việc trong sinh hoạt Giáo Hội có vẻ như cũng
không cần đến sự đóng góp của tu sĩ; những điều ấy không khỏi làm cho nhiều tu
sĩ cảm thấy “hổng chân”. Mặt khác, trước công đồng Vatican II, đa số các sách
viết về tu sĩ đều mang tính cách luân lý và giáo luật, nhằm giải thích những bó
buộc của lời khấn, chứ không hình thành được một nền thần học đích thực về đời
sống thánh hiến. Do đó, khi mà nhu cầu sống có ý nghĩa trở thành quan trọng,
nhiều tu sĩ không còn tìm được “lý do hiện hữu” cho đời sống của mình.
Công đồng Vatican II mở ra một hướng
mới cho thần học đời tu, khi trình bày nếp sống này như một lý tưởng sống, có ý
nghĩa và cần thiết trong đời sống Giáo Hội. Công đồng Vatican II trình bày đời
sống tu trong mối tương quan mật thiết với đặc tính thánh thiện của Giáo Hội,
sống ơn gọi nên thánh trong chiều kích Cách Chung, nghĩa là gắn bó trọn vẹn đời
thực tại Nước Trời. Sắc lệnh “Đức Ái Trọn Hảo” trình bày bản chất đời tu dựa
theo ý niệm “bước theo Chúa Kitô” {Sequela Christi}.
Sau Công đồng, nền thần học đời tu
chú trọng đến ý niệm thánh hiến hay tận hiến {consecratio}. Ý hướng này được Bộ
Giáo Luật 1983 chấp nhận {đ. 573} và được triển khai kỹ lưỡng hơn trong văn
kiện của Bộ Tu Sĩ có tựa đề “Những Yếu tố Cốt yếu của Đời tu” {1983}.
Tuy nhiên[10],
bên cạnh trào lưu này, còn có khuynh hướng muốn trình bày bản chất đời tu dựa
trên ý niệm “đoàn sủng” {Charisma}. Khuynh hướng này cho rằng ý niệm “thánh
hiến” thích hợp cho dòng chiêm niệm nhiều hơn các dòng tu hoạt động tông đồ. Ý
niệm đó mặc dù cố gắng nêu lên mẫu sống chung của mọi dòng tu, nhưng lại làm mờ
đi sự khác biệt đa dạng của mỗi dòng tu. Trong khi đó, ý niệm “đoàn sủng” có
khả năng làm sáng lên ý nghĩa tông đồ, một trong những tiêu chuẩn canh tâm mà
Công đồng Vatican II đã nêu lên trong sắc lệnh Canh tân và Thích nghi Dòng tu
{Xc.DT 2 c,d}; đồng thời lại nhấn mạnh tới tính cách đa dạng phong phú của các
hội dòng. Hơn nữa, ý niệm “đoàn sủng” còn đề cao tác động của Chúa Thánh Thần.
Đức Hồng y Basil Hume, trong bài thuyết trình khai mạc các cuộc trao đổi tại
Thượng Hội Đồng Giám Mục 1994 cho thấy ý niệm “đoàn sủng” mang lại những sắc
thái nổi bật trong đời tu như sau :
Đời tu là một hồng ân mà Thánh Thần
ban cho Giáo Hội và nhân loại {chiều kích ngôn sứ}
Mỗi hội dòng nhận được một căn cước
riêng, cần phải bảo vệ đoàn sủng của mỗi dòng, bao gồm một sứ mạng, một linh
đạo, một nếp sinh hoạt; đó là những yếu tố tạo nên gia sản tinh thần của hội
dòng.
Tuy nhiên, như chúng ta biết, đức thánh cha
Gioan Phaolô II, khi ban hành tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến” {1996}, đã lựa
chọn ý niệm “thánh hiến” như ý niệm căn bản, và trình bày bản chất đời sống ấy
theo mô hình quen thuộc kể từ Thượng hội Đồng Gián Mục 1985, đó là ba chiều
kích : Hướng thượng, dưới chủ đề Thánh Hiến {consecratio}; - Hướng nội, với chủ
đề Hiệp thông {communio}; và - Hướng ngoại, với chủ đề sứ mạng {missio}.
Như thế, những vấn đề lý thuyết liên
quan đến căn tính đời sống thánh hiến đã trải qua một quá trình “sóng gió”; và
ngay cả khi tạm coi như ổn định với tông huấn của đức Gioan Phaolô II, thì
chúng ta vẫn còn thấy một quãng cách không nhỏ giữa lý thuyết và thực tế của
cuộc sống.
1.2 Thách đố của tương lai đời sống thánh hiến
Dựa vào con số thống kê về các tu sĩ
vẫn không ngừng suy giảm, có tác giả đã từng nói rằng, có thể, trong tương lai,
người ta sẽ nhìn đời tu như một “mẫu vật” còn sót lại của thời quá khứ. Nhận
xét ấy, trước tiên, có ý nghĩa như một thách đố đối với nề nếp tu trì quen
thuộc của chúng ta. Quả thật, trong bầu không khí chung của thế giới đã chuyển
mình một cách triệt để và mau chóng, đời sống tu trì cũng không khỏi bị lôi
cuốn và luôn phải đối diện với những thách thức mới.
Hơn nữa[11],
sự biến chuyển của thế giới hiện nay, theo một số chuyên viên tương lai học,
không còn phải là một sự “biến chuyển theo chiều dài”, nghĩa là người ta nhận
định về một biến cố lớn, rồi đưa ra những hệ quả tiếp theo của nó trong dòng
lịch sử. Hiện nay, người ta nhận thấy tính chất của sự biến đổi đã đạt đến mức
độ thay đổi dạng thức {paradigme}, nghĩa là gần giống một sự biến đổi theo dạng
nan quạt. Cách biến đổi này đưa những nét “đứt quãng”, chứ không phải nét liên
tục, nghĩa là từ những yếu tố xét như nguyên nhân, người ta thấy xuất hiện
nhiều dạng thức mới, khác biệt hẳn về dạng thức đối với cái cũ chứ không phải
chỉ là những biến đổi về phẩm cách. Tính cách đứt quãng trở thành nét nền tảng
cho tư tưởng dự báo, và cũng là nét căn bản cho nỗ lực hướng dẫn hành động của
con người trong lòng cuộc thay đổi dạng thức. Điều đó đưa đến tình trạng con
người hầu như không còn có thể dự đoán được về tương lai. Ngày nay, điều quan
trọng không phải là dự báo tương lai dựa trên những số liệu của quá khứ, nhưng
là dám sáng tạo ra tương lai.
“Geogre Land, trong một bài thuyết trình cho Hội Nghị Công
Giáo về Y Tế, đã sử dụng từ ngữ “điểm gẫy” để miêu tả một giai đoạn đổi thay, ở
đó những giải pháp cổ xưa không còn hữu hiệu nữa, bởi vì những quy luật vận
dụng đã xoay đúng 180 độ so với điều mà người ta từng biết”[12].
Ta có thể kể ra một số thay đổi về
dạng thức quan trọng nhất, ảnh hưởng đến tất cả cơ cấu xã hội : tư tưởng, sinh
thái học và kỹ thuật, một thế giới đa văn hoá, gia đình và cộng đoàn, quyền
lực, cảm nghiệm tôn giáo, bùng nổ kiến thức, . . . Từ những dữ kiện phức tạp
của thế giới hiện nay, tác giả Catherine đưa đến những những nhận xét : “Trong
một thời kỳ đầy những đổi thay quan trọng về dạng thức, thì nguyên chuyện đổi
thay về phương pháp {le comment} là chưa đủ, cần tiến công vào vấn đề con người
{qui}{về căn tính} và về lý do {pourquoi} {về yếu tính}”[13].
Có lẽ những biến đổi như được mô tả
ở trên chưa đụng đến sinh hoạt của giáo hội Việt Nam bao nhiêu. Đặc biệt là
trong khi con số ơn gọi tu sĩ trên thế giới không ngừng giảm sút thì tại Việt
Nam, con số ấy lại đang gia tăng đến độ “khó kiểm soát”. Tuy nhiên, làm sao
không nhận ra những mầm mống của sự thay đổi đã bắt đầu rồi ? Và những yếu tố mới
như cơ cấu gia đình, sự bùng nổ kiến thức, cảm nghiệm tôn giáo . . . làm sao
không tác động, ngay lúc này, đến nề nếp quen thuộc cũng như những sứ vụ mà
chúng ta đang đảm nhận?
1.3 Thách đố của “hiệu năng” đời sống thánh hiến
Tại Việt Nam, có lẽ đời sống tu trì
gặp phải một thách đố cụ thể và sống thực hơn, đó là nhiều người trẻ ngỡ ngàng
vì đời tu không như mình tưởng. Phần lớn các tu sĩ trẻ khi chọn đời sống tu
trì, đã mong ước một cái gì “hơn” là điều mình được lãnh nhận : đạo đức hơn,
yêu thương hơn, giỏi dang hơn, hạnh phúc hơn . . . Thế nhưng khi đụng vào thực
tế, thì các tu sĩ trẻ lại cảm thấy nhiều điều “kém”.
Phần lớn các bạn trẻ chọn ơn gọi vì
một hình ảnh cao đẹp hoặc vì một hệ thống giá trị quen thuộc mà mình được hấp
thụ trong gia đình, trong giáo xứ, theo đó, đời tu hoàn hảo hơn đời sống giáo
dân. Sự kính trọng của giáo dân đối với tu sĩ làm cho giá trị ấy lại trở nên
sống động. Thế rồi, khi bước vào đời tu, những lý tưởng đẹp rơi rụng dần, may
ra chỉ còn một cố gắng kiên trì vì vẫn cho rằng đời tu có một giá trị thiêng
liêng cao hơn đời sống giáo dân. Tình trạng cuối cùng xẩy ra là “bỏ thì thương,
vương thì tội”. Sự ngỡ ngàng của các tu sĩ trẻ có thể là do những ảo tưởng bị
đổ vỡ và người ta sẽ trưởng thành hơn; nhưng cũng có thể là do không tìm thấy
những nét căn bản đích thực của đời sống tu trì. Nếu xem quả để biết cây là một
nguyên tắc hợp pháp thì chúng ta có thể một số dấu hiệu tụt hậu về nhân cách
của không ít các tu sĩ :
-
càng
tu càng trở nên "khờ người" ra : người tu sĩ được đào tạo trong bầu
không khí "được quyết định thay" về nhiều chuyện, nên ít có khả năng
tự quyết đoán và tự chọn thái độ của chính mình.
-
thiếu sáng kiến : trong đời sống chủng viện hoặc nhà dòng, những thanh niên, dù
đã lớn tuổi hoặc có bằng cấp cao vẫn trở thành những người còn quá non nớt
trong lãnh vực tu trì; họ cần phải tỏ ra tinh thần tuân phục… quan điểm ấy
khiến cho các anh chị em trong thời gian thụ huấn thường không phát huy được
năng lực của mình.
-
trẻ con hoá vị thế của những người đã trưởng thành : nhiều khi những tổ chức
trong nhà đạo tạo nên tình trạng giống như "đặt người khác trước dịp
tội", giống như cơ chế xin phép xây cất của Nhà Nước đã "tạo điều
kiện" cho người dân xây nhà chui : việc giữ tiền và tiêu tiền, việc về
thăm gia đình, . . . .
-
thiếu trưởng thành : một thanh niên ngoài đời, đang học đại học, có khả năng
chọn lựa nếp sinh hoạt của mình {nên xem tivi những chương trình nào, nên đi
chơi những dịp nào…}. Rồi cũng chính anh thanh niên ấy vào nhà dòng; nơi đây,
anh ta lại thường được những vị hữu trách, được nếp sống kỷ luật quyết định
thay. Dần dần, anh ta không còn khả năng chọn lựa một cách trưởng thành được
nữa…
-
ít khả năng phấn đấu : trong các nhà dòng lớn, các tu sinh thường được bao cấp
hết mọi chuyện, ngay cả những quyết định chỉ dính dáng đến đời sống riêng tư.
Khi không có được nhiều quyền tự do, người ta cũng không thấy được trách nhiệm
và giới hạn của mình, và luôn đổ lỗi cho cơ cấu, cho hoàn cảnh; đồng thời cũng
thường đòi hỏi, yêu sách… Những điều đó làm cho người thụ huấn càng ngày càng
giảm khả năng phấn đấu.
-
khuôn phép trong nếp sống và sơ cứng trong quan điểm: đời sống tu trì, từ bao
đời nay, được hiểu như là một nếp sống khuôn phép. Đi tu nghĩa là chấp nhận
khuôn phép của nhà Dòng, của Giáo Hội; đời sống tu thường đều đặn, giờ giấc, kỷ
luật…. Những điều ấy có thể tốt, những cũng không phải là không có những nguy
hại, đặc biệt trong thời đại hôm nay, thời đại của những biến động, thay đổi,
thời đại cần nhiều sự linh động và nhanh nhậy trong nhiều vấn đề, nhiều hoàn cảnh.
Từ đó, dần dần quan điểm đánh giá của người tu sĩ cũng trở nên "sơ
cứng" ít cảm thông với những hoàn cảnh cá biệt, ra ngoài khuôn khổ và cũng
không thể hiểu được những tật xấu của xã hội con người.
-
huấn luyện tạo nên sợ hãi : đây là một nét rất dễ thấy nơi các tu sinh.… Điều
này khiến cho người tu sĩ trong thời gian thụ huấn thường rụt rè, không dám
quyết định và ít cam đảm nhận trách nhiệm của mình.
Điều đó có nghĩa là nhiều {?} tu sĩ
không tìm thấy hạnh phúc, không tìm thấy Nước Trời trong đời sống tu trì.
Đó là một vài thách đố của đời sống
tu trì mà người tu sĩ chỉ có thể đảm nhận được trong chính phẩm chất đời sống
đức Tin của mình mà thôi.
2. Bỏ mọi sự mà theo Thầy . . .
“Và
phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh
Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.”{Mt 19,
27-30}
Có nên bi quan không ? Thật sự, nếu
chúng ta tin vào con người, là sinh vật có khả năng phản tỉnh, thì chúng ta
cũng đã có được một chút hy vọng. Hơn nữa, nếu thật sự tin vào sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần, ta không thể bi quan. Lịch sử Giáo Hội cho thấy luôn có con
đường mới rộng mở qua những khúc quanh gay gắt nhất. Sống mầu nhiệm Nước Trời
như hạt cải; nghĩa là sống đồng thời với một thế giới đang qua đi và với một
niềm hy vọng đang hình thành.
2.1 Tu sĩ làm chứng bằng sự chính hiện diện
Ta có thể nói một cách tổng quát
rằng bản chất của đời sống Kitô hữu nói chung là hoạ lại đời sống của Đức Kitô
hay diễn tả thực tại Nước Trời. Trong Giáo Hội, mỗi thành phần sẽ lãnh nhận một
“phần”, một “lãnh vực” trong đời sống của Đức Kitô để làm như sứ mệnh riêng của
mình : các giáo sĩ có sứ mạng giảng Lời Chúa, cử hành các bí tích, điều hành
cộng đoàn; giáo dân thì chọn sứ mạng đem các giá trị Tin Mừng hội nhập vào các
thực tại trần thế; thì người tu sĩ lại là những người muốn sống giá trị Tin
Mừng bằng trọn vẹn đời sống của mình. Nói cách khác, tu sĩ là người làm chứng
cho Nước Trời bằng chính sự hiện diện của bản thân mình trong nề nếp tu trì.
“Những người được thánh hiến, dấn thân sống theo các lời
khuyên Phúc Âm, tiếp nhận một sự thánh hiến mới mẻ và đặc biệt, dù không phải
là bí tích, cũng thúc giục họ lựa chọn lối sống mà chính Chúa Giêsu đã sống và
đã đề nghị cho các môn đệ, trong sự độc thân, trong sự khó nghèo và vâng phục .
. . người được thánh hiến có sự đồng hoá đặc biệt với Chúa Kitô khiết tịnh, khó
nghèo và vâng phục” {ĐSTH 31d}
Giáo hội có nhiệm vụ thông truyền
Đức Kitô cho nhân loại, nhưng không phải chỉ bằng lời giảng và bí tích, cũng
không phải chỉ bằng những lối hành sử theo tinh thần Tin Mừng, nhưng còn bằng
chính sự hiện diện như một nếp sống, khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục. Do đó,
nếu thiếu đời sống tu trì, hình ảnh Giáo Hội, nói một cách tổng quát, chưa có
những bằng chứng cụ thể và hữu hiệu của Nước Trời. Chính vì đời sống thánh hiến
có mục đích làm hiển hiện nếp sống cụ thể của Đức Kitô, nên đời sống thánh hiến
nằm giữa lòng Giáo Hội và có một giá trị ưu việt.
Vào buổi tối, trên con đường có đầy
những quán nhậu, đầy những chiếc xe con sang trọng và cũng đầy trò đời bẩn thỉu
và gian trá, có những nữ tu âm thầm đạp xe đi qua. Hình ảnh ấy trở nên như một
“bóng dáng” khác lạ giữa đời. Nhưng hình ảnh ấy cũng giúp cho có người nhận ra
rằng thế giới vẫn còn có giá trị đẹp, cuộc sống vẫn còn có nhiều điệu thiện.
Hình ảnh đơn sơ ấy chắc chắn làm cho thế giới “đẹp” hơn, gia tăng khả năng tin
vào con người hơn, vì tin rằng vẫn còn những người dành cả được đời để đi tìm
điều thiện, điều tốt trên cuộc đời này. Những hình ảnh đó góp phần vẽ nên một
hành trình hướng về Nước Trời.
2.2 Đánh đổi mọi sự vì Nước Thiên Chúa
Hoạ lại đời sống Đức Kitô bằng chính
nếp sống của mình, nếp sống tuân giữ ba lời khuyên Tin Mừng, và ba lời khuyên
ấy là chính những lãnh vực quan trọng nhất của một đời người, điều ấy có nghĩa
là đánh đổi tất cả mọi sự vì Nước Trời. Cuộc đánh đổi này trong thực chất,
chính là dám “bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”, “bán
tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” {Mt 13,44-46}
Cuộc đánh đổi này chắc chắn không
không phải là một cuộc trao đổi “tiền trao cháo múc”, nhưng là một đánh đánh
trong niềm tin, nghĩa là dám “lấn trước”, dù chưa thấy, chưa nghiệm được tất cả
những tình huống xẩy ra trong hành trình của đời sống tu trì.
Hành động “đánh đổi mọi sự” như thế
trở nên một dấu chỉ hy vọng cho cuộc sống con người. Dấu chỉ ấy chỉ có thể được
duyệt chính khi gắn liền với “dấu chỉ Giôna”, nghĩa là gắn liền với tình yêu
lớn lao của cuộc Tử nạn và mầm sống Phục Sinh của Đức Giêsu. Người tu sĩ dám
đánh đổi vì tin vào Đức Giêsu, Đấng đã “đánh đổi” tước vị Con Thiên Chúa để hoá
ra không và sống như người phàm.
“Đức
Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên
Chúa
mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa,
nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô
lệ,
trở nên giống
phàm nhân
sống như người
trần thế.
Người
lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây
thập tự.
Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh
hiệu
trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời
dưới đất
và trong nơi âm
phủ,
muôn vật phải
bái quỳ ;
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng :
"Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa". {Pl 2, 6-11}
Như thế, chỉ trong niềm tin, chỉ với
nhãn quan của Thánh Thần, người tu sĩ mới có thể không bi quan như thể Nước
Trời của Đức Giêsu không làm được gì; không thất vọng như thể Nước Trời đang
thua cuộc; không “bán than” {than thở} chỉ vì những sự việc đã không diễn ra
theo ý của mình. Ngược lại, với nhãn quan của Thánh Thần, người tu sĩ có khả
năng đọc dấu chỉ thời đại trong niềm xác tín vào chiến thắng của Nước Trời và
nhất là dám sống chính cuộc đời minh như một dấu chỉ hy vọng được tỏ hiện trên
hành trình cuộc sống của con người.
2.3 Như một niềm tin “lấn trước”
Theo triết gia Gabriel Marcel, tự
bản chất của lời khấn, theo lý lẽ, có một mâu thuẫn căn bản : khi hứa bất cứ
một điều gì, người ta không thể nắm chắc được trong tương lai, nắm chắc tất cả
những hoàn cảnh liên hệ xung quanh có tồn tại như cũ hay không. Tôi hứa giúp đỡ
anh khi anh học xong đại học, lời hứa ấy hiểu ngầm rằng khi anh học xong, xí
nghiệp của tôi vẫn hoạt động bình thường, thu nhập của tôi vẫn còn kha khá. Thế
nhưng, cái hiểu ngầm ấy không hoàn toàn chắc chắn, tôi không thể nắm chắc điều
cái điều kiện ngấm ngầm ấy. Do đó, khi tương lai biến đổi, hoặc là tôi trung
thành với quá khứ, tức là trung thành với lời đã hứa thì tôi sẽ thi hành lời
hứa một cách bất đắc dĩ; hoặc là tôi trung thành với “tương lai”, nghĩa là dựa theo
hoàn cảnh biến đổi của cuộc sống, tôi có thể không thi hành những điều tôi đã
hứa.
Tất cả những lời hứa, hứa yêu nhau
trọn đời, hứa trung thành với đời sống tu trì, hứa giúp đỡ hai một điều gì. . .
đều rơi vào mâu thuẫn giữa quá khứ và tương lai như vậy. Do đó, nếu đúng lý,
tôi sẽ phải trung thành với “tương lai”, để sống một cách trung thực với chính
tôi, nghĩa là tôi cần phải dám huỷ bỏ lời hứa; hoặc là đúng hơn, tôi sẽ chẳng
bao giờ có thể hứa một điều gì, vì tôi không nắm chắc được tương lai của tôi.
Tuy vậy, trong thực tế cuộc sống,
trong tương quan bình nhất cũng như quan trọng nhất của cuộc sống xã hội, lời
hứa lại là một yếu tố quan trọng, cần thiết và nó vẫn được thực hiện thường
xuyên. G. Marcel lý giải rằng, thực ra, trong khi hứa, tôi thể hiện sự tự do
của tôi một cách trọn vẹn, một thứ tự do “lấn trước”, một thứ cam kết của bằng
chính tự do, thứ tự do cho thấy cuộc sống của tôi không phải là một mắt xích
trong một chuỗi những nguyên nhân và hậu quả tất định, cuộc sống của tôi không
phải là một hành trình của những tương tác thực nghiệm, nhưng là một sự dấn
thân có tính cách tự do.
Như thế, chính sinh hoạt thường ngày
của con người cũng đã hàm nghĩa một khả năng “lấn trước”; và khả năng này, nói
cho cùng, chỉ có thể duyệt chính trong niềm tin vào Thiên Chúa. Chính Thiên
Chúa luôn đi bước trước, cho dù con người chưa đáp ứng những điều kiện của
Ngài. Chính Thiên Chúa đã “dám tin” vào con người, để “tặng không” cho con
người chính Con Một của Ngài. Như thế, ta có thể nói, chỉ trong niềm tin vào
Nước Trời, sống với qui luật Nước Trời, con người mới có thể sống trọn vẹn cuộc
đời của mình.
IV. Cộng đoàn
1. Thách đố của nếp sống cộng đoàn
1.1 Thách đố của quyền bính
Những lý thuyết về đức vâng phục có
lẽ đã quá rõ. Vâng phục của người tu sĩ không là gì khác hơn sống thái độ của
Chúa Giêsu đối với Chúa Cha :
“Người nói : "Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin
cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha
muốn." {Mc 14,36}
Với khuôn mẫu ấy, vâng phục không
mâu thuẫn với tự do, nhưng chính là một cách thức, và thực sự là cách thức duy
nhất trọn vẹn, để con người có thể sống với nhau.
“Đức vâng phục trình bày một cách đặc biệt hùng hồn việc
Chúa Kitô vâng phục Chúa Cha như là mẫu mực, và khởi đi từ mầu nhiệm đức Kitô,
đức vâng phục minh chứng rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn nhau. Thật
vậy, thái độ của Chúa Con cho thấy rằng mầu nhiệm về tự do của con người là con
đường vâng phục ý muốn Chúa Cha, và mầu nhiệm của vâng phục là một con đường
chinh phục từng bước sự tự do chân thật” {ĐSTH 91b}
Tuy nhiên, trong thực tế, đức vâng
phục vẫn còn và vẫn luôn là một thách đố. Tông huấn Đời sống Thánh hiến cũng
nói đến lời khấn vâng phục như một “thách đố của tự do trong đức vâng phục” {s.
91}. Quả thật vấn đề quyền bính gắn liền với với vấn đề tự do. Quyền bính chân
chính trong Giáo Hội chỉ có nghĩa khi mà cả vị bề trên cũng như những thành
viên trong Giáo hội không hành xử quyền bính và qui phục quyền bính theo qui
luật “mạnh được yếu thua”, nhưng theo qui luật “tặng không”. Điều đó có nghĩa
là vị bề trên phải luôn ý thức rằng nếu mỗi thành viên không tự ý dâng tặng tự
do cho Chúa qua cộng đoàn, thì mình chẳng thể có quyền gì đối với anh chị em
của mình; và điều đó cũng có nghĩa là mỗi thành viên cũng phải luôn ý thức rằng
chính tôi tự nguyện dâng tặng tự do của tôi để tìm thấy sự hiệp nhất Nước Trời
trong cộng đoàn. Như thế có nghĩa là bề trên cần đón nhận lòng vâng phục của
các thành viên như món quà và đón nhận với lòng tri ân; đồng thời các thành
viên cũng đón nhận quyết định của bề trên như quà tặng trong lòng tri ân. Cuối
cùng, quyền bính và vâng phục đích thực chỉ có ý nghĩa thực sự khi thể hiện
được sự hiệp nhất của Nước Trời, sự hiệp nhất trong tự do chân chính của mỗi
con người.
Trong thực tế, nhưng ý nghĩa căn bản
ấy hình như thường bị quên đi hoặc bị che mờ. Lý do có thể vì tính yếu đuối của
con người, cả nơi bề trên cũng như nơi các thành viên; hoặc cũng có thể do
người ta còn quá chịu ảnh hưởng của một thứ triết học yếu tính, nghĩa là giải
quyết vấn đề dựa trên một giá trị “căn bản” đã xong, và giá trị căn bản ấy lại
chỉ được hiểu theo nghĩa pháp lý. Chẳng hạn, vì đã tự do khấn vâng lời thành
sự, cho nên đương nhiên mọi sự suy phục quyền bính của một thành viên nào đó,
trong một trường hợp cụ thể nào đó, cũng đã tự động, hiển nhiên là một hành vi
tự do dâng tặng với niềm vui và niềm tri ân. Quan niệm nặng tính cách yếu tính
như thế khiến người ta thường bỏ quên cách thức diễn tả chân chính trong thái
độ và hoàn cảnh cụ thể, diễn tả một cách hiện sinh. Dĩ nhiên, vì đã một lần tự
do khấn hứa, cho nên mọi hành vi vâng lời sau đó của tôi đều có giá trị dâng
tặng. Thế nhưng, trong thực tế, khi trước mắt phải đối diện với một thái độ
hành xử quyền bính nào đó, tôi lại rất thường tức giận, bất mãn, vùng vằng; và
cuối cùng, đành phải chấp nhận ý muốn của bề trên trong thái độ chịu vậy. Những
sự kiện “hiện sinh” như thế mỗi ngày mỗi bào mòn ý hướng ban đầu của tôi, mỗi
ngày mỗi trở nên như một thực tế nặng nề mà tôi không gánh vác nổi.
Trong cuộc sống thường ngày, người
tu sĩ thường dễ đánh mất cả thức ý nghĩa quyền bính đến từ Thiên Chúa và cũng
ít cảm nhận được quyền bính của Chúa không nhằm thống trị nhưng nhằm phục vụ.
Hơn nữa, điều quan trọng là những sự kiện cụ thể ấy làm cho người tu sĩ không
còn khám phá được niềm vui Nước Trời cũng như có nguy cơ đánh mất căn tính của
đời sống thánh hiến.
1.2 Thách đố của “chị em”
Cộng đoàn là hình ảnh Giáo Hội được
Thiên Chúa qui tụ. Chị em trong cộng đoàn là những người con cùng một Cha trên
trời, và là con của cùng một Đấng Sáng Lập Hội Dòng. Chúng ta thừa hiểu rằng
nền tảng của cộng đoàn là một nguyên lý đức tin chứ không phải là sự hợp tính
hợp nết, hoặc gần gũi thân quen theo xác thịt.
Tuy nhiên, điều không thể chối cãi
được là, trong thực tế, với nguyên lý đức Tin, có lẽ là một một đức Tin chưa
được mạnh mẽ, chúng ta chẳng cưu mang được anh chị em trong cộng đoàn một cách
thân tình như những người anh em ruột thịt; chúng ta chẳng tha thiết được với
anh chị em trong cộng đoàn như đối với những người thuộc về mình trong mối giây
liên hệ của nguyên lý máu huyết. Chính vì thế mà chúng ta dễ rơi vào thái độ
tính toán cách đối xử với nhau “cho phải phép” hơn là “cho thật tình”; và cũng
chính vì thế, đời sống huynh đệ cộng đoàn cũng luôn có nguy cơ rơi vào một sự
tính toán cách nửa mùa, nghĩa là : sống trong cộng đoàn đức Tin, nhưng chúng ta
vẫn tìm bạn, tìm đồng minh và nhận định về nhau theo nguyên lý tự nhiên. Đó
chính là tình trạng “hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Nói cách khác, tin chỉ là
tin trên lý thuyết, còn trong thực tế, người ta vẫn hành xử trong cộng đoàn
theo những đòi hỏi luân lý và theo lẽ tự nhiên. Chúng ta sử dụng nguyên lý
“thuận mua vừa bán” để “xây dựng” cộng đoàn, để cố tạo tình tạo nghĩa với nhau.
Chúng ta loay hoay, vá víu trong sự bế tắc mà không tìm thấy một niềm vui thênh
thang của nẻo đường cứu độ. Với sự trệch hướng ấy, dần dần người tu sĩ đi vào
những con đường cụt của nguyên lý hòa hợp tự nhiên hoặc nguyên lý máu huyết.
Chúng ta tưởng rằng để thương được anh chị em kia, thì người ấy phải bỏ đi tính
xấu này, thói quen nọ; chúng ta cương quyết đặt những điều kiện dứt khoát cho
người này người khác để ta có thể cộng tác hoặc có thể nói chuyện với nhau
được.
Người tu sĩ được mời gọi đi vào “đại
lộ” thênh thang của ơn cứu độ, nhưng lại cứ muốn đặt những chướng ngại cho nhau
theo nguyên tắc luân lý; và nếu sống bằng ánh sáng của nguyên lý luân lý thì
người tu sĩ vẫn luôn mang thái độ của một người nô lệ chứ chưa phải là thái độ
tự do của con cái trong nhà {Xc. Gl 4, 22-26}. Có lẽ điều khó nhất trong đời sống
cộng đoàn là ý thức, hay đúng hơn là cả một cảm thức toàn diện và sống động, về
sự thuộc về nhau trong nguyên lý của đức Tin. Có lẽ điều tréo quan trọng nhất
trong đời sống cộng đoàn, đó là người tu sĩ vẫn mang cảm thức cũ, theo nguyên
lý tự nhiên, để áp dụng trong thực tại mới, thực tại Nước Trời đã bắt đầu và
đang hoàn thành trong đời sống Giáo Hội và cộng đoàn.
1.3 Cá nhân và tập thể
Chúng ta phải thật sự “cảm ơn” bầu
khí xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, vì nó bộc lộ cho chúng ta khá rõ rệt những
khiếm khuyết của một phong cách quá đề cao nếp sinh hoạt tập thể. Một người
thanh niên được lớn lên trong bầu khí xã hội chủ nghĩa thường được thổi hơi
bằng những phong trào, thường được đánh giá bằng những chiến dịch thi đua,
thường tìm cách khẳng định mình bằng những thành tích được tuyên dương… Những
dũng sĩ thi đua, những cá nhân tiến tiến, những người đạt thành tích xuất sắc
ấy thường tìm thấy niềm vui khi được khen thưởng, mà ít tìm thấy niềm tự hào
khi mình sống và thể hiện một giá trị nhân sinh do chính lựa chọn tự do của
mình. Người ta trở thành anh hùng trong những hành vi “tốt”, chỉ bởi vì hành vi
ấy được đặt trong chiến dịch thi đua, trong chuỗi sinh hoạt của tập thể, trong
bậc thang giá trị của phong trào; nhưng không thấy hành vi “tốt” ấy gắn liền
với bản chất cá nhân của mình. Chính vì thế, chúng ta cũng có thể thấy, ngay
trong chiến dịch thi đua sôi nổi nhất, những thái độ tắc trách, vô trách nhiệm.
Đó là một thí dụ rõ ràng đề sự mất quân bình giữa cá nhân và tập thể.
Đời tu là một nỗ lực không ngừng để
từng bước tìm thấy sự hòa hợp giữa hoàn cảnh riêng và những tổ chức chung; có
thể nói đây là một nỗ lực khó khăn và không bao giờ thành đạt hoàn toàn. Văn
kiện Đời sống huynh Đệ trong Cộng đoàn {02-02-1994} nói rằng :
“.. .. cần phải tìm kiếm một sự quân bình chính đáng, -
một điều không phải luôn luôn dễ dàng đạt được – giữa công ích và sự tôn trọng
con người, giữa những đòi hỏi và nhu cầu của cá nhân với nhu cầu cộng đoàn.
Giữa đoàn sủng cá nhân và sứ vụ cộng đoàn. Sự quân bình đó phải tránh sức mạnh
phân rẽ của chủ nghĩa cá nhân lẫn khía cạnh cào bằng của chủ nghĩa cộng đoàn.
Cộng đoàn tu sĩ là nơi diễn ra cuộc vượt qua hằng ngày và kiên trì từ cái “tôi”
đến “chúng ta”, từ công tác của tôi đến công tác được ủy thác cho cộng đoàn; từ
việc tìm kiếm “những điều thuộc về tôi” đến việc tìm kiếm “những điều thuộc về
Đức Kitô”. [ĐSHĐ s. 39].
Do vậy, muốn giải quyết khó khăn
giữa cá nhân và cộng đoàn một cách dễ dãi, hoặc chối bỏ khuôn khổ của những tổ
chức chung, hoặc khăng khăng bảo vệ tổ chức chung bất cứ trong tình huống nào,
thì sự đổ vỡ sẽ lại càng trầm trọng hơn.
Nếu không lưu tâm đến sự trưởng
thành và thái độ chủ động của cá nhân, nếu “cái chung” trở thành tiêu chuẩn giá
trị duy nhất trong đời sống, và mọi cuộc thảo luận cộng đoàn chỉ là tìm biện
pháp để bảo đảm nề nếp chung một cách tuyệt đối, thì đời sống cộng đoàn sẽ chỉ
còn là những lớp vỏ sinh hoạt, thảo luận cộng đoàn sẽ chỉ còn là những tranh
luận vô tận trên bình diện tổ chức, và năng lực cộng đoàn chỉ còn là cố gắng
dàn xếp những khác biệt hoặc những xung khắc. Khi đó, đời sống cộng đoàn không
còn là sự hiệp thông. Sự hiệp thông đích thực chỉ có được khi mỗi cá nhân, tự
do và tự nguyện, sống tâm tình thuộc về nhau, sống thái độ chấp nhận những giới
hạn của nhau, mang tâm hồn cảm thông với những khiếm khuyết trong cộng đoàn, và
thể hiện phong cách góp ý trong sự trân trọng từng cá nhân thuộc cộng đoàn. . .
Ta có thể tạm phác họa “phương trình” của đời sống cộng đoàn là “cá nhân – cộng
đoàn – cộng đoàn – cá nhân”; khi phương trình ấy bị triệt tiêu “tử số” cá nhân,
thì chỉ còn là sự dàn xếp những những quan niệm về tổ chức cộng đoàn khác nhau,
sinh hoạt cộng đoàn không còn tính cách nhân văn và siêu nhiên, mà chỉ còn là
cơ chế, thủ tục, lệ luật cứng nhắc. Tình trạng “tổ hợp sinh hoạt của cộng đòan”
sẽ càng tệ hại hơn nữa, khi mà, để bảo đảm nếp sinh hoạt chung, người ta phải
dùng mọi phương cách, cho dù là những biện pháp có nhiều nguy cơ làm cho nhân
cách người tu sĩ trở nên ấu trĩ, sợ sệt, gian dối ...
Một xã hội, một tổ chức không tạo
được những giá trị đạo đức trong tâm hồn, tập thể ấy là một xã hội băng hoại mà
tất cả những nỗ lực của luật pháp, của những biện pháp, chỉ còn là những sợi
giây mỏng mảnh để tạm cầm giữ những cây cột đã lung lay tận gốc. Khi ấy, rất
nhiều căn bệnh nẩy sinh : bệnh hình thức, bệnh thực dụng, bệnh đoàn lũ, bệnh lý
sự, bệnh nệ luật. . . Chúng ta cũng có thể thấy tình trạng giống như vậy trong
một bầu không khí mà cá nhân bị nuốt chửng trong nề nếp chung.
2. Ai là Mẹ tôi ? Ai là Anh em tôi ?
“Người đáp lại : "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là
những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành." {Lc 8,19-21}
2.1 “Cộng đoàn” của Thiên Chúa
Theo truyền thống Giáo Hội, nền tảng
thần học sâu xa nhất của sống cộng đoàn chính là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa;
cộng đoàn tu trì phản ảnh và thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, một Thiên
Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi Vị[14].
Chúng ta chẳng biết được đời sống
nội tại trong Ba Ngôi. Tuy nhiên, qua sự bộc lộ của Thiên Chúa trong lịch sử
cứu độ, chúng ta có thể nhận ra mầu nhiệm hiệp nhất của Ba Ngôi được thể hiện
mang đầy tính lịch sử và hiện sinh. Chúng ta không thấy một sự thống nhất tự
động của một bản tính Thiên Chúa duy nhất, theo kiểu khi một Ngôi suy nghĩ điều
gì thì đương nhiên các Ngôi khác cũng có cùng suy tư và cảm nghĩ như thế. Ngược
lại, mạc khải cho chúng ta thấy tính cách ngôi vị thể hiện rõ nét trong sự hiệp
nhất nên một của Ba Ngôi. Sự hiệp nhất ấy, một cách nào đó, có một “quá trình
lịch sử”, một “nỗ lực khó khăn”, một thái độ “từ bỏ và tự hiến” để thực hiện
một nhiệm cục cứu độ duy nhất. “Tiến trình nên một” ấy được bộc lộ theo cách
dấn thân tự do của ngôi vị chứ không phải một cách tự động của bản tính. Đức
Giêsu đã phải chiến đấu trong suốt sứ vụ công khai và trong cuộc tử nạn để thi
hành Thánh Ý Chúa Cha, khởi từ ba cơn cám dỗ, cho đến nỗi lo âu buồn phiền
trong vườn Cây Dầu :
“Người nói với các ông : tâm hồn Thầy buồn đến chết được…
Người nói : Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng
xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” [Mc 14, 34.36].
Cũng thế, ta thấy Chúa Thánh Thần
không làm điều tùy hứng, nhưng tình nguyện tiếp nối công trình của Chúa Giêsu :
“Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự
thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người
nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy đến. Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói : Người lấy những gì là
của Thầy mà loan báo cho anh em” [Ga 16, 13-15].
Thực tại Nước Trời không là gì khác
hơn chính đời sống của Ba Ngôi; và nẻo đường duy nhất đi vào đời sống ấy chính
là Đức Giêsu. Ở đâu có đức Giêsu, ở đó có Nước Trời; do đó, việc theo Chúa
Giêsu {“đến với Tôi”}, sống theo cung cách của Đức Giêsu {“vác thập giá mình”}
trở thành tuyệt đối, ngay cả khi so chiếu với tình thân của đời sống gia đình :
“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em,
chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác
thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được” {Lc 14,27}
Những điều đó hẳn có thể soi sáng
cho cung cách hành xử của các vị bề trên đối với anh chị em trong cộng đoàn,
cũng như cách hành xử của anh chị em đối với người có trách nhiệm.
2.2 Thuộc về nhau trong đức Tin
Những nguyên tắc đức ái của bài
giảng trên núi là những nguyên tắc của một đời sống mới, được nuôi dưỡng bằng
nguyên lý đức Tin chứ nguyên lý xác thịt không thể nào đạt đến được. Một đàng, lời kêu gọi ấy không chủ
trương một chủ nghĩa anh hùng, nghĩa là không phải do suy tư hay do tập luyện,
không phải do sự đòi buộc của phong cách quí phái hay thái độ cao cả của một kẻ
chính nhân quân tử. Đàng khác, lời mời gọi đó cũng không thể được hoàn thành
theo kiểu nữa chừng xuân, một thái độ nửa mùa, tránh né như người giáo hữu
thường giải quyết : tôi không gặp người tôi ghét, tôi nói nói chuyện với nó,
không dính dáng tới nó nữa ! thế là xong !
Lời kêu gọi “hãy yêu thương kẻ thù
và cầu nguyện cho những người bắt bớ anh em”, là đỉnh cao của “đòi buộc” luân
lý Kitô giáo, nhưng không phải là một kết luận thuần túy luân lý, mà xuất phát
từ nguyên lý cứu độ : chúng ta được nhập hội vào gia đình của Thiên Chúa, và
trong gia đình ấy, có những người mà ta không ưu thích, có những người ta ghét,
có tất cả mọi người. Nguyên lý cứu độ ấy đưa chúng ta vào trong một sự hiệp
nhất lớn hơn thái độ tay đôi giữa ta và kẻ ta thương hay ta ghét; chính ở trong
sự hiệp nhất lớn hơn ấy, cả hai chúng ta thuộc về nhau.
“Như vậy anh em mới
được trở nên con cái của cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời
của Người mọi lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên
người công chính cũng như kẻ bất chính” {Mt 5, 45}
Như thế, có thể nói, bí quyết của
tình yêu, đó là một nguyên lý hết sức quen thuộc của đời thường : thuộc về
nhau. Chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng và mọi người có thể sống được. Chẳng
hạn : chúng ta có thể vào nhà thương ung bứu để thấy bao nhiêu cảnh khổ của
cuộc sống con người, nhưng chiều về chúng ta vẫn cảm thấy thư thái, ăn ngon và
ngủ ngon; vì những người đau khổ đó, một cách nào đó, chưa thuộc về ta, chưa
dính dáng đến ta bao nhiêu. Cũng thế, chúng ta có thể chia vui với một người
bạn xây xong một ngôi nhà khang trang, hoặc có con mới thi đậu đại học, những niềm
vui đó chẳng sống động và lâu bền bao nhiêu so với bao nhiêu chuyện đang quay
quắt trong quỹ đạo sinh hoạt thường ngày của cuộc đời mình. Ngược lại, nếu
người nằm trong nhà thương Việt Pháp bị mổ ruột dư là em của tôi, người thi đậu
tiểu học là cháu của tôi, thì chắc chắn nỗi lo lắng và niềm vui của tôi sẽ sâu
xa và mạnh mẽ hơn nhiều. Cái ruột dư bị đau chắc chắn chẳng quan trọng bằng cái
bứu ác tính đang đe dọa tính mạng, văn bằng tiểu học chắc chắn chẳng là gì so
với tờ giấy báo trúng tuyển đại học; nhưng những điều ấy lại dính dáng đến tôi,
chúng được sống động do nguyên lý “thuộc về nhau”. Cũng thế, người thân của
chúng ta chắc chắn chẳng hay hơn, chẳng tốt hơn, chẳng dễ thương hơn tất cả mọi
người, nhưng điều quan trọng hơn là : đó là những người thuộc về tôi.
Cũng như Hội Thánh, đời sống tu trì
là một thực tại diễn tả mầu nhiệm Nước Trời, là bí tích của Nước Trời, và chỉ
có thể được thành hình dựa trên nguyên lý của đức Tin. Nhờ nguyên lý của đời
sống mới, người tu sĩ thể hiện giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi trong thực tại
Giáo Hội, trong cộng đoàn, nghĩa là đón nhận những người xa lạ vào trong cộng
đoàn của mình và sống với họ như anh chị em của mình; yêu thương và phục vụ mọi
người, nhất là những người bé mọn nhất, cũng là những người khó thương nhất, vì
nghèo hèn thường kéo theo “đạo tặc”.
Chỉ trên nền tảng mới này, nền tảng
của đức tin, người tu sĩ mới có thể gia nhập vào gia đình mới của Thiên Chúa và
sống trọn vẹn niềm vui “từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường
đưa ta đi lên đền Chúa ta”.
2.3 Tha thứ, qui luật Nước Trời ở trần gian
Tuy nhiên, đời sống mới không phải
là một cuộc “biến hình” mà là một hành trình. Nước Trời không đến sau một khúc
quanh của cuộc sống hiện tại, nhưng Nước Trời đã có mặt trong cuộc sống hiện
tại và đan xen vào cuộc sống còn đầy tính chất trần gian. Nước Trời đã được
thiết lập dứt khoát, nhưng còn đang phát triển cho đến ngày Chung cuộc.
Như thế, sự tỏ hiện của Nước Trời
hiện nay không phải ở trong một Giáo Hội hoàn hảo mọi bề, trong một cộng đoàn
hết mực yêu thương nhau, nhưng trong những con người tội lỗi, trong những giới
hạn của đời sống cộng đoàn, trong nỗ lực từng bước “vác thập giá mình” theo
chân đức Giêsu. Thánh Phaolô mô tả thực tại của những người được Thiên Chúa cứu
độ như sau :
“Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy
có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và
tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người
kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ
cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây
liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em,
vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.
Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.{Cl 3, 12-15}
Hành trình của Nước Trời được thể
hiện trong từng bước “thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại”
và “hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau”. Như thế, có thể nói “nguyên lý”
của đời sống cộng đoàn đức Tin chính là đón nhận nhau trong tình bác ái và biết
tha thứ cho nhau. Cộng đoàn đức Tin không còn được phép chọn thái độ nửa mùa để
tránh né, không còn có thể đặt một giới hạn hạn hẹp nào, không còn mức độ tính
toán nào. Đời sống tu trì như một chứng tá của niềm tin, như một chứng tá sự
hiện diện của Giáo Hội, không còn có thể vin vào luật lệ, truyền thống hay lợi
lộc nào để có thể gạt bỏ người anh chị em của mình, dĩ nhiên là trừ khi cách
giải quyết ấy sẽ tốt hơn cho người anh chị em ấy.
Nguồn mạch của đời sống ấy bắt nguồn
từ bí tích Thánh Tẩy, nơi đó, ta và Chúa hợp thành một cộng đồng ngôi vị giống
như và vượt trổi hơn tính cách cộng đồng ngôi vị của đời sống gia đình. Cũng
thế, cộng đoàn tu trì làm nên một “cộng đồng ngôi vị”, nơi đó các thành viên
chẳng những đồng hội đồng thuyền mà còn là đón nhận “ngôi vị” của nhau, nghĩa
là đón nhận trọn vẹn bản thân của nhau chứ không phải chỉ là một hợp đồng liên
quan đến tài năng, công việc hay như một câu lạc bộ của những người có cùng một
sở thích. Một cộng đồng như thế tạo nên một sự liên đới với nhau trọn vẹn cuộc
sống và trong cả cái chết, vươn đến tận đời sống bên kia nữa.
Thái độ chấp nhận nhau có thể làm
cho bước tiến của cộng đoàn nên chậm chạp, sốt ruột… Tuy nhiên, chính sự chậm
chạp như thế thường là biểu hiện một sự trưởng thành chân chính. Bước tiến của
cộng đoàn giống như một số người đứng chung trong một cái bao, rất khó để nhích
lên một bước. Tuy vậy, Kitô giáo hoàn toàn không phải là con đường thoát hiểm
cho một số người mà chính là sự liên đới trong tội lụy; để rồi, nhờ sự hiệp
thông trong cộng đoàn ân phúc mà chiến thắng được thế lực của tội lụy. Trong ý
nghĩa ấy, chính sự hiệp thông, chấp nhận được nhau, liên đới với nhau trong
hành trình . . . đã là một dấu hiệu tỏ bày sự hiện diện của Nước Thiên Chúa.
Văn kiện Đời sống Huynh đệ trong
Cộng đoàn nhắc nhủ:
“Lý tưởng cộng đoàn không được làm chúng ta mù quáng trước
sự kiện này là mọi thực tại Kitô giáo đựơc xây dựng trên sự mỏng manh yếu đuối
của con người. Chưa có “một cộng đoàn lý tưởng” : sự hiệp thông hoàn hảo của
các thánh là mục tiêu của chúng ta ở Giêrusalem trên trời.
“Thời của chúng
ta bây là thời khởi công và kiên trì xây dựng. Chúng ta luôn luôn có thể cải
thiện và cùng nhau đi tới một cộng đoàn khả dĩ sống trong tha thứ và yêu
thương. Các cộng đoàn không thể tránh được hết mọi xung đột va chạm. Sự hiệp
nhất mà chúng ta phải xây dựng là sự hiệp nhất được thiết lập bằng cái giá của
sự hòa giải. Sự bất toàn trong cộng đoàn không được làm chúng ta nản chí.
“Mỗi
ngày cộng đoàn lại lên đường. Được giáo huấn của các Tông Đồ nâng đỡ : “Hãy
thương mến nhau với tình huynh đệ; coi người khác trọng hơn mình” [Rm 12,10];
“Hãy đồng tâm tâm nhất trí với nhau” [Rm 12,16]; “Hãy đón nhận nhau, như Đức
Kitô đã đón nhận anh em” [Rm 15,17]; “Tôi tin chắc rằng anh em… có khả năng
khuyên bảo nhau” [Rm 15,14]; “Anh em hãy chờ nhau” [1 Cr 11,33]; “Hãy đem lòng
yêu thương mà làm tôi lẫn nhau” [Gl 5,13]; “Hãy an ủi nhau” [ 1 Tx 5,11]; “Hãy
lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” [Ep 4,32]; “Vì lòng kính sợ Đức Kitô,
anh em hãy phục vụ lẫn nhau”[Ep 5,21]; “Hãy cầu nguyện cho nhau” [Gc 5,16];
“Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau” [1 Pr 5,5]; “Chúng ta được
hiệp thông với nhau” [1Ga 1,7]; “Khi làm điều thiện, chúng ta đừng có nản chí,
nhất là cho những anh em cùng trong đại gia đình đức tin” [Gl 6,9-10].
[ĐSHĐTCĐ, số 26].
Vì được hiệp nhất với nhau trong ơn
phúc, nên người tu sĩ cũng dám đương đầu tới chính thực tế liên luỵ với nhau
trong tội. Đó là thái độ mới của thành viên Nước Trời.
Đó là thái độ, dù có te tua vì “tình
chị em”, nhưng vẫn dứt khoát không chọn thái độ nửa mùa; dù có bầm dập hay vất
ngã vì gai góc của tình huynh đệ, nhưng vẫn giương cao ngọn cờ chiến thắng của
Nước Trời như một cuộc “tử đạo” vì niềm tin.
Đó là ơn bình an không phải đến từ
một sự thoả mãn mãn của cuộc sống hiện tại, nhưng vì xác tín vào chọn lựa đứng
vào hàng ngũ những người được chúc phúc, hợp đoàn với các “phúc nhân” của Nước
Trời và nhận ra được những dấu chỉ của Nước Trời đã có mặt trong đời sống cộng
đoàn hiện tại của mình.
Đó là niềm tri ân sâu xa đối với
Chúa và với nhau, vì được sống trong Nước Trời, một Vương quốc đã khai mở cho
ta một nẻo đường thênh thang và vô tận để cuộc phiêu lưu của tình yêu có được
một chân trời muôn mầu muôn vẻ.
Đó là một nẻo đường không có bến bờ,
là cuộc phiêu lưu của tình yêu và là lời mời gọi tiến mãi mãi trên chính lộ
thênh thang của tình yêu Thiên Chúa. Đời sống cộng đoàn được qui chiếu trong
cội nguồn ấy sẽ làm cho chúng ta không phải bận tâm “giải quyết sự cố”, nhưng
là mở lòng để đón nhận mãi những dấu hiệu của một tình yêu cứu độ mà Thiên Chúa
đang dẫn dắt cộng đoàn chúng ta tiến bước. Nước Trời là một cuộc phiêu lưu chứ
không phải là một khuôn khổ. Tình yêu là một sự sống luôn phong phú và mới mẻ;
tình yêu luôn cần tới một sự sự do của các chủ thể, một sự bén nhạy về “nhu
cầu” của nhau và một sự tự nguyện dâng hiến để gặp gỡ nhau. Nước Trời là thế
giới của tình yêu chân chính, nơi đó, cuộc sống “mỗi ngày” mỗi khác và mỗi
ngày, tình yêu lại giúp cho các thành viên sáng tạo ra cách thức đáp trả trong
lòng tri ân lẫn nhau và cuộc sống lại có thêm một thứ “bề dày lịch sử” để tình
thân thêm đậm đà thắm thiết.
Kết
Một vị quí tộc mời các gia nhân dùng
bữa. Trong các món ăn hôm ấy có món cua; và sau món cua thường mỗi người có một
chèn trà chanh nóng để rửa tay. Một gia nhân không biết chén trà ấy để rửa tay
nôn cầm lên và uống. Mọi người cười ồ vì sự quê mùa của anh ta. Nhưng nhà quí
tộc cũng cần chèn nước ấy và uống, mọi người không ai dám cười, và người nông
dân quê mùa ấy cũng không bị bẽ mặt. Có lẽ hình ảnh ấy cho chúng ta hiểu ra
cuộc phiêu lưu của tình yêu trong Nước Trời.
Cô đơn không phải là cô độc. Cô đơn
không có nghĩa là sống một mình, nhưng chính là không tìm thấy một sự hiệp
thông sâu ra và trọn vẹn của ai khác. Trước đây nhiều người đã lầm lẫn “đời
sống chung” với “đời sống huynh đệ”. Nhiều vị đáng kính trong cộng đoàn rất
gương mẫu trong đời sống chung, hiện diện trong mọi sinh hoạt chung và chu toàn
mọi trách nhiệm mà cộng đoàn phân công cho mình, nhưng cách sống ấy lại chẳng
thể hiện được bao nhiêu sự gặp gỡ thực sự của các thành viên với nhau; mỗi
người vẫn canh cánh bên mình một thế giới riêng, nhưng ưu tư riêng mà không dễ
chia sẻ và không dễ được cảm thông.
“Sự
thiếu sót hay giảm sút truyền thông thường dẫn tới sự suy giảm tình huynh đệ;
nếu chúng ta biết ít hay không biết gì về đời sống của anh em hay chị em mình,
thì họ sẽ là những người xa lạ với chúng ta, mối liên hệ sẽ trở nên vô danh”{đshđtcđ, số 32}
Như thế, trong đời sống cộng đoàn,
dù sống giữa một tập để “đầy người” và “đầy anh chị em” của mình, nhưng có thể
vẫn có nhiều tu sĩ cảm thấy cô đơn; họ vẫn phải đơn độc giải quyết những khó
khăn của mình, đơn độc gánh vác gánh nặng đời mình.
Người ta nói bản chất của đời người
là tương quan, “sống là sống với”, nhưng sống với ở đây không phải chỉ là sống
bên cạnh người khác, sống chung với người khác, nhưng là sống trong người khác;
nghĩa là tìm thấy một sự hiệp thông sâu xa trong những gì riêng tư nhất của đời
mình, trong những hoàn cảnh cụ thể và cá biệt của bản thân mình.
Nói cách khác, con người có nhu cầu
sống với trong chiều kích ngôi vị chứ không phải trong đám đông ô hợp hoặc
trong tập thể của đời sống chung. Điều đó có nghĩa là mỗi con người vẫn có nhu
cầu “là mình” trong tương quan, nhu cầu bộc lộ bản thân mình để đến với người
khác. Thực sự bản chất người cần một mối liên hệ có tính ngôi vị chứ không phải
chỉ là những liên hệ chằng chịt nhưng lại “vô danh”. Mỗi người là mình với tất
cả nét cụ thể của con người mình; mỗi người cần đến người khác, cần liên hệ và
hiệp thông với ai khác trong chính ngôi vị của mình, nghĩa là bao hàm tất cả
những nét cụ thể của con người mình. Tôi không thể an vui khi chỉ được quan tâm
như một người trẻ và được các bề trên khuyến khích giới trẻ trong cộng đoàn;
không phải chỉ như một người già, và được đức thánh cha khuyến khích chứng tá
của những người già. . . Thực sự, tôi cần một ai khác biết rõ “cái thằng tôi”,
hiểu rõ bệnh tất và khó khăn của cái thằng tôi này và tôi cần được hiệp thông
trong những góc cạnh cụ thể của ngôi vị tôi.
“Sinh, lão, bệnh, tử” là những điều
gắn liền với thân phận của con người; nghĩa là dù người ta có ngu dốt hay khôn
ngoan, dù người ta có hành xử đúng đắn hay sai lầm thì cũng không vì đó mà có
thể tránh được một thứ “sinh lão bệnh tử” trong cuộc đời mình . . . Đó là những
giới hạn căn bản của đời người chứ không phải là điều ngẫu nhiên xẩy ra cho một
số người nào đó. Con người chỉ có
thể đón nhận những giới hạn căn bản của đời người bằng những cách khác nhau chứ
không thể tránh né được.
Trong đời sống gia đình, nhất là gia
đình Châu Á, người lớn tuổi được ở gần con cháu, được vui tuổi già cùng với
hạnh phúc nhìn thấy con cháu của mình đang lớn lên và đang nên người. Cuộc sống
ấy giúp cho người già có thể cảm nhận ra được, dù mơ hồ, cuộc đời của mình đang
được trao tặng, đang chuyển giao cho con cháu. Khi con cháu sống hiếu thảo,
người già còn cảm thấy cuộc sống của mình, những hy sinh phục vụ của mình trước
đây không phi lý, nhưng có ý nghĩa.
Trong khi đó, những người lớn tuổi
trong các “nhà hưu dưỡng” thì không có được niềm vui ấy, họ thường phải đơn độc
chống chọi với tuổi già và bệnh tật. Mối quan tâm chính của họ chính là tuổi
tác của mình, bệnh tật của mình, và họ phải chiến đấu, nhiều khi là chiến đấu vô
vọng, với những thách đố ấy.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, bình
thường, không ai có thể trợ giúp cho người già, người bệnh tốt cho bằng chính
vợ/chồng và chính con cái của mình. Ngay cả trong đời sống tu trì, nhiều người
già/bịnh vẫn phải nhờ chạy đến người thân trong gia đình và con cháu của mình
nhiều hơn là nhờ cậy vào nhà dòng. Đó là một thực tế khá bi đát trong đời tu.
Thất bại cũng là điều gắn liền với
thân phận con người, bởi vì người ta có thể tránh được thất bại này, đạt được
thành công kia, nhưng không thể tránh được mọi thất bại trên hành trình đời
người. Khi gặp thất bại, khao khát lớn nhất là được cảm thông, được chia sẻ,
được liên đới. Trong đời sống gia đình, những thành công hay thất bại lớn của
một con người thường là có liên hệ chặt chẽ với gia đình của mình. Thành công
hay thất bại của mình thường có nghĩa là thành công hay thất bại của cả gia
đình. Chính những người trong gia đình thường là những người vui nhất với thành
công của người nhà, buồn nhất với thất bại của người nhà. Do đó, khi gặp thất
bại trên đường người, những người sống trong đời sống gia đình thường được an
ủi hơn, vì được liên luỵ, liên đới với nhau một cách mật thiết hơn.
Trong đời sống tu trì, có một tình
trạng chung mà con người khó thoát ra được, tình trạng “cha chung không ai
khóc”. Tình trạng ấy hình như vẫn là một thách đố lớn đối chiều kích xã hội của
con người, cả trong tầm mức vĩ mô của toàn xã hội, trong xã hội chủ nghĩa chẳng
hạn, cũng như trong tầm mức vi mô của đời sống thường ngày. Trong thực tế, có
lẽ có không ít tu sĩ đành phải rút ra bài học tiêu cực : “làm nhiều thì khổ
nhiều”.
Phái tính chẳng phải chỉ là một nhu
cầu của phần xác trong con người, nhưng sâu xa, cũng chính là nhu cầu căn bản
của toàn thể con người, nhu cầu được yêu, được kết hợp với người khác, được
hiệp nhất nên một với người khác trong chính thân xác của mình.
Con người sống trong thân xác, đó là
một trong những chân lý căn bản của đời sống con người. Con người mang lấy tâm
tính riêng của mình cùng với thân xác và giới tính; con người ước mơ hoàn thành
cuộc đời mình cùng với thân xác và giới tính; con người thể hiện bản thân mình
và muốn khẳng định mình cũng trong thân xác và giới tính. Sẽ là một tâm tình
giả dối, nếu người ta yêu quí ai đó, những chỉ để trong tâm mà không diễn tả ra
bằng việc thăm viếng, trò chuyện, an ủi {khi có điều kiện}; sẽ là ảo tưởng, nếu
ai đó nghĩ rằng tôi thương con cái, nhưng lại chẳng bao giờ thể hiện một sự
quan tâm đích thực bằng chính những hành động cụ thể qua những gì động chạm đến
chính thân xác của mình. Tất cả bản chất con người đều hướng tới sự gặp gỡ; và
mọi thành phần trong con người đều có nhu cầu được gặp gỡ, cả trong những gì
kín ẩn nhất của tâm hồn cũng như thân xác, cả những “chỗ kín” trong thân xác
con người cũng đều hướng tới gặp gỡ. Do đó, thực sự con người khao khát một sự
gặp gỡ trong thân xác.
Thách đố của phái tính trong đời tu
không phải chỉ là những cám dỗ xác thịt, nhưng sâu xa chính là nỗi cô đơn tận
trong thân xác và phái tính của mình; đó chính thách đố của nỗi khát khao được
kết hiệp với ai đó một cách sống động, cụ thể, mãnh liệt trong bản chất căn bản
của một con người, một con người có thân xác và phái tính.
“Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”
{X. Ga 15,1-21}
2.1 “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” {Ga 10,14}
Trong truyền thống rất đẹp và rất
căn bản của Kinh Thánh, mối liên hệ của Chúa với chúng ta và mối liên hệ của
chúng ta với nhau luôn sáng lên nét “ngôi vị”. Chúng ta thấy một sự tiến triển
rõ rệt của bầu khí Tân Ước so với bầu khí Cựu Ước. Trong khi Cựu Ước là giao
ước khắc trên đá, thì Tân Ước lại là Giao Ước lại là giao ước khắc và tâm khảm.
Trong khi Cựu Ước là giao ước đối với dân như một tập thể, được thể hiện trong
lề luật cứng nhắc, bao trùm, thì Tân Ước lại bao gồm, trong mầu nhiệm Giáo Hội,
lời mời gọi gởi đến từng cá nhân[15], để mỗi
người có thể chấp nhận Thánh ý của Thiên Chúa đối với bản thân. Như thế Giao
ước mới có bao hàm một yếu tố mối liên hệ của bản thân đối với Chúa Giêsu, Nếu
như Thiên Chúa đã “phải” hoàn thành lịch sử cứu độ bằng một Giao Ước mới, “Quả
thật, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao
ước thứ hai để thay thế” [Dt 8,7], thì yếu tố bản thân cũng phải là một yếu
tố được tính đến trong đời sống đức Tin Kitô giáo.
Thật sự, tất cả những khúc mắc ở
trên chỉ có thể “lý giải“ được trong đời sống tâm linh, không phải chỉ như
những kỷ luật của đạo đức, nhưng thực sự là mối liên hệ cá vị giữa ta với Chúa
Giêsu, là sức sống của chính Chúa trong bản thân ta. Nói chung đời sống tâm
linh như thế không phải là việc thêm vào, nhưng chính là “giải pháp” cho toàn
bộ cuộc sống con người, dù là sống trong bất kỳ bậc sống hay hoàn cảnh nào.
Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, khai mở Nước Trời và mời gọi mọi người,
để những người có gia đình nhưng không bao giờ có thể hoàn toàn an vui trong
nếp sống gia đình, những người tu sĩ không tìm được trong “thế gian” những mối
liên hệ đáp ứng được khát vọng yêu thương của mình, những người bị loại trừ,
những người bị bỏ rơi, những người thất bại hoàn toàn trong cả hành trình đời
người . . . tất cả mọi người có thể tìm thấy một tình yêu bao la, cụ thể, trọn
vẹn, cá vị từ nơi Ngôi Hai Thiên Chúa làm người.
Có thể nói một cách đơn giản, chiều
kích tâm linh chính là chân trời của cuộc sống con người. Khi người ta chỉ nhìn
thấy sự vật là sự vật, vấn đề tài chính chỉ là vấn đề tài chính, thì tất cả nỗ
lực của ta chỉ ta giải quyết được vấn đề trước mắt. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho
người ta thấy rằng không bao giờ con người có thể giải quyết trọn vẹn vấn đề
chân thực của con người, vấn đề của mình cũng như vấn đề gia đình mình, tình
yêu vợ chồng, tình nghĩa anh chị em. . . Nói như triết gia Gabriel Marcel, hữu
thể là một huyền nhiệm chứ không phải là vấn đề, không bao giờ có thể được giải
quyết rốt ráo.
Ngược lại, khi người sống trong
chiều kích tâm linh, người ta sẽ nhận ra rằng giới hạn, thậm chí bế tắc của
tình trạng hiện tại vẫn được bao bọc trong một thế giới rộng hơn, vẫn có ý
nghĩa trong một chiều kích sâu xa hơn : lỗi lầm cho dù nặng nề đến đâu, sự đổ
vỡ của tình yêu, sự bất lực của con người, nhất là bất lực về người thân của
mình. . . tất cả những bế tắc ấy vẫn có thể hàm chứa niềm hy vọng, vẫn có thể
mở ra một khung trời mới, và vẫn có thể được hoá giải trong một sự thật tâm
linh.
Không có chân trời, mọi hình ảnh đều
trở nên mặt phẳng, không còn độ sâu và không còn diễn tả được khuôn mặt sống
động của “nhân linh ư vạn vật”. Không có chiều kích tâm linh, mọi ứng xử của
con người với thế giới chỉ là một bài toán cân đối giữa lợi ích của tôi và sự
kiện khách quan; ứng xử một cách “hợp lý”, một cách “vật lý” . . . Cách thức ấy
làm cho cuộc đời chỉ còn là những thành công hay thất bại trước mắt, chúng là
những sự kiện rời rạc và vụn vặt một cách nhàm chán
“Xã hội chúng ta hiện nay là một xã
hội nỗ lực truyền bá học thuyết vô thần, một xã hội rất khoái từ ngữ “khoa học”
để dồn tất cả mọi thứ không khoa học vào bao “mê tín”, một xã hội mà tình trạng
văn chương kém cỏi đã trở phổ biến trong mọi cấp giáo dục. . . Chính xã hội ấy
đã tước mất khả năng tâm linh của con người để có thể đối diện với các khủng
hoảng xẩy ra”[16].
Chiều kích tâm linh là một nhu cầu
đích thực của con người; và khi người ta bắt đầu khám phá thấy tính cách giới
hạn của thực tại trần gian, thành công hay thất bại cũng chẳng là điều gì lớn
lao lắm, thì người ta khao khát được bước vào một thế giới mới, trong đó, cuộc
sống con người được nối liền với vĩnh cửu, với một thực tại lớn lao và sâu xa
hơn. Nỗi khát vọng gặp gỡ của con người, thật ra, không được gỉai quyết hoàn
toàn trong những tương giao hằng ngày của con người và người sống tâm linh là
người biết nhận ra cái “nghèo” của phận người để vươn mình thẳng đến tuyệt đối.
Ơn gọi là một từ ngữ diễn tả nét đặc
trưng của linh đạo Kinh Thánh và nhất là linh đạo Kitô giáo. Nói một cách khái
quát, đó là “linh đạo sống với”. Sống là sống với ai khác, với những ngôi vị,
tức là sống với con người, hoặc với các thiên thần, và nhất là sống với Thiên
Chúa. Tiếng gọi không phải là một tiếng hô trông trống, một âm thanh của một
chiếc máy hát hay một dòng chữ trong cuốn sách. Chỉ có lời gọi đich thực của
một Ai đó. “Ai đó” sẵn sàng mở cuộc đời của mình cho “ai khác” bước vào, mở tâm
hồn của mình để đón nhận ai khác; sẵn sàng mở đôi tay để “ôm lấy” ai khác, sẵn
sàng dấn bước để đến cùng ai khác. Tiếng gọi là tiếng của một Ai vừa có khả năng
là chính mình, vừa có khả năng đến với ai khác. Cất tiếng gọi ai khác, tức là
“lôi ai khác” ra khỏi đám đông vô danh, làm cho ai khác thực sự hiện diện đối
với mình, và ai khác ấy trở thành một ngôi vị, có tên, có ý nghĩa; tức là có
giá trị, có tầm quan trọng riêng. Một đời sống như một tiếng gọi tức là một đời
sống thực sự hướng tới ai khác bằng tất cả bản thân, trong tất cả hành trình
cuộc đời mình. Cũng vậy, lời đáp trả chân thực vừa là lời khẳng định bản thân
của mình, vừa bày tỏ thái độ sẵn sàng để đến với Ai đã gọi. Lời đáp trả cũng là
một sự chân nhận tầm quan trọng của Ai gọi và dám mở lòng, mở tay, dấn bước.
“Sống với” là một điều hết sức bình
thường của cuộc sống con người, và có nhiều người và nhiều bậc chính nhân quân
tử đã không bằng lòng được. Nhiều nền văn hoá {Hy lạp chẳng hạn} và tôn giáo
{Phật giáo, Khổng giáo . . .} đã phải tìm ra những nẻo đường khác để có thể
hoàn thiện bản thân con người. Những nẻo đường khác ấy thật là đáng trân trọng.
Tuy nhiên, hệ quả luôn xẩy ra là những nẻo đường ấy lại trở thành nẻo đường
dành riêng cho những người ưu tuyển; nẻo đường mà những người nghèo, những
người bé mọn không thể nào đi được.
Trong Kitô giáo cũng không thiếu cám
dỗ thành đạt, khi mà người ta cũng tưởng rằng đi sống đời sống tâm linh, để có
thể nên thánh, để sống thân tình với Chúa Giêsu, dứt khoát phải đi vào con
đường nội tâm, nghĩa là cần phải có một số điều kiện “cao cấp” mà cuối cùng
những người nghèo, những người bé mọn cũng không thể đạt được.
Đời sống tâm linh trước hết là sống
linh đạo “sống với”, là đáp lại lời mời gọi của Chúa và sẵn sàng đi vào cuộc
gặp gỡ, đối thoại với Chúa. Như một đôi tình nhân quyết định tiến tới hôn nhân,
hai người vẽ ra một tương lai thật đẹp : một tình yêu lý tưởng, những đứa con
ngoan ngoãn, đẹp và giỏi dang, cuộc sống hoà thuận với cha mẹ họ hàng hai bên,
đời sống kinh tế tốt đẹp. . . Nhưng rồi qua năm, mười năm sống đời hôn nhân,
hai người càng ngày càng nhận ra cuộc sống thật khác xa với lý tưởng mà mình vẽ
ra. Tuy nhiên, khi đó, hai người đã có với nhau cả một bề dày nghĩa tình, và
tất cả những khó nhọc, bất toàn trong đời sống đã qua trở thành những gì quí
giá cần phải trân trọng. Thậm chí khi một người mất đi, hoặc đi xa, người ta
lại mong ước có được người vợ/chồng để cãi nhau. Cũng thế, khi sống với Chúa,
người Kitô hữu cũng trải qua những sa ngã, những lúc chán nản, những lúc nhạt
nhẽo. . . Nhưng nhìn lại, người ta sẽ thấy rằng chính quãng thời gian sống với
Chúa như thế đã thực sự là Nước Trời. Nước Trời đã có mặt ở trần gian khi có
Chúa Giêsu, và Nước Trời đã có mặt trong hành trình sống đạo thăng trầm của mỗi
người Kitô hữu. Sống với Chúa trong quá trình lịch sử đời mình, trung thành vời
đời sống ấy đã là một thành đạt của ơn cứu độ.
2.3 Đồng hành với Chúa Giêsu
Chúng ta cũng có thể khám phá những
khía cạnh cụ thể và sống động của đời sống thiêng liêng, trong chiều kích đức
Cậy, dựa theo tiến trình của sự gặp gỡ đời thường : Gặp gỡ là chia sẻ công việc
với nhau; gặp gỡ là biết chiều ý nhau và gặp gỡ là tri ân nhau.
*
Gặp gỡ là chia sẻ công việc với nhau
Trong sứ vụ công khai, sau những lời
giảng với các thính giả chung chung, từ chương năm Tin Mừng Luca, chúng ta thấy
Chúa Giêsu bước vào thuyền đời của Phêrô (X. Lc 5, 1-11). Đó là một cuộc gặp gỡ
đích thực vì nó là bước khởi đầu của một cuộc gặp gỡ mỗi ngày mỗi sâu xa và
trọn vẹn hơn. Từ biến cố này, Phêrô không còn thấy Chúa Giêsu là một ngôn sứ
cho mọi người cách chung chung nữa; Chúa Giêsu dính dáng vào cuộc đời ông, Chúa
Giêsu chia sẻ công việc với Phêrô và mời gọi ông chia sẻ sứ vụ của Ngài. Chúa
Giêsu bước vào thuyền của Phêrô, và cuộc gặp gỡ này không phải chỉ là một cuộc
gặp gỡ qua đường, nhưng là một cuộc gặp gỡ thay đổi cuộc đời. Từ cuộc gặp gỡ
này, Phêrô bỏ mọi sự mà theo Thầy {x. Mt 4,22}, Phêrô tuyên bố “bỏ Thầy chúng
con biết đến với ai“ {Ga 6,68}. Phêrô vui lòng chịu khổ vì Thầy {x. Cv 5,41},
và cuối cùng Phêrô còn hy sinh mạng sống vì Thầy. Đó là một cuộc gặp gỡ đích
thực, vì nó bắt đầu bằng việc chia sẻ công việc của nhau và mở màn cho tiến
trình đi vào lịch sử thăng trầm của nhau, làm nên một lịch sử nghĩa-tình.
*
Gặp gỡ và biết chiều ý nhau
Chuyện tình-nghĩa chỉ khởi đầu
khi người ta biết vượt qua mức lịch sự, vượt qua tiêu chuẩn công bằng để dám
chiều ý nhau. Trước lời đề nghị của Chúa Giêsu: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả
lưới bắt cá”, Phêrô có quyền từ chối, vì ”Chúng tôi đã vất vả suốt đêm
mà không bắt được gì cả!”. Phêrô có quyền từ chối chịu mất mát thêm thì giờ
và công sức, nếu đây chỉ là một chuyện làm ăn, chuyện mua bán, chuyện hơn
thiệt. Thế nhưng, Phêrô đã quyết định cách khác:”dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ
thả lưới”. Lý do quyết định của Phêrô không còn là chuyện thành công hay
thất bại trong công việc, nhưng là khởi đầu của chuyện tình chuyện nghĩa. Dựa
vào Lời Thầy, Phêrô sẵn sàng phiêu lưu. Điều quan trọng không phải chỉ là phiêu
lưu làm ăn nhưng chính là bắt đầu đi vào cuộc phiêu lưu trong mối tương quan
gặp gỡ.
*
Gặp gỡ là tri ân nhau
Phêrô” bắt được nhiều cá đến nỗi hầu
như rách cả lưới”. Tuy nhiên, Phêrô không dừng lại ở chuyện cá mú, chuyện lời
lỗ, hơn thiệt, vì sau đó ông”bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Mẻ cá lạ lùng ấy làm
cho hầu như lưới cá của ông muốn rách; nó vượt qua lãnh vực kinh tế để mở bung
vào lãnh vực tình nghĩa,”Lạy Chúa,.. .. con là kẻ tội lỗi”.
Chỉ trên bình diện tình thương,
người ta mới nhận ra điều thiếu sót của mình. Chỉ khi đón nhận tình thương chân
chính, người ta thấy mình mắc nợ nhau trong tình tương thân tương ái.”Ai đem
hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể”,
sách Diễm Ca (Dc 8,7) nói với chúng ta như thế. Không thể lấy bất cứ điều gì để
mua lấy tình thương, nghĩa là không một điều gì có đủ giá trị để đổi lấy tình
thương; và thái độ chân chính nhất là trong tình thương luôn luôn là nhìn nhận
“món nợ tương thân tương ái” như Thánh Phaolô đã nói {x. Rm 13,8}. Con là
kẻ tội lỗi”, câu nói ấy cho thấy cõi lòng Phêrô đã được mở bung ra trong lãnh
vực tình thương.
Từ lãnh vực của trao đổi theo lẽ
công bằng đến lãnh vực nghĩa-tình, bước sang giai đoạn tình-nghĩa là cả một
bước nhảy; rồi từ giai đoạn nghĩa-tình, bước sang giai đoạntình-nghĩa, cho đến
giai đoạn của tâm tình tri ân lại là cả một hành trình dài. Đó chính là hành
trình chân chính của đời sống tâm linh Kitô giáo.
2.4 Đối thoại với Chúa Giêsu
Một khía cạnh khác trong đời sống
tâm linh, đó là khía cạnh đức Mến, tạm diễn tả như là một cuộc “đối thoại” thân
tình với Chúa Giêsu, với ba nét đặc trưng của đời sống con người :
*
Lãnh nhận : không như các con vật khác, mà tất cả những điều chính yếu trong
bản chất của chúng đã gồm gói trong bản năng và chỉ cần một chút điều kiện tối
thiểu để có thể hoàn thành cá thể của chúng, con người là sinh vật lãnh nhận;
nghĩa là nếu không lãnh nhận tiếng nói, văn hoá, và tầm hồn của người khác, của
xã hội, con người không sống được như một con người. Những phẩm tính làm cho
con người thực sự sống xứng đáng như một con người đều phải nhờ vào xã hội con
người.
Cũng thế và hơn thế nữa, con người
được lãnh nhận từ Thiên Chúa ngay trong chính bản thân của mình và nơi tất cả
mọi sự trong hành trình của đời sống con người. Đời sống tâm linh không phải là
một điều gì thêm vào, nhưng trước tiên đó là chính hồng ân của Thiên Chúa trong
bản thân của mỗi con người. Sống trọn vẹn đời sống con người như một hồng ân
được lãnh nhận, như một lời đáp trả với lòng tri ân, đó là điều căn bản của đời
sống tâm linh.
Đó cũng là nền tảng của tâm tình
khiêm tốn, vì khiêm tốn trước hết là sống đúng với thực tại của mình :
“Bạn
có gì mà bạn đã không nhận lãnh ? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” {1Cr 4,7}
*
Sáng tạo : Tuy nhiên, con người không phải chỉ là một bản sao của xã hội hay
của một người nào khác, mỗi con người có cứu cánh nơi chính bản thân mình,
không được dùng con người như một phương tiện cho bất cứ điều gì. Mỗi con người
là một “tác phẩm nghệ thuật” có tính chất tuyệt đối, nghĩa là không thể bị thay
thế bằng bất cứ một điều hay một ai khác.
“
. . . con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính
họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến thân” {MV 24c}
Quả thật, con người lãnh nhận nhưng
không lãnh nhận như một kẻ thụ động hoặc như một hệ quả hoàn toàn của hoàn
cảnh, của xã hội. Con người lãnh nhận và có khả năng sáng tạo để tạo cho bản
thân mình có một nét đẹp riêng biệt. Như thế, bất cứ điều gì có nguy cơ đúc
khuôn, có nguy cơ đoàn lũ hoá, có nguy cơ đồng nhất một con người với bất cứ
điều gì khác đều là phi nhân.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người từ
hư vô và con người trở thành vĩnh cửu với tất cả “cá tính”, với tất cả hình hài
của mình. Con người không hoà nhập với Thiên Chúa theo kiểu tan biến vào trong
Ngài, nhưng như một cuộc đối thoại với những nét biến tấu bất ngờ và độc đáo.
Như thế, mối tương quan với Thiên
Chúa chẳng những không huỷ diệt bản thân mỗi người nhưng phải có khả năng làm
cho con người, mỗi cá nhân con người được sống và được sống phong phú hơn.
Chúng ta nhận thấy điều này trong nhiệm cục cứu độ : Thiên Chúa chờ đợi con
người tự do và tự nguyện đến với Ngài trong một lịch sử dài đăng đẳng và Ngài
vẫn tiếp tục chờ đợi một cách kiên nhẫn.
*
Trao ban : Tuy vậy, mục tiêu của cuộc sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa không
dừng lại ở những cá thể độc đáo, rời rạc; mà tạo nên một sự hiệp nhất sâu xa
của con người với nhau và với Thiên Chúa.
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho
những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và
con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha
đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ
được nên một như chúng ta là một : Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ
được hoàn toàn nên một ; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con
và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. {Ga 17, 20-23}
Sự hiệp nhất này được thực hiện bằng
việc trao ban, và trao ban trong ý nghĩa trọn vẹn chính là trao ban chính bản
thân bản thân của mình. Chính vì vậy, Công đồng đã nói “con người, . . . chỉ
có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến thân” {MV 24c}.
2.5. Thần khí nghĩa tử
Khái niệm ngôi vị cho chúng ta thấy con
người, giống như Thiên Chúa, là một hữu thể có lý trí, có sự do, có sự chủ động
của chính mình. Do đó, con người, cũng như Thiên Chúa, chỉ có thể hoàn thành
vận mạng của mình khi biết sống bản thân mình như một người làm chủ lý trí và
tự do của mình.
Cũng như sự hiệp nhất của Ba Ngôi,
được mạc khải trong lịch sử cứu độ, có tính chất ngôi vị, thì việc con người
hiệp nhất với Thiên Chúa cũng phải mang những tính chất của ngôi vị con người.
Như thế, cách thức đi vào sự hiệp thông, hiệp nhất với Thiên Chúa, đỉnh cao của
đời sống tâm linh không là gì khác hơn thái độ tự do, tự nguyện dâng tặng chính
bản thân của mình, bản thân đã được lãnh nhận trong lòng tri ân và đã được sáng
tạo như một ngôi vị độc đáo, đồng thời cũng được đón nhận chính bản thân của Thiên
Chúa. Nhu cầu sống với ngôi vị của mình là một nhu cầu đích thực và chính đang
của con người; mọi người và mỗi người đều không muốn mình chỉ là môt con số,
một hình bóng của ai khác, nhưng muốn bộc lộ bản thân, được đón nhận như chính
mình và cũng cần đón nhận người khác như một “cá tính” cụ thể.
Chính từ khía cạnh ngôi vị mà chúng
ta có thể hiểu được ý nghĩa sự hiệp nhất trong truyền thống Kinh Thánh, và sự
hiệp nhất Kitô giáo :
“Hơn nữa, khi cầu nguyện với Chúa Cha : “xin cho mọi người
nên một . . . như chúng ta là một” {Ga 17,21-22}, Chúa Giêsu mở ra những viễn
tượng mà lý trí con người không thể tự đạt tới được. Như vậy Chúa Giêsu đã nói
lên một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba ngôi Thiên Chúa với sự kết
hợp của các con cái Chúa trong chân lý và đức ái” {MV 24,c}
Mầu nhiệm ấy đạt đến cùng đích khi
con người được trở nên con cái Thiên Chúa trong đức Giêsu Kitô.
“Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều
là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến
anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em
nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : "Áp-ba ! Cha ơi !" Chính
Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là
đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ
cùng được hưởng vinh quang với Người.{Rm 8,14-17}
VI. Cuộc sống hằng ngày
1. Những cái lẩm cẩm của cuộc đời
1.1 Lối mòn của cuộc sống
Triết học hiện đại cho thấy con
người là hữu thể có nghĩa vụ thực hiện vận mạng của mình trong dòng thời gian.
Do đó, thời gian giống như một thứ chất thử nghiệm để biết đâu là “đồ dzin”,
đâu là “đồ dzổm”. Những gì mau bốc nhưng chóng tàn đều là một thứ “sản phẩm”
không nó nền tảng vững chắc, không có thực chất, không gắn liền và sâu xa trong
thực chất con người.
Trong
hành trình cuộc đời, có những cảm nhận mới lạ nhưng chẳng có khả năng khơi dậy
một sức sống hay mở ra một hành trình mới, đó chỉ là một thứ hứng khởi vụn vặt,
chóng tàn. Có những người chỉ luôn sống với những cảm hứng và không bao giờ tìm
được một nguồn mạch đích thực mang lại sức sống cho cuộc đời. Khi đó, cảm hứng
càng xa thì nỗ lực dấn thân lại càng nhàm chán, càng buồn tẻ, càng bớt hăng
say; khi đó, cảm hứng dần dà chỉ còn là một kỷ niệm hay hay chứ không trở thành
ấn dấu ghi khắc một chặng đường trong lịch sử cuộc đời mình. Ngược lại, nếu
sống đời sống của mình với một nguồn mạch đích thực, người ta luôn có thể kín
múc những sinh lực cần thiết để tiến bước trên con đường thực hiện vận mạng của
đời mình.
Kierkegaard, ông tổ của triết học
hiện sinh kể chuyện về một người thích đi dụ dỗ con gái, một anh chàng tài tử
theo kiểu Don Juan. Loại người này bị thúc đẩy do một thứ dục vọng luôn muốn
tìm của lạ, thích thay đổi luôn và không bao giờ thỏa mãn trong những thú vui
của mình. Kiểu sống đó khiến chàng luôn chạy đuổi theo đủ thứ tình yêu. Chàng
không muốn dừng lại được vì không có khả năng lựa chọn. Anh ta không lập gia
đình vì không trung thành được với mối tình nào; anh ta kéo dài cuộc sống độc
thân vì cứ phải chờ đợi một điều gì khác. Cuộc đời mãi là một cuộc tìm kiếm
nhưng không biết mình tìm kiếm cái gì. Đúng hơn, anh ta luôn đi tìm cảm giác
lạ, những cảm giác chóng qua vì không tìm thấy được một giá trị nào vững bền.
Kierkegaard gọi đó tình trạng của những người “hiếu mỹ”. Cuộc sống của người
hiếu mỹ chỉ gắn vào những cái chốc lát nên trở nên phù phiếm; cứ luôn phải tìm
kiếm vô vọng nên mệt mỏi; luôn muốn thụ hưởng nên càng nghèo nàn; luôn muốn lấp
đầy tâm hồn mình bằng những cái khác nên chẳng bao giờ gặp được một gía trị lâu
bền nào chứ đứng nói cho đến giá trị vĩnh cửu. Anh ta trở thành nạn nhân của
cái chốc lát, bị chi phối hoàn toàn do ngoại cảnh và do đó luôn cảm thấy trống
rỗng.
Thái độ ấy tất nhiên phải dẫn con
người đến tình trạng buồn chán; buồn chán vì không tìm gặp được chính mình
trong những thay đổi không ngừng, như một người mệt mỏi sau một quãng đường dài
mà không tìm được đường về quê nhà. Ông diễn tả tình trạng đó như sau :
"Tự nguyên
thủy đã có buồn chán. Vì buồn chán, chư thần đã sáng tạo nên con người. Rồi từ
Adam, nguyên tổ chúng ta cũng buồn chán vì cô đơn, cho nên bà Eva được tác tạo.
Rồi tự đó, cùng với sự phát triển của loài người, buồn chán cũng phát triển và
lan tràn khắp thế giới. Adam một mình đã buồn chán. Khi Adam ở với Eva, thì hai
mình cùng buồn chán; khi có thêm hai con là Cain và Abel, thì cả gia đình cùng
buồn chán, và khi có cả một loài người đông đúc, thì cả lũ người cũng buồn chán"[17].
Và cuối cùng thì anh chàng Don Juan
đó sa vào tuyệt vọng. Tuyệt vọng phát sinh từ chỗ không thể nào vượt qua được
chướng ngại, tức không thể nào thỏa mãn được cái khao khát tuyệt đối ở trong
những cái tương đối, không thể nào thấy được một giá trị đích thực trong những
cái chóng qua. Có không ít tu sĩ cũng, sống lâu trong đời tu, cũng rơi vào tình
trạng giống như thế.
1.2 Nhu cầu có của cải vật chất
Con người có thân xác, nên cũng cần
có của cải vật chất để bảo đảm cho cuộc sống của mình. Con người thường muốn
tìm sự an toàn cho bản thân mình bằng cách tiêu diệt sự xa lạ của thế giới xung
quanh, và cách thức bình thường để tiêu diệt tính cách xa lạ ấy chính là chiến
hữu của cải. Một cuộc sống không có của cải là một cuộc sống bấp bênh, khó có
thể bảo đảm tương lai và cuộc sống ấy tạo nên nhiễu nỗi lo. Do đó, những lo
lắng chiến hữu của cải nhiều khi trở thành nỗi đe doạ khiến cho con người đánh
liều đổi luôn cả tình thân nghĩa thiết để chiếm hữu được của cải.
Mặt khác, niềm vui “có của” chắc
chắn cũng làm thoả mãn phần nào nhu cầu khẳng định bản thân và thoả mãn khát
vọng thống trị của con người. Con người hình thành bản thân mình bằng một quá
trình khó khăn, vi nhân nan, nghĩa là con người có nhu cầu khẳng định bản thân
mình bằng một số “thành công” nào đó bằng một , bình thường nhiệm vụ khẳng định, hay đúng hơn và đó là một nhu cầu chính đáng. Thiên Chúa
đã trao cho con người nhiệm vụ cai quản vũ trụ và một cách làm dịu đi khát
Trong sắc lệnh về đào tạo linh mục,
về đời sống độc thân linh mục, Công đồng Vatican II nói rằng :
“Các chủng sinh
phải hiểu biết đúng mức về những bổn phận và phẩm giá của hôn nhân công giáo,
biểu tượng tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội {X. Ep 5,22-33}; đàng khác, họ
cũng phải thấu hiểu nét ưu việt của đức trinh khiết dâng hiến cho Chúa Kitô, để
vì thế tận hiến trọn hồn xác cho Chúa bằng một quyết định đã được cân nhắc chín
chắn và đại lượng” {S. 10b}.
Chỉ dẫn ấy có lẽ cho thấy một đường hướng khác
biệt với lối tu đức cũ. Thay vì khinh chê một cách giả tạo đời sống hôn nhân để
“dụ dỗ” người chủng linh chọn đời sống độc thân, thì phải ý thức giá trị của
đời sống hôn nhân để chọn lựa đời sống độc thân một cách chín chắn và đại
lượng.
Đường hướng đó có thể giúp chúng ta
hiểu về nhiều khía cạnh khác, và ở đây, đường hướng đó có thể soi sáng cho
chung ta ít nhiều về cách sống đời sống khó nghèo. Khó nghèo không có nghĩa là
khinh chê của cải, và khó nghèo cũng không có nghĩa là càng bớt dính dáng đến
vấn đề của cải bao nhiêu càng tốt. Khó nghèo là làm chủ của cải, và không coi của
cải là phương cách giải quyết cuộc đời của mình.
Mặt khác, quan niệm về đức khó nghèo
trước đây được thể hiển chủ yếu bằng cách không sở hữu của cải {của cải thuộc
về nhà dòng và khi sử dụng phải xin phép}. Ngày nay người ta nhận thấy quan
niệm ấy nặng tính luật pháp và hình thức; và nhiều khi người ta có thể hợp pháp
hoá việc sử dụng của cải một cách nô lệ, miễn là “xin được phép” của bề trên.
Quan niệm khó nghèo hiện nay nhấn mạnh tới nhiều chiều kích khác có tính “nội
tâm” hơn, hoặc có tính ngôi vị hơn và theo tinh thần Tin Mừng hơn :
-
Chia sẻ và liên đới : Biết chia sẻ phương tiện vật chất và tinh thần với anh
em, đây là dấu chứng của một tinh thần nghèo khó đích thực. Khi ta đón nhận
tiền bạc, của cải như những hồng ân của Chúa, thì ta sẽ biết sử dụng chúng để
thực hiện chương trình của Chúa và của cộng đoàn. Liên đới, biết chia sẻ, cả
trong lãnh vực cá nhân cũng như trong lãnh vực cộng đoàn, chính là một dấu
chứng của thái độ "làm chủ của cải" cũng như tinh thần tự do của con
cái Chúa.
-
Dám chấp nhận sống bấp bênh : Sống khó nghèo cũng có nghĩa là sống bấp bênh,
bấp bênh vì không dựa vào một sự bảo đảm của những phương tiện vật chất. Niềm
tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được diễn tả trong niềm xác tín rằng thực
tại trần gian, tuy là tốt, nhưng lại luôn có giới hạn, những giới hạn căn bản
vì tính tương đối căn bản của chúng. Người tu sĩ sống nghèo khó có nghĩa là
muốn đi vào kinh nghiệm về sự bấp bênh, chấp nhận sự bấp bênh của thực tại trần
gian để làm chứng về một nền tảng vững chắc khác với thực tại trần gian.
-
Công nhận giá trị huyền nhiệm của cuộc đời : trong khi những suy tư triết học
hiện đại, nói chung, đã vượt qua thái độ thực nghiệm, nghĩa là không coi đời
sống con người chỉ là những chỉ số đo đạc thành công theo tiêu chuẩn của xã hội,
thì một mặt khác, nền kinh tế thị trường cũng như những diễn biến thực tế trong
cuộc sống hiện nay lại luôn muốn thuyết phục con người đặt tầm quan trọng thiết
yếu vào những phương tiện vật chất. Đó là một mâu thuẫn lớn của xã hội hiện
đại. Niềm tin cho chúng ta thâm tín vào mầu nhiệm con người vượt qua những
thành quả kinh tế và dịch vụ xã hội. Niềm tin nhắc nhủ chúng ta không được giản
lược nhu cầu thâm sâu của con người, "nhu cầu Thiên Chúa" vào những
giải pháp của kinh tế hoặc khoa học kỹ thuật.
-
Con người tự do : Chúa dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng, niềm xác tín
ấy sẽ không đóng khung cuộc đời chúng ta trong của cải của mình, trong những
vật dụng của mình, nhưng đưa vị trí của chúng ta lên hàng con cái Chúa và làm
chủ của cải như một người con tự do của Thiên Chúa. Chỉ khi con người hiểu và
sống được ý nghĩa thần học căn bản của sự vật trần gian : của cải Chúa ban cho
chung con người và nhằm mưu lợi ích chung, chỉ khi ấy, người ta mới có thể có
được sự tự do đối với của cải trần gian và sử dụng chúng để tạo nên tình thân
con người với nhau như những người anh em con của một Cha trên trời.
Nói cho cùng, đức nghèo cũng chỉ là
một đường lối tinh thần nhằm giúp người tu sĩ tìm lại đời sống công chính chân
thật trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô mà thôi.
Phải chăng việc sống lời khấn khó
nghèo theo kiểu “cũ”, nghĩa là càng ít đụng đến của cải và kinh chê của cải một
cách giả tạo càng làm cho người tu sĩ mất đi một sự lựa chọn “chín chắn và đại
lượng” ?
1.3 kinh nguyện và phượng tự đều đặn
Có lẽ, khi đi vào đời sống tu trì,
người tu sĩ nào cũng mong ước mình sẽ trở thành một tu sĩ đạo đức, thánh thiện,
có lẽ tu sĩ nào cũng nhiều lần, qua các lần tĩnh tâm chẳng hạn, mong ước mình
có một đời sống tâm linh phong phú.
Thế nhưng trải qua những năm tháng
trong đời tu, mọi sự đều trở quen thuộc, thậm chí nhàm chán. Sức bào mòn của
thời gian, cái đều đặn của thời khoá biểu hình như có khả năng, âm thầm nhưng
mãnh liệt, nhận chìm tất cả những khát khao, những mong ước thánh thiện của
thuở ban đầu, hoặc của một vài dịp sốt sắng trong cuộc đời.
Hơn nữa, nề nếp nhà dòng đòi buộc
chúng ta trung thành với kỷ luật của đời sống kinh nguyện và phượng tự, bất kể
là lòng chúng ta có sốt sắng hay không. Điều đó sẽ thật tốt đẹp xét như một sự
nhẫn nại nung nấu lòng khao khát; nhưng điều đó cũng có thể đưa đến những kết
quả tiêu cực :
-
người tu sĩ quen dần với những ngày tháng kinh nguyện khô khan và lấy làm bình
thường; việc kinh nguyện lấy lệ, việc tham dự bí tích lấy lệ có thể làm chúng
ta mất đi hoặc ít còn cảm thấy áy náy, khao khát, trăn trở trên hành trình của
đời sống tâm linh.
-
kỷ luật về đời sống kinh nguyện của đời sống tu trì đưa ta vào một thứ “đạo
sinh hoạt”, nghĩa là có khi người tu sĩ chỉ còn thấy mình có “đạo đức” hay
không khi tự xét xem mình có đọc kinh đủ hay không, tham dự đủ các giờ phụng vụ
hay không.
-
Thứ đạo sinh hoạt ấy, như tình trạng chung của đời sống phượng tự trong Giáo
hội Việt Nam, khiến cho người tu sĩ quen đến với Chúa trong một thứ công thức
chung. Có thể có những tu sĩ, giống như người nhiều giáo dân, biết đọc kinh
nhưng không biết cầu nguyện, biết thưa và hát trong thánh lễ, nhưng không biết
đối thoại và phó thác cuộc đời riêng tư của mình cho Chúa.
Như thế, giờ giấc của đời sống kinh
nguyện và phụng tự chung có chiếm “hết” thời gian, chiếm hết ưu tư, và có thể
cũng chiếm cả khả năng sáng tạo của bản thân của mình trong “cuộc chơi” với
Chúa. Nói cách khác, cái nguy của kinh nguyện và phượng tự đều đặn không phải
chỉ ở chỗ tạo nên sự nhàm chán, nhưng còn ở chỗ nó đánh mất chiều kích tương
quan ngôi vị trong “cuộc chơi” với Chúa. Kinh nguyện và phượng tự ấy dần dần xa
rời cuộc sống thường ngày và trở nên một dị vật trong thời biểu sinh hoạt; xa
rời những nét độc đáo riêng tư của mỗi người và cũng trở nên một dị vật trong
tâm tư của tu sĩ.
Dĩ nhiên, không ai có chối bỏ giá
trị của kinh nguyện chung, nhất là giá trị cộng đoàn của phụng tự bí tích.
Phụng tự và đời sống tâm linh Kitô giáo chỉ trọn vẹn ý nghĩa trong sự hiệp
thông với Giáo Hội. Đỉnh cao của việc thờ phượng cũng như của đời sống tâm linh
là sự hiệp nhất với nhau trong phụng vụ và kinh nguyện. Tuy nhiên, cũng phải
nói rằng sự hiệp nhất ấy chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi mỗi người đến với cộng đoàn,
đến với phụng tự của Giáo Hội với tất cả ý thức và tự do của mình, chứ không
phải là một sự hiệp nhất “phần xác” mà thôi.
Thật ra, theo tôi, nữ tu và người
giáo dân có thể mạnh dạn hơn để sáng tạo ra những phương cách thích hợp với
hoàn cảnh riêng của mình hơn là dựa theo khuôn khổ của hàng giáo sĩ, theo như
qui định của Giáo luật.
2. Khi Ông Chủ đi xa
“Rồi Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này :
"Có người kia trồng được một vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi
xa một thời gian khá lâu”.{Lc 20, 9-19}
2.1 Trung tín và Nhẫn nại
Đối với tinh thần của Kinh Thánh,
thái độ sống nhân bản chính là nhìn ra đằng sau mọi sự việc, mọi hoạt động của
mình, sự hiện diện của một ai khác, một ngôi vị. Sống nhân bản tức là ăn uống,
ngủ nghỉ, làm việc, học hành . . . vì một ai khác chứ không phải vì chính mình
hoặc vì sự vật. Đó là đặt tất cả cuộc đời mình vào trong mối tương quan ngôi
vị, được diễn tả qua những sự vật và hoạt động. Đánh mất mối tương quan ấy, con
người chỉ còn biết “chơi tay đôi” với sự vật và sa vào hàng sự vật. Mặt khác,
thái độ phi nhân cũng thể hiện ở chỗ người ta làm việc vì người khác như một kẻ
nô lệ, thức là không có mối tương quan với ai khác một cách tự do và phong phú,
nhưng nô lệ ông chủ, và do đó cũng nô lệ công việc do ông chủ bắt buộc.
Trong đời sống tâm linh, sự hiện
diện của ai khác đằng sau mọi sự như thế chính là Chúa. Chính vì thế, đức tính
căn bản của niềm tin trong Kinh Thánh chính là sự trung tín. Trung tín với Chúa
trong mọi sự, mọi nơi và mọi lúc. Lòng trung tín ấy được thể hiện trong hiện
tình cuộc sống của chúng ta, giai đoạn cánh chung, chính là một sự trung tín
khi “ông chủ” đi xa.
Triết gia G. Marcel nói rằng con
người không dấn thân vì sự vật, mà cũng không dấn thân vì chính mình; chỉ có sự
dấn thân chân chính khi dấn thân vì ai khác. Sự trung tín Kitô giáo không là gì
khác hơn một sự dấn thân vì Chúa, luôn nhớ rằng mình là đầy tớ trung tín của
Chúa, luôn “coi sóc gia nhân” và “cấp phát lương thực” như thể hiện một cuộc
đối thoại và trông cậy nơi Chúa của mình :
"Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan
mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ
đúng lúc ? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. Thầy
bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng
nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng : "Còn lâu chủ ta mới về", thế rồi
hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, chủ của
tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ
loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình : ở đó, người ta sẽ phải
khóc lóc nghiến răng." {Mt 24,5-45-51}
Bởi vì “ông chủ đi xa”, người Kitô
hữu tin tưởng sẽ phải thể hiện lòng trung tín của mình một cách nhẫn nại :
"Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải
khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em ; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì
danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét
nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác
gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí
đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” {Mt 24,9-12}.
Nhẫn nại là một đức tính cần thiết
gắn liền với sự trung tín, bởi vì tình trạng của Giáo Hội trong hiện tại là
tình trạng “ông chủ đi xa”.
2.2 Sáng tạo cuộc đời như một nghệ thuật
Thái độ thụ động của người đầy tớ,
thật ra, xuất phát từ tinh thần nô lệ. Động lực làm việc của người nô lệ chính
là sự ép buộc của phía ông chủ. Do đó, người nô lệ làm việc như một gánh nặng
bị ép buộc và trở thành nô lệ của chính công việc. Thái độ đó bộc lộ một thái
độ “bị”, “chịu” trong mọi sinh hoạt của mình và đánh mất khả năng sáng tạo.
Trong khi đó, con người tự do nhận
ra mình làm chủ sự vật và công việc, có khả năng sáng tạo trong công việc và
sáng tạo chính cuộc đời mình để dâng tặng một cách tự nguyện, dâng tặng cho cha
mình như một người con tự do.
"Sau khi lãnh
nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao
bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. Người thứ nhất đến
trình : 'Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.' Ông bảo người
ấy : 'Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ,
thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.' Người thứ hai đến trình : 'Thưa ngài,
nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.' Ông cũng bảo người ấy : 'Anh cũng
vậy, anh hãy cai trị năm thành.'
Rồi người thứ ba đến trình : 'Thưa ngài, nén bạc của ngài
đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái
không gửi, gặt cái không gieo.' Ông nói : 'Hỡi đầy tớ tồi tệ ! Tôi cứ lời miệng
anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái
không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng ? Có vậy, khi tôi
đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ !' Rồi ông bảo những người đứng đó
: 'Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.' Họ thưa ông : 'Thưa
ngài, anh ấy có mười nén rồi !' -'Tôi nói cho các anh hay : phàm ai đã có, thì
sẽ được cho thêm ; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.
' {Lc 19, 15-26}
Niềm tin chính thực và phong phú bao
giờ cũng giúp con người sống hiên ngang và có khả năng sáng tạo cuộc đời mình.
Sáng tạo, đó chính là niềm vui lớn lao nhất cuộc cuộc sống con người; và trong
niềm tin, chính hồng ân được làm con Thiên Chúa giúp người tín hữu hiên ngang
trước mọi sự vật và mọi sự việc của trần gian, làm chủ chúng chứ không nô lệ
chúng, khuất phục chúng để phụng sự cho tình yêu chân chân, để diễn tả lòng
trung tín với Ai Khác. Sáng tạo làm cho cuộc sống con người vượt thắng được sự nhàm
chán và sa đoạ.
Một lần nữa, chúng ta thấy rằng hồng
ân làm con Thiên Chúa không phải là một yếu tố thêm vào, có thì tốt mà không có
thì cũng chẳng sao, miễn là được rỗi linh hồn. Hồng ân được là con chứ không
phải là nô lệ, hồng ân ấy chính là sống “Thần Khí Nghĩa Tử” để có thể làm cho
cuộc đời không còn là một gánh nặng chịu vậy, nhưng là một cuộc chơi phong phú,
vui thích. Chỉ có Thần Khí Nghĩa Tử mới có thể mang lại hồn sống cho cuộc đời
người Kitô hữu nói chung và nhất là cuộc đời tu trì.
2.3 Ướm cuộc đời vào ngày Chung cuộc
Đời sống tu trì là “sống trước” thực
tại Cánh chung. Đó là một cách sống bao hàm trong chính bản thân nó một sự so
le. Người tu sĩ vẫn sống trong cuộc đời này, sống với tất cả những nhu cầu,
những đòi hỏi của cuộc sống này, nhưng lại “phải” theo tinh thần của một cuộc
sống khác, sống những phương thức của cuộc sống khác. Đó là mối giằng co căn
bản trong cuộc sống tu trì.
Thật ra, cách sống đó cũng chính là
ý nghĩa căn bản của đời sống Giáo Hội. Giáo Hội Chúa Kitô là dấu chỉ Nước Trời
cho trần gian. Mặc dù vẫn còn những yếu đuối, soi sót, bất toàn, nhưng Giáo Hội
vẫn luôn muốn thể hiện sự hiện diện của mình như một lời nhắc nhớ, như một lời
kêu gọi, như một chứng tá cho cuộc sống Nước Trời trọn vẹn hơn. Công đồng
Vatican II đã diễn tả ý nghĩa đó trong “công thức” “Bí tích Nước Trời”.
“Khi trao đổi với thế giới những sự giúp đỡ hỗ tương, giáo
Hội nhằm một mục đích duy nhất là : làm cho Nước Chúa trị đến và toàn thể nhân
loại được cứu rỗi. Mọi lợi ích mà Dân Chúa trong thời gian hành trình tại thế
có thể đem lại cho gia đình nhân loại đều phát xuất từ sự kiện này : Giáo Hội
là “bí tích phổ quát cứu rỗi”, tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu
Thiên Chúa đối với con người” {MV 45}
Từ ngữ “bí tích” cho chúng ta thấy
một khía cạnh mầu nhiệm của niềm tin, có thể nói một cách tổng quát là : bí
tích là sự hiện diện thực sự của Nước Chúa trong những dấu chỉ bề ngoài của
trần gian. Nói cách khác, Nước Trời không chỉ sẽ hiện diện trong tương lai,
nhưng đã đang có mặt.
Cũng thế, đời sống tu trì bộc lộ
trong nếp sống của mình sự hiện diện của Nước Trời một cách “bí tích”. Để trong
tính cách bí tích sâu xa ấy, có thể “nối lại” tính cách so le bên ngoài của nếp
sống, người tu sĩ cần có khả năng “ướm”.
Tạm diễn tả khái niệm “ướm” như sau
: Ướm tức là vẫn có một “quãng cách”, nhưng vẫn có sự “ráp nối”. Ướm tức là nỗ
lực đề cao tính cách “liên tục” để ráp nối thay vì bị chi phối bởi tính cách
“đứt quãng”. Ướm tức là cử hành cuộc đời này như chính sự vận hành của Nước
Trời.
Một cách cụ thể, khi cử hành bí
tích, nghĩa là ta ướm cuộc trần gian vào cuộc tử nạn và Phục Sinh của Đức Kitô;
khi cử hành bí tích Sám Hối, nghĩa là ướm những lỗi lầm và lòng sám hối của
người tín hữu vào mầu nhiệm tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô, để cho người tín hữu
sống chính cuộc đời của Chúa trong cuộc đời mình.
Nếu trách nhiệm của giới giáo sĩ là
cử hành bí tích, thì trách nhiệm của người tu sĩ chính là diễn tả, hoặc cử hành
cuộc tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô bằng nếp sống của mình, bằng sự hiện diện
của mình. Khi đó, người tu sĩ cũng ướm những cái lẩm cẩm của cuộc đời vào cuộc
Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô. Người tu sĩ “cử hành” mầu nhiệm Nước Trời trong
nếp sống trần gian của mình và biến cuộc sống trần gian ấy thành một bí tích
Nước Trời.
Như thế, đối với một tu sĩ, một niềm
vui không chỉ là cảm giác thoải mái, nhưng là nhận ra Nước Trời lại bộc lộ ở
đây; một nỗi đau không chỉ là nỗi đau, nhưng là Chúa Kitô đang tử nạn như một
tình yêu lớn lao, tình yêu trao ban chính mạng sống của mình cho bạn hữu; một bữa
ăn không chỉ là các món ăn ngon hay dở, nhưng là sự xum họp của những người con
cái Chúa trong niền vui tham dự bàn tiệc Nước Trời đã bắt đầu ở đây rồi.
VII. Đức Ái
1. Giới hạn của tình yêu con người
1.1 tình yêu con người không thể vừa hết mình vừa toàn diện
Đứng trước lời mời gọi của tình yêu,
con người thường có hai giải pháp : một là dấn thân, chọn lấy người mình yêu
hơn hết và hết mình lo lắng, sống chết với những người của mình ấy; giải pháp
khác là, như người ta vẫn hiểu, “mở rộng con tim”, mở rộng tâm hồn để đón nhận
mọi người, phục vụ mọi người mà không có một gia đình riêng cho bản thân mình.
Dĩ nhiên là đường lối nào cũng tốt,
tùy vào ơn Chúa gọi đối với mỗi người. Nhưng cần phải nói rằng đường nào cũng
có nguy cơ phản lại lời mời gọi của tình yêu chân chính.
Một đàng lại là thái độ chọn lấy
những người thân cụ thể của mình, để rồi cứ dần dần đóng kín tâm hồn trong thế
giới nhỏ bé, giới hạn con tim trong những người “của mình” mà thôi.
Đàng khác thì không có gia đình
riêng để rồi sống thái độ dửng dưng, chẳng biết hoặc ít khi có khả năng đau nỗi
đau của những ai sống cả đời trong sự liên luỵ trách nhiệm với những người thân
của mình.
Một đàng là một thứ tình yêu giới
hạn, tình yêu có nhiều nguy cơ loại trừ một số người khác và biến hoá thành một
thứ tự yêu mình một cách ích kỷ. . . không còn khả năng mở rộng tâm hồn, không
còn nhạy bén để biết hiệp thông, không còn đủ quảng đại để chia sẻ với những
người đau khổ chung quanh.
Đàng khác lại là nguy cơ biến thành
thái độ không dấn thân, không liên luỵ, và đó là một thứ tình yêu nửa vời; và
rồi cũng sẽ lựa chọn cho mình một giới hạn vừa với con tim nhỏ bé của mình :
cộng đoàn của mình, dòng tu của mình, giáo xứ của mình, để rồi vui vầy với
những gì là của mình, và rồi cứ “hồn nhiên” , rồi “thanh thản” đòi hỏi, lên án,
người khác. . .
Thứ tình yêu chiếm hữu thì đưa đến
chuyện ghen tương và nhiều khi tạt axít cho người tình và đối thủ của mình,
hoặc là bóc lột người khác, gian dối của người khác để vun đắp cho những người
thân của mình. Làm gì có thức tình yêu chân chính mà lại như thế, ác độc để yêu
thương. . .
Còn thứ tình yêu lửng lơ thì chắc
chắn sẽ dần dần biến đổi tâm hồn người tu sĩ thành lạnh lùng, thành nguyên tắc,
thành thái độ quản trị chứ không phải thái độ mục tử. Rồi đến lúc nào đó, có
thể có người sẽ nói về kiểu yêu thương của linh mục tu sĩ rằng : yêu thương khỉ
gió gì mấy người đó, đối xử với gíao dân như thế . . . !
Âu thì chẳng qua đó cũng là mâu
thuẫn nội tại trong chính tình yêu thương của con người, mâu thuẫn do trái tim
nhỏ bé và yếu ớt của con người; mâu thuẫn vì con người giới hạn mà lại tấp
tểnh, hí hửng đi vào tình yêu một cách vụng về. Có thể nói rằng con người được
Thiên Chúa sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa để sống yêu thương; nhưng con
người lại có trái tim nhỏ bé không xứng tầm với tình yêu thương.
Như thế, ta hiểu tại sao một người
tín hữu bình thường thì quí mến hết mọi đoàn thể trong giáo xứ; nhưng quí là
quí vậy, chứ cũng chẳng thể thấu nổi những khó khăn, những vui buồn của một
công tác phục vụ. Thế rồi, vì nhiệt thành và muốn dấn thân nhiều hơn, thể hiện
trách nhiệm của mình nhiều hơn vào giáo xứ, anh/chị ấy gia nhập vào một hội
đoàn, và bắt đầu nhìn hội đoàn khác với một con mắt đố kỵ. Cũng giống hệt như
thế, một tín hữu giáo dân luôn quí mến tất cả mọi linh mục tu sĩ, mọi dòng tu,
mọi linh đạo. Nhưng khi dấn thân vào một dòng tu, thì anh/chị ta lại bắt đầu
nhìn dòng tu khác với một con mắt không còn đầy đủ thiện cảm như xưa.
Đàng nào rồi cũng dễ dàng rơi vào
thái độ không còn biết “vui với người vui, khóc với người khóc”. Đàng nào cũng
có nguy cơ phản lại tình yêu thương chân chính. “Yêu thương là một tình cảm làm
cho người ta nhân ái hơn”, cô nô tì Isaura đã trả lời cho cậu chủ Léoncéep như
thế; nhưng sự tinh tuyền và mở rộng như thế lại không phải là đơn giản và dễ
dàng. Giới hạn của tình yêu là không giới hạn; yêu thương là cho đi, cho đi đến
mức trọn vẹn là cho đi chính bản thân, cho đi chính mạng sống của mình. . . con
người thường không có đủ khả năng để đạt đến tình yêu như thế.
Sách Thánh kể cho chúng ta thấy thái
độ cục bộ hẹp hòi, không phải là thái độ của những kẻ tầm thường, của những tên
vô lại, nhưng là thái độ của những con người ưu tú nhất : Giosuê, người môn đệ
thân tín của Mô sê và sau này lãnh đạo Dân Chúa, đã muốn Mô sê ngăn cản En-đát
và Mê-đác phát ngôn {Ds 11,25-29}; và Gioan, người môn đệ Chúa yêu và sau này
trở thành vị Tông đồ của tình yêu, đã nói với Chúa “Thưa Thầy, chúng con
thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy
không theo chúng ta” {Mc 9,38}. Vì thế cho nên, từ lòng nhiệt thành “lấy
đức Mến mà phục vụ lẫn nhau” cho đến thái độ “chúng con ngăn cấm họ”
gần như là một đường trượt bình thường của thân phận con người. Cũng thế, từ
con tim khao khát “cho chiên được sống dồi dào” cho đến thái độ “xin
lửa trời đến thiêu đốt họ” có lẽ cũng là một đường trượt không dễ mà tránh
khỏi. Chúng ta có thể thấy thái độ của Giosuê và Gioan trong là hậu quả của
tính chất mâu thuẫn trong tình yêu con người, một kết quả mà các linh mục, tu
sĩ hay tất cả mọi người chúng ta đều khó có thể vượt qua được bằng sức riêng
của con tim con người.
1.2 Tình yêu con người dễ rơi vào thái độ thống trị
Triết gia J.P Sartre diễn tả tình
yêu con người qua việc mô tả cái nhìn. Ông nói rằng : khi người này nhìn đến
người, tức là một người là chủ thể là một người là đối tượng. Chủ thể muốn khám
phá và chinh phục đối tượng; đối tượng thì bối rối, ngại ngùng, không còn hồn
nhiên nói cười làm việc như chính bản thân mình. Thế rồi đối tượng ấy phản ứng
bằng cách quay lại, nhìn trừng trừng vào kẻ đã nhìn mình và làm mình khó chịu.
Thế là tình thế lại đảo ngược, kẻ là đối tượng nay trở thành chủ thể, kẻ là chủ
thể nay lại biến thành đối tượng. Rồi chủ thể mới lại muốn khám phá và khuất
phục đối tượng, còn đối tượng mới lại bối rối ngại ngùng. . . tình trạng ấy cứ
đổi nhau mãi; và nó chỉ dừng lại khi mà một bên chấp nhận mình là đối tượng,
tìm niềm vui khi được là đối tượng, đó là thái độ khổ dâm; còn bên kia thì an
vui khi mình là chủ thể khất phục người khác, đó lạ không là gì khác hơn thái
độ bạo dâm. Sartre cho rằng thứ tình yêu gặp gỡ và hiệp thông không phải là
không có nhưng rất hiếm; bình thường người ta rơi vào cuộc đấu tranh để giành
thế thống trị trên người khác.
Triết gia Nietzsche thì cho rằng
không có tình yêu đích thực, vì đàn ông và đàn bà đến với tình yêu với những
mục tiêu khác nhau : đàn bà yêu đàn ông chỉ vì đứa con. Đạt được đứa con, các
bà không cần đến chồng nữa. Người đàn ông chỉ là phương tiện. Ngược lại, đàn
ông yêu đàn bà chỉ vì khoái chơi đùa và khoái nguy hiểm, đàn ông tìm thấy niềm
vui nơi đàn bà chỉ vì đàn bà là một trò chơi nguy hiểm nhất.
Triết gia Jaspers thì ít bi quan
hơn, nhưng cũng nói rằng trong tình yêu, cần phải có một cuộc “đấu tranh yêu
thương”; bởi người người ta thường rơi vào những tình huống, hoặc đánh mất cái
tôi của mình trong tình yêu, hoặc tiêu diệt cái tôi của người khác; đó là
khuynh hướng tiêu diệt, hoà tan chứ không phải sự tôn trọng khác biệt giữa hai
cái tôi. Đó là, một cách nào đó, thứ tình yêu “đồng nhi bất hoà”, chứ không thể
hiện được một sự tôn trọng tha nhân theo kiểu “hoà nhi bất đồng”.
Những nhận định của các triết gia,
dù có bi quan hay lạc quan, cũng đều phản ảnh một phần sự thật mà chúng ta khó
có thể chối cãi. Ta có thể những nguy cơ đó diễn ra hằng ngày trong bao nhiêu thứ
yêu thương của con người. Chẳng hạn không ít những người thanh niên, trong thời
gian chinh phục tình yêu của bạn gái, tìm thấy niềm hứng khởi hồi hộp vì mong
được bạn gái nhận lời trong từng chuyện nhỏ. Thế nhưng sau khi cưới vợ về rồi,
thì anh ta lại rơi vào thái độ thống trị; và ngay tức khắc, anh ta cảm thấy
buồn chán vì không còn thấy một cuộc phiêu lưu hồi hộp. Kết quả là sau đó anh
ta khát khao phiêu lưu trong một cuộc tình mới.
1.3 tình yêu con người có bóng dáng cái tôi
La Rochefoucauld cho rằng ích kỷ là
nét chính yếu trong cuộc sống con người, ngay cả khi người ta yêu, thì cũng
không phải là vị tha mà là vị kỷ, vì người ta yêu thương để tìm được một điều
gì đó cho mình, tìm niềm vui hay tìm sự thoả mãn cho chính mình.
Nhận định này cũng không phải là
không có phần đúng, chúng ta có thể thấy biết bao như thứ biến dạng của tình
yêu trở thành thái độ ghen tương mù quáng. Chúng ta có thể duyệt lại tâm tình
của mình để nhận ra không ít lần chúng ta lấy làm vui khi “làm công tác bác
ái”, mặc dù khi đó chúng ta đối diện với những hoàn cảnh đau thương khốn khổ.
Thay vì đau nỗi đau của người khác và mừng vì điều may lành của người khác,
chúng ta lại, một cách nào đó “vui với người khóc {tự hào vì mình giúp người
khác} và khóc với người vui {ghen tỵ vì sự thành công của người khác}”.
Tình yêu như thế là thứ tình yêu
theo qui luật “mạnh được yếu thua”, đó là một thứ tình yêu của một thứ cạnh
tranh sinh tồn theo kiểu sinh vật.
1.4 Tình yêu con người có khuynh hướng bao bọc gìn giữ
Có lẽ, trong cuộc sống con người,
không có tình yêu nào lớn lao và đẹp cho bằng tình mẫu tử. Người mẹ Việt Nam
thường hy sinh sức khoẻ, hy sinh nghề nghiệp, hy sinh những sở thích riêng, hy
sinh tự do, hy sinh danh giá, . . . tóm lại là người hy sinh trọn vẹn cuộc đời
con cái. Thế nhưng, cũng có nhiều người mẹ thường “yêu thương” với thái độ bao
bọc giữ gìn, nghĩa là không muốn cho con ra khỏi vòng tay của mình, không muốn
cho con khác với mình.
Tình yêu ấy có tính ràng buộc. Yêu
như một sợi giây trói buộc người khác và tiêu diệt tự do của người khác. Cái tự
do vị tiêu diệt ở đây không phải là một thứ tự do bay nhẩy, nhưng là tự do để
sáng tạo cuộc đời và làm cho cuộc đời riêng của yêu mình yêu được trở nên trọn
vẹn trong cuộc đời của người mình yêu. Tình yêu như thế không làm cho người
được yêu có thể phát triển và hình thành bản thân của họ một cách toàn diện.
Tình yêu như thế không làm cho tha nhân được sống sung mãn, nhưng tiêu diệt sự
sống đích thực của tha nhân.
2. Thiên Chúa là Tình yêu
2.1 Yêu thương, chìa khoá của mọi vấn đề Kitô giáo
Lịch sử con người gắn liền với
chuyện tình yêu, và bao giờ còn con người thì vẫn còn những chuyện tình yêu.
Mặt khác, mỗi người chúng ta cũng đều cảm thấy nhu cầu tình yêu sâu xa trong
tâm hồn mình. Sống và được yêu, đó là hai điều quan trọng nhất và là hai điều
luôn gắn liền với nhau. Nếu chúng ta hiểu tình yêu không phải chỉ là chuyện nam
nữ yêu nhau, nhưng còn là tất cả những thứ tình thương, muôn mầu muôn vẻ, là
một sự gắn bó người này với người kia, cá nhân với cộng đồng, qua những mối
giây thân thương của tổ quốc, gia đình, đồng hương, như cha mẹ với con cái, anh
chị em với nhau, bạn bè, đồng chí ... thì quả thật tình thương chính là hồn
sống của đời người, là sinh lực của mỗi người, là ý nghĩa cao cả nhất của cõi
nhân sinh.
Tất cả bản chất tôn giáo của Do thái
– Kitô giáo nằm trong dòng cuộc tình tự yêu thương ấy; và hơn nữa, tôn giáo ấy
còn thần thánh hóa cuộc tình tự yêu thương đến mức độ siêu việt cao vời, cũng
như phổ quát hóa cuộc tình tự yêu thương ấy để rộng mở bao hàm tất cả những gì
huyền nhiệm nhất của toàn thể vũ trụ và nhân sinh. Nhờ ánh sáng soi dẫn của
Thượng đế, truyền thống Do Thái – Kitô giáo nắm bắt được điều căn cốt ấy. Bằng
câu chuyện thần thoại trong sách Sáng Thế, Do Thái – Kitô giáo trình bầy nền
tảng sâu xa của toàn bộ cuộc sống ở mức độ một cuộc tình, một cuộc tình giữa
Thiên Chúa với con người, trong đó bao hàm mọi cuộc tình giữa con người với
nhau.
Con người được sáng tạo nên “giống
hình ảnh Thiên Chúa”; và “hình ảnh Thiên Chúa” Thiên Chúa ấy, một Thiên Chúa ở
số nhiều, một Thiên Chúa không cô độc, không yên hàn tự tại nhưng là chính tình
yêu thương sống động nội tại giữa lòng Ba Ngôi, hình ảnh Thiên Chúa yêu thương
ấy được thể hiện tha thiết trong dòng lịch sử cứu độ, để rồi cuối cùng thánh
Gioan có thể thốt lên :
“Thiên Chúa là tình
yêu” [1 Ga 4,8]
Do đó, khi con người được sáng tạo
nên giống Thiên Chúa, con người cũng chẳng là gì khác hơn tình yêu thương. Tất
cả ý nghĩa sâu xa nhất của bản chất con người, của vận mang con người đã được
bộc lộ trong khẳng định căn bản ấy: con người chỉ có thể hoàn thành cuộc đời
mình khi được sống trong tình yêu thương của Thượng đế; và nhờ tình yêu thương
của Thượng Đế, con người có thể sống yêu thương nhau. Chỉ trong tình yêu thương
như thế, con người mới có thể sống xứng đáng phẩm chất và phẩm giá con người.
Đối với Kitô giáo, đời sống ai không biết yêu thương là coi như đồ bỏ.
“Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa là tình yêu” [1 Ga 4,8]
Con người khao khát yêu thương như
kẻ xa quê khao khát được nghe tiếng Việt được nói tiếng Việt, được ăn món ăn
Việt. Con người chỉ thành đạt đời mình khi thể hiện được tình thương; ai biết
yêu thương, đó là con người thành toàn đời sống của mình :
“Ai yêu thương anh em mình, thì ở lại trong ánh sáng “ [1
Ga 2,10]
Do vậy, tất cả giới luật của Kitô
giáo được Chúa Giêsu khẳng định là gồm tóm trong giới răn yêu thương :
“Đức Giêsu đáp : Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn
nhất và điều răn đứng đầu. Con điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là :
ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách
ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” [Mt 22, 37-40]
Nhìn lại cuộc sống thực tế, chúng ta
có thể nhận ra điều căn bản của cuộc sống con người là tình yêu thương và có
những tình yêu thương thật đẹp. Tuy nhiên, có một thực tế khác cũng rõ ràng
hiển nhiên : không phải ai cũng biết yêu thương và không phải ai cũng có thể
sống yêu thương. Cuộc sống chung quanh ta có biết bao điều bi thảm, biết bao
điều ác, những sự ác chống lại tình yêu thương. Kitô giáo giải thích nguồn gốc
của sự ác là ma quỉ. Ma quỉ chống lại Chúa yêu thương và ma quỉ gieo vào lòng
con người thái độ từ chối tình yêu thương của Chúa. Chính thái độ từ chối yêu
thương ấy là căn nguyên của tất cả mọi đổ vỡ trong cuộc sống nhân sinh : lao
động trở thành cay cực; vợ chồng đổ lỗi cho nhau và sống với nhau theo kiểu
thống trị/lệ thuộc; anh em giết nhau, đề cao sự trả thù, những sự phóng đãng và
ham mê của cải, ham mê hưởng thụ hơn là trung thành với tình yêu của Chúa và
yêu thương nhau. . . [Xc. St chương 3-11]
“Ai phạm tội, thì là người của ma quỉ, vì ma quỷ phạm tội
từ lúc khởi đầu. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma
quỷ” [1 Ga 3,8]
Như thế, bên dưới tất cả mọi trục
trặc của cuộc sống, vấn đề căn bản theo kitô giáo chỉ là cuộc đấu tranh giữa
tình yêu và một thế lực chống lại tình yêu mà ta tạm gọi chung là “ích kỷ”. Tất
cả mọi tội lỗi đều là ích kỷ, tất cả mọi nhân đức đều là yêu thương. Nói cụ thể
hơn, tội ác chính là do lòng ích kỷ được gieo trồng vào trong một “mảnh đất”
nào đó; tham lam chính là ích kỷ được gieo trong mảnh đất tiền bạc; gian dâm
chính là ích kỷ được gieo trong mảnh đất dục vọng xác thịt… Thế giới còn biết bao
nhiêu đau khổ cũng chỉ vì người ta không biết yêu thương nhau.
Ở đây, ta hiểu được tất cả ý nghĩa
đời sống đức Tin Kitô giáo : làm cách nào để củng cố sức mạnh của tình yêu, gia
tăng “diện tích” mảnh đất tình yêu; và nhờ đó mà hóa giải tận căn những khổ ải
trong cuộc sống con người. Cách thức chính để nhổ cỏ dại [ích kỷ] chính là gieo
trồng thật nhiều những bông hoa [yêu thương]. Tất cả ý nghĩa của đời sống đức
Tin không là gì khác hơn trông chờ, đón nhận lại tình yêu lớn lao của của Thiên
Chúa để biến cuộc sống khổ ải của con người trở thành Nước Trời của Thiên Chúa,
nơi đó:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ
và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chung. Bò cái kết
thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.
Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào
ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.
Đến ngày đó, cội rễ Giê-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ
tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang” [Is 11,6-10]
Nhân loại không ngừng khao khát một
thế giới an hòa, hạnh phúc, và nhân loại đi tìm đủ mọi phương cách để xây dựng
thế giới ấy : bằng ngoại giao hay bằng khoa học, bằng kinh tế hay chính trị,
bằng luân lý hay triết học. . . Kitô giáo chấp nhận thấy cả những phương thế
tốt đẹp ấy, nhưng luôn khẳng định rằng chỉ có tình yêu thương mới là nguyên lý
giải quyết căn bản. Tình thương là nguyên lý chính yếu để cải đổi tật xấu, gia
tăng đức tính tốt, nhờ đó con người có thể sử dụng phẩm vật của vũ trụ như
những món quà yêu thương trao tặng cho nhau, chứ không phải như bãi chiến trình
mà người ta giành giật và chà đạp lẫn nhau.
2.2 Con người được hiệp thông trong tình yêu Thiên Chúa
Mầu nhiệm Kitô giáo có thể được tóm
gọn trong mầu nhiệm yêu thương, và mầu nhiệm yêu thương ấy, trước tiên tìm thấy
như nguồn cội và qui chiếu như gương mẫu nơi chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi. Mầu nhiệm Ba Ngôi ở đây được nhìn viễn tượng yêu thương và cứu độ, một
viễn tượng tỏ bầy việc Ba Ngôi cùng chắt chiu cho cuộc sống nhân loại. Quả
thật, với ai sông trong mặc khải cứu độ của Thiên Chúa, người ấy cần phải nhìn
thấy, đón nhận mầu nhiệm Ba Ngôi như một mặc khải chóp đỉnh, tỏ bầy cho con
người biết "bản chất" của Ngài là một vị Thiên Chúa yêu thương :
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian" {Ga 3, 16}
Chính
từ nguồn cội của mầu nhiệm yêu thương như thế, phát xuất ra kế hoạch cứu độ qua
Con Một của Ngài :
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban
Con Một..."{Ga 3,16}
Mặc
khải tình yêu cùng kế hoạch cứu độ ấy là một lời mời gọi con người sống niềm
Tin vào Con Một Thiên Chúa :
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người...” {Ga 3,16}
Và niềm Tin ấy chính là con đường
mang lại ơn cứu độ thực sự cho con người :
"... để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời"{Ga 3,16}.
Những Lời quá ngắn gọn và quá súc tích
ấy mời gọi chúng ta mừng kính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một mầu nhiệm
bao hàm tất cả bản chất Kitô Giáo. Nơi đây, chúng ta gặp thấy mầu nhiệm Ba Ngôi
Thiên Chúa chính là Mầu Nhiệm Yêu Thương{1}; Mầu Nhiệm Ba Ngôi cũng là mầu
nhiệm của niềm tin và đời sống đức tin, đó là mầu nhiệm cứu độ {2}; và Mầu
Nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm của sự sống phong phú và sự sống toàn diện của con
người {3}. Cả ba khía cạnh ấy gắn liền với nhau.
{1} * Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa là mầu
nhiệm của tình yêu thương; tình yêu thương bao trùm tất cả, "diễn
dịch" ra tất cả kế hoạch Cứu Độ của Ngài. Mặc khải của Thiên Chúa, trước
hết, không phải là mặc khải về "bản tính nội tại" của Ngài, nhưng là
mặc khải về "tác động cứu độ", tức hành động yêu thương của Ngài dành
cho con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi, trước hết, không phải là một bài toán đố quá
khó, vượt tầm hiểu biết của con người, nhưng là lời mời gọi sống động của một
vị Thiên Chúa chắt chiu về thân phận con người. Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa
yêu thương Cứu Độ; "nguyên lý" hoạt động của Ngài chỉ là tình thương
mang lại ơn cứu độ cho con người chứ không phải do một nguyên lý theo kiểu danh
dự, vinh quang theo nghĩa trần thế, hay do một nguyên tắc cứu độ nào khác.
{2}
Nếu nguyên lý hoạt động của Thiên Chúa chỉ là yêu thương, thì bản chất của niềm
Tin Kitô giáo cũng chỉ là yêu thương. Thiên Chúa không chỉ yêu con người như
một sự thương hại và ban bố cho con người một thứ ơn cứu độ nào đó để con người
bớt khổ, theo kiểu một công tác từ thiện của nhân loại. Một thứ "công tác
từ thiện" như thế không cần đến "món quà" là chính Con Một của
Ngài, mà chỉ cần những hồng ân "bên ngoài Ngài". Không phải thế !
Thiên Chúa đã ban chính Con Một của Ngài, điều đó có ý nghĩa hơn rất nhiều.
Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người được tham dự vào mầu
nhiệm yêu thương của Ngài. Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian để con
người được liên đới, được tương quan, được sống trong yêu thương với Con Một
của Ngài, rồi nhờ Con Một của Ngài mà biết yêu thương nhau và được bước vào trong
mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Niềm Tin đích thực là một tương
quan và là một tương quan yêu thương; một sự gắn bó cụ thể, hiện sinh; một sự
hiệp thông vượt quá mọi giới hạn của không gian và thời gian; bởi vì ơn cứu độ
của Thiên Chúa cũng chính là tình thương, là mời gọi vào sống trong Thiên Chúa
yêu thương.
{3}
Mầu nhiệm Ba Ngôi cũng là mặc khải về "bản chất" đời sống con người.
Trong ánh sáng mầu nhiệm ấy, con người tìm thấy nguồn cội của mình và được sống
như là mình; tuyên xưng niềm Tin nơi mầu nhiệm ấy, con người hy vọng được sống
trọn vẹn khát vọng của mình; sống trong tình yêu thương với Thiên Chúa và trở
nên anh chị em với nhau. Niềm Tin vào Con Thiên Chúa không phải là một lá bùa,
một công lênh nào đó để rồi được "thưởng thêm"; để rồi ai không tin
thì sẽ bị "phạt thêm". Niềm Tin vào "Con của Người" mang
lại sự giải thoát cách "nội tại", là sự chữa trị ngay "nội
tại" cho thân phận con người. Ngược lại, sự bất tín chẳng qua là thái độ
tự ý lựa chọn ở lại trong bóng tối, "nhưng người ta đã chuộng bóng tối
hơn ánh sáng", và đó là bản án cho họ [Ga 3, 19]. Niềm Tin vào Con
Thiên Chúa được ban cho thế gian không phải là một điều kiện để được lãnh nhận
ơn cứu độ, mà chính là ơn cứu độ; niềm tin ấy mang lại sức mạnh, mang lại niềm
hy vọng, mang lại tình yêu thương để con người được sống một cách sung mãn và
dồi dào thân phận của mình, "Ai tin vào con của Người thì không bị lên
án" [c.18a]. Như thế, ơn cứu độ Kitô giáo không hoàn toàn thuộc về
tương lai, theo đó, trong cuộc sống hiện tại này, người tín hữu phải nhẫn nhục
mà không cảm thấy gì, phải chịu thử thách để đổi lấy phần thưởng. Ơn Cứu độ
Kitô giáo sẽ hoàn tất trong tương lai nhưng đã khởi đầu từ lúc này [vị lai].
Niềm Tin Kitô giáo không phải chỉ là một cuộc khảo hạch nhưng là một phương
thuốc; niềm Tin ấy không phải là một cuộc thử thách mà người ta phải dùng sức
mạnh riêng, ý chí riêng, tài đức riêng đề giữ lấy, nhưng niềm Tin chính là sức
mạnh giúp người Kitô hữu vượt qua thử thách của cuộc đời trần gian.
Trong viễn tượng ấy, chúng ta cũng
hiểu được rằng con người không thể tìm được một "ơn cứu độ" ở đâu
khác ngoài Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa; vì chỉ nhờ Ngài con người mới
biết sống tình yêu thương với nhau như thế nào; vì chỉ trong Ngài, con người
mới được yêu thương trọn vẹn, được chấp nhận "vô điều kiện"; và chỉ
qua Ngài, con người mới có thể được đón nhận vào Gia Đình Ba Ngôi
"...kẻ không tin thì bị lên án rồi"
Cuối cùng Mầu nhiệm Ba Ngôi, qua Đức
Giêsu, trở thành mầu nhiệm yêu thương và cứu độ đang dậy men trong cuộc sống
trần gian. Thiên Chúa đang ở giữa trần gian, đang hoạt động trong trần gian.
Qua Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm Ba Ngôi cũng "nhập thể" vào cuộc sống
trần gian.
2.3 Hành trình của Đức Ái
Nói yêu thương thì dễ nhưng thật
lòng yêu thương thì không phải là dễ. Thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ích
kỷ không phải là nhỏ ! Biết bao người đã bị thế lực của sự dữ giằng xé, giam
hãm không thể thoát ra được.
Các bậc thánh nhân thì cũng có thể,
phần nào đó, nhờ tu luyện mà vượt qua được sự ích kỷ. Nhưng trong cuộc đời,
luôn có những người nghèo, những người bé mọn, những người thiếu thốn mọi sự,
cả vật chất lẫn tinh thần. Trong cuộc đời còn có đầy những người “nghèo hèn
sinh đạo tặc”, những người bị đẩy vào vũng lầy cuộc đời, nhưng người không có
cơ may được giáo dục tốt, những người không có được một ai yêu thương mình để
khơi dậy phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn của mình. ….
Tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn
ngay ở lành, nhưng làm thế nào để những người tầm thường bé mọn có thể nuốt
được bài học yêu thương và sống trọn vẹn phẩm giá con người biết yêu thương ?
Có những người, nhiều người, không thể chỉ nhờ những bài học đạo đức, bài học
phân biệt phải trái, đúng sai là có thể sống tốt; có nhiều người không thể chỉ
nhìn vào mẫu gương thánh hiền là có thể quyết chí học đòi và thăng tiến trên
đường đức hạnh.
Quả thật, hành trình của tình yêu
phải là hành trình của một cuộc đấu tranh, nỗ lực, trong niềm tin và trong sự
kết hiệp với Thiên Chúa. Trong Thông điệp đầu tiên của mình, Thiên Chúa là Tình
Yêu, đức Bênêdictô XVI viết :
“Có hai điều ló dạng ra cách rõ rệt từ tổng hợp chớp
nhoáng về khái niệm eros xưa và nay. Điều đầu tiên là có một liên hệ nhất định
giữa tình yêu và Thiên Chúa : tình yêu hứa hẹn sự bất tận, vĩnh hằng – một thực
tại xa hơn và khác biệt hoàn toàn với sự hiện hữu hằng ngày của chúng ta. Tuy
nhiên, chúng ta cũng thấy rằng con đường đạt đến mục tiêu này không phải chỉ
đơn thuần là tùng phục theo bản năng. Sự thanh luyện và thăng tiến trong sự
trưởng thành là cần thiết; và những điều này cũng phải trải qua con đường từ bỏ
mình.” { TCLTY 5}
Rồi sau khi phân tích sự khác biệt
giữa hai từ hébreu là dodim, nói lên tình yêu không chắc chắn, và ahab, diễn tả
một tình yêu có sự khám phá đích thực lẫn nhau, vượt qua tích chất ích kỷ, được
chuyển dịch sang tiếng hy lạp là agape, Đức Bênêdictô XVI giải thích ý nghĩa
của từ “ahab” là :
“ Tình yêu giờ đây trở thành mối quan tâm và lo lắng cho
người khác. Nó không còn là tìm kiếm chính mình, hay một mê say hạnh phúc; thay
vào đó nó tìm kiến điều thiện cho người mình yêu; nó trở thành sự từ bỏ chính
mình và sẵn sáng chấp nhận cả hy sinh nếu cần” {TCLTY 6}
Như thế, Đức Bênêdictô cho thấy tính
cách đấu tranh và thăng tiến trong hành trình tình yêu như sau :
“Tình yêu bao gồm toàn bộ hiện thực của cuộc sống trong mỗi
chiều kích của nó, kể cả thời gian. Khó mà khác đi được, vì hứa hẹn của tình
yêu hướng đến một mục tiêu chung cuộc : tình yêu nhắm đến sự vĩnh viễn. Tình
yêu thật sự là “một trạng thái ngây ngất”, không phải phải trong ý nghĩa của
một thoáng mê say, nhưng hơn thế nó như là một cuộc hành trình, một cuộc xuất
hành ra khỏi cái tôi đóng kín hướng vào bên trong để vươn tới sự tự do qua việc
cho đi chính mình, và như thế hướng đến sự khám phá đích thật chính mình và
chung cuộc là sự khám phá về Thiên Chúa : “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì
sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống” {Lc
17,33}, như Chúa Giêsu đã nói trong suốt các sách Tin Mừng {Xc. Mt 10,39;
16,35; Mc 8,35; Lc 9,24;Ga 12,25}. {TCLTY 6b}
Đức thánh cha Gioan Phaolô II có lần
nói trong một sứ điệp truyền giáo rằng : tình yêu, đức Tin và sự sống càng
chia sẻ thì càng lớn mạnh. Vâng, điều đức Thánh Cha nói thật đúng, nhưng
đúng với nguyên tắc, và đó là lý tưởng “còn khuya” người Kitô hữu mới đạt tới
hoàn toàn. Qui luật tự nhiên và bi đát của cuộc sống, tính chất giới hạn tự
nhiên và giằng co của con tim con người khiến cho hành trình của đời luôn luôn
là leo dốc, hành trình lội nước ngược, hành trình diệu vợi. Hơn nữa, hành trình
của người kitô hữu trong thế cheo leo như vậy lại luôn luôn là hành trình chưa
hoàn thành mà lại không cho phép an tâm thanh thản.
Tuy nhiên, đó lại chính là những
tính chất của nẻo đường hy vọng, nghĩa là nẻo đường ta chẳng đạt được hoàn toàn
những cũng chẳng thể dừng bước để yên nghỉ; nghĩa là nẻo đường ta cứ phải vươn
lên mãi trong trầy trật và vấp ngã nhưng đôi mắt vẫn luôn nhìn về phía trước.
Tóm lại, đó là hành trình cứ phải nhìn lên mãi tới tình yêu Thiên Chúa, cứ phải
nghe mãi lời kêu mời của Tình yêu tuyệt đối nơi đức Giêsu :
“Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy
sinh mạng sống cho bạn hữu của mình” [Ga 15, 15].
Kết
Tình yêu thương là của Chúa, không
phải đương nhiên của con người ! Trái tim con người không xứng với tình yêu
thương đích thực, cho nên cuộc sống con người cũng xẩy ra biết bao nhiêu trục
trặc, biết bao nhiêu tội ác từ chính những tâm hồn đòi yêu thương theo trái tim
hạn hẹp của mình.
Tình yêu thương là quà tặng Thần
linh của Thiên Chúa yêu thương mà con người còn phải “học hỏi” nhiều để có thể
tập tễnh đi vào con đường yêu thương. Đúng hơn, con người được mời gọi để cho
lòng mình gần bên lòng Chúa, trái tim mình sát bên trái tim Chúa để có thể hằng
ngày mở rộng con tim, tiếp sức sống từ chính con tim của Chúa.
VIII. Hội Dòng
1. Thách đố của niềm tin trong đoàn sủng Nữ Tử Bác Ái
Lời ấn tượng nhất và có lẽ cũng đẹp
nhất của đoàn sủng Nữ Tử Bác Ái, đó là : người nghèo là “Chúa và là Thầy của
chúng ta”. Lời nói đó có thể bao hàm cả linh đạo của Nữ Tử Bác Ái, nghĩa là
cả chiều kích siêu nhiên, cả tinh thần phục vụ cũng như nếp sống và thái độ của
người Nữ Tử Bác Ái trong sứ vụ phục vụ người nghèo. Một lời khác, ít ấn tượng
hơn một chút, nhưng cũng diễn tả rõ nét “chiều hướng” của sứ vụ tông đồ đặc
biệt ấy, đó là danh hiệu “Nữ tỳ của người nghèo” {HP 1, a}.
Quả thật, khẳng định người nghèo là
Chúa và là Thầy là điều không thể hiểu được và chắc chắn cũng không thể sống
được nếu không được đặt trong nguồn mạch sâu xa của đường lối ngược đời của
Thiên Chúa trong việc cứu độ con người {a}; nếu không nhận ra chính Thiên Chúa
ra như “đồng hóa” chính Ngài với người nghèo {b}; và nếu không nghe thấy lời
mời gọi của chính Chúa nơi bản thân mình để có thể dấn thân phục vụ {c}.
1.1 Thách đố của đường lối ngược đời của Thiên Chúa
Thiên Chúa không cứu độ con người
như một Đấng đứng bên ngoài để xuê xoa những nỗi khổ của con người, nhưng dấn
thân và liên luỵ với kiếp người[18]; Thiên
Chúa, như người cha của mọi người, chứ không phải như một thứ giám đốc. Người
cha thì luôn quan tâm đặc biệt hơn về những đứa con gặp khó khăn, đau khổ nhiều
nhất trong các con cái của mình[19], còn vị
giám đốc thì tìm thành đạt cho mình bằng ve vuốt ve lòng tự ái của “trường
mình”, “công ty của mình”. . . bằng cách
chỉ thu nhận những người ưu tuyển. Thiên Chúa cho Con Một của Ngài đến trần
gian sống trọn vẹn thân phận của những đứa con ở cùng đáy xã hội[20], chỉ
nguyên tinh thần đó đã là một tỏ hiện ý nghĩa đúng đắn của niềm tin độc thần,
của niềm tin vào một Thiên Chúa là Cha yêu thương như được trình bày trong Kitô
giáo.
Đường lối “ngược đời“ của Thiên Chúa
đã là một thách đố và vẫn thường xuyên là một thách đố căn bản đối với sức mạnh
của thế gian. Bởi đó, để có thể “lội ngược dòng đời” theo đường lối của Thiên
Chúa, các môn đệ Chúa Giêsu, đặc biệt là các Nữ Tử Bác Ái, không thể nào không
bám chắc và nguồn cội sâu xa trong đường lối cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, ơn
gọi Nữ Tử Bác Ái cũng được Thánh Vinh Sơn nhắc nhớ về nguồn cội thần linh,
nguồn của của đức Tin trong đoàn sủng của tu hội :
“Có ai nghĩ rằng sẽ có các Nữ Tử Bác Ái ? – Cha đã không nghĩ
đến Thiên Chúa đã nghĩ đến điều đó thay cho các con” {Thánh Vinh Sơn, Giải
Thích Qui Luật, IX,119}.
“Marguerite Naseau, quê ở Suresnes, là Nữ Tử Bác Ái đầu
tiên có diễn phúc chỉ đường cho các chị em khác – mặc dầu chị chẳng có thầy dạy
nào khác ngoài Thiên Chúa”[21]
Để thực hiện chương trình cứu độ
bằng đường lối khác thường như thế, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuống thế
làm người, một người bình thường như những người bình thường khác, sống những
khó khăn của một kiếp người, một kiếp nghèo. Thiên Chúa làm người, đó đã là một
sự dấn bước vô biên của Thiên Chúa trên hành trình đến với con người.
Tuy nhiên, hình như sự dấn bước vô
biên ấy hình như chưa đủ so với tình thương của Ngài, nên Thiên Chúa còn muốn
kêu gọi mọi người hết lòng trân trọng, yêu thương những người con cùng khổ của
Ngài bằng cách đồng hoá mình với những người bé mọn, cùng khổ ấy[22]. Do đó,
bên cạnh cái nhìn tổng quát về đường lối ngược đời của lịch sử cứu độ, cái nhìn
đức tin của Nữ Tử Bác Ái còn tìm thấy một tiêu điểm cụ thể và cũng thách đố lớn
hơn : Phục Vụ Đức Kitô nơi người nghèo.
“Với cái nhìn đức tin, các Nữ Tử Bác Ái nhìn thấy Đức Kitô
nơi người nghèo và người nghèo nơi Đức Kitô. Các chị phục vụ Người nơi các chỉ
thể đau khổ của Người “với lòng trắc ẩn, sự dịu dàng, thân tình, kính trọng và
sùng mộ” {HP 10,b}
Lời kêu mời này thúc bách các Nữ Tử
Bác Ái vượt lên lối yêu thương như một sự bố thí, nghĩa là như một kẻ đứng trên
để phân phát; nhưng ngược lại, như một kẻ “đứng dưới” để phục vụ. Có lẽ từ ngữ
phục vụ cũng đã bị lạm dụng và biến chất khá nhiều trong Giáo Hội, khiến cho ý
nghĩa của nó bao hàm một ý nghĩa đảo ngược : hình ảnh “người phục vụ” thường
không còn là hình ảnh của những người dưới, nhưng thường được gán cho những
người “trên”, kèm theo đó là những “trang trí” hoa lá càng của vinh dự, của
quyền bính thống trị, của bổng lộc. Chúa Giêsu xác định vị thế của Ngài là
người “dưới” mà bản dịch của Cha Thuấn gọi là “người hầu bàn” thay vì là từ
“phục vụ” :
“Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ ? Thế mà, Thầy
đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”.
{Lc 22,27}
Cuối cùng, thách đố của niềm tin đối
với Nữ Tử Bác Ái còn diễn ra ở một bình diện sâu xa hơn nhiều, đó là sự “đồng
nhất” của Đức Kitô với người nghèo nơi chính “tâm hồn và đời sống của người
nghèo”.
“Các Nữ Tử Bác Ái chiêm ngưỡng và gặp gỡ Đức Kitô nơi tâm
hồn và đời sống của người nghèo, nơi đó, ân sủng của Người luôn hoạt động để
thánh hoá và cứu thoát họ….” {HP 10,a}
Hơn nữa, đường lối lạ lùng của Thiên
Chúa trong nhiệm cục cứu độ ấy lại còn như thứ men “cách mạng” có tác dụng đảo
ngược tất cả những quan niệm và những hệ thống tổ chức của trần gian, vốn luôn
nghiêng ngả theo chiều hướng của qui luật “mạnh được yếu thua”.
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ,
còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng
Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và
dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là
Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài
người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”.{1 Cr
1, 22-25}
Cái ngược đời ấy được cảm nghiệm một
cách sâu xa hơn bản thân của thánh Vinh Sơn, và chúng ta có thể nhận ra điều đó
trong bài giảng của nhà hùng biện Bossuet mà thánh Vinh Sơn đã gợi hứng cho
Bossuet viết ra :
“{1}Trong thế gian, người giàu có được mọi lợi thế và chiếm
hàng đầu, còn trong Nước Chúa Giêsu Kitô, quyền ưu tiên thuộc về người nghèo .
. .;{2}Trong thế gian người nghèo phục tùng người giàu và nhình như được sinh
ra để phục vụ người giàu; trái lại, trong Giáo Hội, người giàu chỉ được chấp
nhận với điều kiện là để phục vù người nghèo; {3} ân sủng và phúc lành được
dành cho người nghèo, và người giàu chỉ có đặc ân khi người nghèo chuyển thông
cho họ . . .”[23]
Chúng ta có thể nhận thấy như một
tiến trình “hạ giáng” kỳ lạ của Thiên Chúa. Từ một Thiên Chúa yêu thương người
nghèo, đến một Thiên Chúa đứng trong hàng ngũ những người nghèo để lối kéo cái
nhìn của nhân loại về phía người nghèo; và cuối cùng là một vị Thiên Chúa đi
đến tận tâm hồn những người nghèo, dám khám phá ra, trong những tính chất “đạo
tặc” vốn dĩ luôn đi kèm với cái nghèo, những khát vọng chân chính của một phận
người, khát vọng ơn cứu độ; khám phá ra ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt
động từ nơi cùng đáy của kiếp người “nơi đó, ân sủng của Người luôn hoạt
động để thánh hoá và cứu thoát họ….”. Quả thật chúng ta có thể nhận thấy,
ngay trong dòng lịch sử cứu độ, một lịch sử cứu độ mà nét chính yếu diễn tả
chiều hướng “ngược đời” của Thiên Chúa trong việc ưu tiên chọn những người bé
mọn, nhận thấy một mãnh lực chống đối không ngừng biểu hiện trong việc chạy đua
để làm người “lớn hơn”. Chỉ có niềm tin sâu xa, niềm tin hội nhập vào dòng lịch
sử ơn cứu độ và hội nhập vào trái tim của đức Giêsu mới có thể giúp cho người
Nữ Tử Bác Ái sống trọn vẹn với đoàn sủng mình đã lãnh nhận.
1.2 Thách đố của bản thân người nghèo
Từ bình diện của nhiệm cục cứu độ,
chúng ta bước sang một bình diện “thực tế” hơn, đó là đòi hỏi cụ thể của sứ vụ
đối với người nghèo : rộng mở với mọi người nghèo và với mọi hình thức nghèo
khó :
“Các chị em có một ơn gọi bắt buộc các chị em phải giúp đỡ
tất cả mọi hạng người, không phân biệt nam nữ, già trẻ, nói chung là tất cả mọi
người nghèo đang cần đến chị em”{HP.10}
Người nghèo luôn có mặt trong cuộc
sống con người. Hơn nữa, những hình thức nghèo lại không ngừng biến đổi, hay
đúng hơn, xã hội vẫn không ngừng “sản xuất” ra những “người nghèo mới”, trong
những lãnh vực mới. Nói chung, bất kỳ hình thức nào đe doạ, cắt xén, ảnh hưởng
đến sự sống toàn diện của con người đều làm nên những người nghèo. Đây là một
sứ vụ “không có ngày hoàn tất” :
“Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng
có” {Ga 12, 8}
Nói cách khác, Nữ Tử Bác Ái cần khám
phá ra cái nghèo muôn mặt của phận người, lắng nghe tiếng khẩn nài của mọi hoàn
cảnh. Một “lãnh địa” như thế, có thể nói là chẳng những không có biên giới xác,
nhưng là là “vô biên”, không bao giờ có thể “bớt việc”, và cũng không bao giờ
có thể an tâm với những việc mình đã làm được.
“Các Nữ Tử Bác Ái học được nơi Con Thiên Chúa : không có
nỗi khốn khổ nào xa lạ đối với các chị . . . {HP11 a}
Trong lãnh vực bao la của chiều rộng
ấy, Thánh Vinh Sơn lại muốn các các Nữ Tử Bác Ái đi vào một chiều sâu thẳm sâu nhất, đó là phục vụ đặc biệt những
người nghèo khổ nhất và bị bỏ rơi nhất :
“ . . .Thánh Vinh Sơn khuyến khích các con cái ngài, nam
cũng như nữ, tìm kiếm “những người nghèo khổ nhất và bị bỏ rơi nhất” {HP 11b}
Khỏi cần nói, chúng ta cũng biết
thừa là những người nghèo nói chung không phải là những người “dễ thương”;
nghĩa là nghèo hèn thường phát sinh đạo tặc. Người nghèo phải được nhìn trong
thực tế của bản thân họ. Đón nhận người nghèo là một sự đón nhận căn bản nhất,
đón nhận một con người vì họ là người và đón nhận những hoàn cảnh khó khăn, cực
nhọc của họ vì chính hoàn cảnh khó khăn ấy. Như thế, việc đến với người nghèo
cần phải gạt bỏ hết khuôn khổ luân lý hay lẽ phải bình thường; nghĩa là không
lấy bất cứ một mẫu mực nào để xác định đối tượng được giúp đỡ, không đặt bất cứ
một điều kiện tiên thiên nào để phân biệt loại trừ, trừ ra “điều kiện” duy nhất
: là người nghèo.
Người nghèo không bao giờ hết, và
những rắc rối của một người nghèo mà thôi cũng đã là “khôn cùng” rồi đối với
khả năng chịu đựng của con người. Làm sao có thể không hụt hơi trước một viễn
tượng vừa bao la lại vừa sâu thẳm như thế nếu như Nữ Tử Bác Ái không được liên
kết vào một nhiệm cục bao la hơn, là nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa và được
liên kết với một sức mạnh trọn vẹn hơn, là chính Đức Giêsu Kitô ?
1.3 Thách đố từ bản thân người nữ tử bác ái
Những đức tính cần thiết cho Người
Nữ Tử Bác Ái, theo tinh thần tu hội, có thể nói thật là lý tưởng :
“Các chị phục vụ
Người nơi các chi thể đau khổ của Người “với lòng trắc ẩn, sự dịu dàng, thân
tình, kính trọng và sùng mộ” {HP 10,b}
Nữ Tử Bác Ái trong khi phải “lấy nhà
bệnh nhân và nhà mẹ làm đan viện, lấy căn phòng thuê làm tu phòng, lấy đường
phố làm nội cấm, . . “, Nữ Tử Bác Ái “không phải là nữ tu, nhưng là những thiếu
nữ đi đây đi đó như người đời” {HP12} thì vẫn phải “có nhân đức bằng hay nhiều
hơn khi các chị tuyên khấn trong một Dòng tu”, và luôn phải “có thái độ cư xử
một cách từ tốn, trầm mặc và nêu gương sáng như các nữ tu đích thực trong các
tu viện” {HP 12}
Ai thức lâu mới biết đêm dài. Dấn
thân vào con đường phục vụ và phục vụ những người nghèo nhất, với đủ mọi tật
xấu kèm theo, mà vẫn phải, ngày này qua ngày khác, thể hiện một thái độ “trắc
ẩn, sự dịu dàng, thân tình, kính trọng và sùng mộ” thì, có thể nói, là điều
không thể làm được, nếu như không xem đó như một lời mời gọi không ngừng tiến
lên và nhất là nếu không tìm thấy một nguồn mạch thần linh làm nền tảng nâng
đỡ, nguồn mạch của chính nét kỳ diệu trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.
Trong tất cả những thách đố của đoàn
sủng Vinh Sơn, đặc biệt trong trong thách đố về tư cách của một Nữ Tử Bác Ái
trong việc phục vụ người nghèo, có lẽ mọi thành viên Nữ Tử Bác Ái cần tìm thấy
được một thứ “kinh nghiệm Vinh Sơn”, một kinh nghiệm của đức Tin trong
khía cạnh “nghèo”. Chính đó là nguồn mạch thần linh mà, cuối cùng,
người Nữ Tử Bá Ái chỉ có thể tìm thấy trong một đời sống đức Tin phong phú.
Không có kinh nghiệm ấy, sự phục vụ của các Nữ Tử Bác Ái luôn có nguy cơ biến
chất. Hành trình kinh nghiệm tâm linh của thánh Vinh Sơn về ý nghĩa của “cái
nghèo” được Linh Mục Jean Morin trình bày trong ba loại phản ứng như một tiến
trình tâm linh của thánh Vinh Sơn[24] :
{1}
Trước hết, thánh Vinh sơn xấu hổ về hoàn cảnh nghèo khổ của mình. Trong bài nói
chuyện với các linh mục Truyền Giáo ngày 19-12-1659, ngài nói :
“Tôi còn nghĩ tới và nhớ lại rằng lúc còn nhỏ, có lần cha
tôi dẫn tôi đi dạo trong thành phố, và bởi vì cha tôi ăn mặc xấu xí và hơi cà
nhắc, nên tôi đã xấu hổ khi đi với cha và không dám nhận người là cha ruột của
mình” {Coste XII, 432}
{2}
Loại phản ứng thứ hai là đi tìm sự khiêm hạ trong chính nguồn gốc nghèo khổ của
mình.
Nhiều lần thánh nhân nhắc lại nguồn
gốc nghèo khổ của mình như một sự khiêm tốn. Chẳng hạn, trong bức thư ngày
14-01-1640 cha Vinh Sơn viết cho cha Abelly, lúc đó là Tổng đại diện ở Bayonne,
cha Vinh sơn đã viết :
“Thưa
cha, cha đã làm cho tôi ngại ngùng quá, tôi là con của một nông dân nghèo, kẻ
đã chăn chiên và chăn lợn, lại còn ngu dốt và tội lỗi, mà cha lại muốn hỏi ý
hiến của tôi sao ! …”
Cha Morin nhận định : “Dù thế nào
chăng nữa, quả thực là thánh Vinh Sơn đôi lúc sử dụng nguồn gốc nghèo hèn và
nông dân của mình để tự hạ. Ngày này các tâm lý gia cho chúng ta biết đấy là
một dấu chỉ nguồn gốc này chưa hoàn toàn được thấm nhuần và hội nhập trọn vẹn
theo bản tính con người . . . “.
{3}
Sau cùng, loại phản ứng thứ ba, là thánh Vinh Sơn không xấu hổ về nguồn gốc xã
hội của mình, cũng không tìm cách cho nguồn gốc ấy như một lý do để tự hạ,
nhưng thấm nhập chúng một cách trong sáng, và điều này dẫn ngài
đến sự cảm thấy hãnh diện khi nhận ra các giá trị sâu lắng trong môi trường
người nghèo nói chung và miền quê nói chung
“…
Đối với người nghèo, Chúa ban cho họ có đức tin sống động; họ tin, họ sờ mó, họ
nếm cảm Lời hằng sống. . . “ {Coste XII, 170-171}
Thánh Vinh sơn đã xác quyết với các
Nữ Tử Bác Ai :
“Không gì bằng những người có tinh thần của
người nông thôn; họ luôn khẩn cầu Chúa trong mọi nhu cầu, luôn biết ơn Ngài khi
thịnh vượng” {Coste IX,81}
Ở đây, cái nghèo không còn được nhìn
dưới nhãn quan xã hội {mặc cảm}, cũng chẳng còn dưới nhãn quan luân lý {khiêm
tốn}, nhưng được sống dưới ánh sáng đức Tin, hoàn cảnh nghèo của mình chính là
một đề tài để ca tụng Thiên Chúa.
Có thể nói, ở mức độ thứ nhất, thánh
Vinh Sơn sống cái nghèo trong sự chi phối của cái nhìn của xã hội của người
khác về người nghèo; ở mức độ thứ hai, thánh Vinh Sơn sống cái nghèo trong sự
chi phối của cái nhìn của chính mình về bản thân mình; ở mức độ thứ ba, thánh
Vinh Sơn sống cái nghèo trong ánh sáng cái nhìn của chính Thiên Chúa về người
nghèo. Chính ở mức độ thứ ba này, thánh Vinh Sơn có thể tìm thấy một thứ linh
đạo của người nghèo.
Quả thật, đoàn sủng phục vụ người
nghèo chỉ có thể được đảm nhận trọn vẹn khi các Nữ Tử Bác Ai đạt đến mức độ tìm
thấy linh đạo của người nghèo chứ không phải chỉ là sống linh đạo cho người
nghèo.
“Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở
vui mừng và nói : "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì
Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng
lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
"Cha tôi đã
giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng
như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc
khải cho." {Lc 10,21-22}
Linh mục Jean Morin, C.M., trong Tìm
Hiểu về Thánh Vinh Sơn, viết một nhận định tinh vi về linh đạo của thánh Vinh
Sơn : “Trước khi trở thành linh đạo dành cho người nghèo, cần có cái nhìn và
linh đạo của người nghèo” [25].
Ơn cứu độ của Thiên Chúa ưu tiên
giành cho những người nghèo, đó là điều đã rõ đối với chúng ta. Tuy nhiên, ta
cũng hiểu rằng ơn cứu độ như thế không phải là một một sự “công chính hoá bên
ngoài”, không phải là sự công chính hoá pháp lý theo như quan niệm của Luther,
mà là một tiến trình thực sự có khả năng sửa chữa, bồi bởi và làm thăng hoa
cuộc sống con người. Trong trường hợp người nghèo, ơn cứu độ của Thiên Chúa
không chỉ thương hại người nghèo, không chỉ “bố thí” cho người nghèo, chỉ vì họ
nghèo; nhưng thiết yếu chính là khám phá ra vận hành của ơn cứu độ ngay chính
bản thân người nghèo, vận hành của ơn cứu độ trong tình cảnh mà con người trần
thế cho rằng khó cải tạo nhất, khó giáo dục nhất, khó “xoá đói giảm nghèo”
nhất. Người Nữ Tử Bác Ái cần khám phá ra trong người nghèo nói chung và trong
từng hoàn cảnh cá biệt mà mình được sai đến để có thể thực sự đón nhận người
nghèo như là “Chúa và là Thầy của chúng ta”:
Kinh nghiệm của thánh Vinh Sơn trong lãnh vực
này khám phá ra người nghèo luôn sống mối tương giao cụ thể.
“…
Đối với người nghèo, Chúa ban cho họ có đức tin sống động; họ tin, họ sờ mó, họ
nếm cảm Lời hằng sống. . . “ {Coste XII, 170-171}
Đối với người nghèo, kinh nghiệm cụ
thể lớn hơn lý thuyết. Người nghèo sống mối tương quan sống động với ai khác và
điều đó chính là nét căn bản của truyền thống Kinh Thánh. Mối giao tiếp con
người với nhau là nét đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. Sống đức Tin là
giao tiếp với Thiên Chúa và hiệp thông với tha nhân chứ không phải sống theo
một học thuyết “ăn ngay ở lành”. Lý tưởng của đời sống này không phải là tìm
thấy niềm vui vì bản thân mình hoàn hảo, không phải thực hiện một thái độ anh
hùng hay thể hiện tư cách một “chính nhân quân tử”, mà là để cho ai khác dính
dáng vào bản thân mình và nghe được từ đó một lời kêu mời dấn thân. Chính từ
động lực của một “mối tương quan nhân bản”, động lực ”dấn thân vì tha nhân”,
động lực “lấy lý do hiện hữu trong tương quan với tha nhân” mà người ta tìm
thấy nẻo đường chân chính để đi vào Nước Trời.
Từ nguồn mạch căn bản của mối tương
giao cụ thể ấy, chúng ta có thể khám phá thêm một vài nét tiêu biểu :
Người ta nói rằng : phú quí sinh lễ
nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là người giầu sống trong một vòng vây của rất
nhiều tường rào của lễ nghĩa, của văn hoá, của lập trường tư tưởng... Những
điều đó chắc hẳn là tốt, nhưng chúng cũng không phải là không có thách đố.
Trong vòng vây của những lớp “lễ nghĩa” như thế, người ta đánh giá nhau qua
phong thái lịch sự, người ta lo buồn chỉ vì một lời nói thiếu lịch sự . . .
Những người nghèo là những người
“bị” bắt buộc đưa chính bản thân mình vào cuộc tương giao. Người nghèo chia sẻ
“hai đồng xu” thì không phải là lễ nghĩa hay danh giá, mà là chia sẻ chính sự
sống của bản thân mình. Người nghèo không bị dằn vặt nhiều vì những “lớp hàng
rào”. Khi người ta túng thiếu thì lễ nghĩa quí tộc như một thứ trang trí chẳng
quan trọng bằng chính những điều gắn liền với sự sống.
Mặt khác, chính vì người nghèo sống
trong sự bấp bênh, bấp bênh của chính bản thân, nên họ dễ tin tưởng và phó thác
trọn vẹn cuộc đời mình vào Thiên Chúa hơn. Với người nghèo, Thiên Chúa không
chỉ là một Đấng cần thiết trong suy tư đấu đá với những lý thuyết vô thần,
Thiên Chúa không chỉ là Đấng trợ giúp một vài khó khăn lặt vặt, nhưng Ngài là
nguồn mạch ban sự sống đích thực, Ngài thực sự là Đấng vượt qua cái chết và
Phục Sinh trong chính cuộc đời của mình.
Con người, trong biết bao nhiêu điều
cao quí cũng như tầm thường và xấu xa nhất của phận người, có duy một khả năng
có thể đưa con người lên cao hơn hết và giúp hoàn thành khát khao căn bản nhất
của con người, đó là khả năng lãnh nhận, lãnh nhận cho đúng và trọn vẹn. Khả
năng lãnh nhận nơi con người là điều cao quí nhất, bởi vì cuối cùng vận mạng
của con người chỉ có thể hoàn thành nơi Chúa, chỉ có thể sung mãn trọn vẹn khi
được làm con cái tự do của Thiên Chúa; những điều này không thể là kết quả của
tài năng, của nhân đức, của nỗ lực luân lý mà chỉ có thể là kết quả của ơn cứu
độ mà con người được lãnh nhận.
“Phúc
thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu
xa.Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật
lớn lao. {Mt 5,11-12}.
Chúng ta có thể nhận thấy những
người nghèo thời Chúa Giêsu, những người đổ xô theo Chúa và lãnh nhận những
hồng ân của Chúa.
Hơn nữa, trong tình yêu, là “bản
chất” của toàn thể “thực tại”, của Thiên Chúa, của con người và của vũ trụ, thì
chỉ có khả năng lãnh nhận mới có thể giúp con người đón nhận được những “món
quà” mà con người không bao giờ có thể mua bán hay đổi chác được, đó là “tình
người”, đó là chính bản thân của người dâng tặng. Người nghèo có khả năng lãnh
nhận chính tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, người nghèo cũng dễ có tâm tình tri ân chân thật hơn, bởi
vì tri ân sâu xa nhất chính là tri ân vì được đón nhận chính bản thân của Thiên
Chúa được trao tặng “miễn phí” trong tình yêu.
Dĩ nhiên, còn rất nhiều nét trong
“linh đạo của người nghèo” mà người Nữ Tử Bác Ái được mời gọi để khám phá nơi
người nghèo, nơi mỗi hoàn cảnh của mỗi người nghèo. Người Nữ Tử Bác Ái cần tìm
ra cáo “duyên” của từng nỗi đời, từng con người cụ thể đối với ơn cứu độ của
Thiên Chúa; điều mà các chị chỉ có thể thực hiện được trong niềm tin sâu xa nơi
Thiên Chúa.
[1] Xc. Đời Sống Thánh Hiến {ĐSTH}
26.
[2] Xc. ĐSTH 19.
[3] Thánh Au tinh, Diễn Giải
Thánh Vịnh 44,3; trích lại trong ĐSTH 24.
[4] Gioan dùng rất nhiều từ “giờ
đây” : Ga 3, 16-21, 35-36; 5, 24-25; 6, 46-47; 9, 39-41; 12, 31.44.46.
[5] Mt 6,33
[6] Ga 3,21, bản dịch của linh mục
Nguyễn Thế Thuấn.
[7] Xc. Bình Hoà, Những Biến Chuyển
Thần Học sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, Thời Sự Thần Học I, số 1, tháng 8-1994.
[8] Giống như một đứa bé, bị mẹ cấm
không được ăn quà vặt, mà không hiểu nguyên do tại sao. Khi còn bé, nó có thể
chấp nhận cách an vui, nhưng khi nó lớn lên một chút, thì những "cấm đoán
không lý do" ấy chỉ làm gợi lên sự tò mò hoặc tạo sự phản kháng ngấm ngầm
mà thôi.
[9] Theo thần học, tu sĩ không phải
là một nếp sống của riêng một số Kitô hữu; có những giáo sĩ là tu sĩ và cũng có
những giáo dân làm tu sĩ. Nền tảng của đời sống tu trì không phải là bí tích
Truyền Chức mà là bí tích Rửa Tội. Tuy vậy, giới tu sĩ giáo sĩ được mời gọi
sống trọn lành qua bí tích tuyền chức và chức vụ giáo sĩ; còn người tu sĩ giáo
dân thì được mời gọi sống trọn lành trên nền tảng bí tích Rửa tội.
[10] Xc. Bình Hoà, Thần Học về Đời
sống Tận Hiến, Thời Sự Thần Học 8, trang 7-25.
[11] Xc. Catherine M. Harmer, Đời tu
trong Thế kỷ XXI, Bellarmin, bản dịch của Lm Jos. R’Chao,O.P.
[12] Xc. Catherine M.Harmer, Sđd,
trang 26.
[13] Nt, trang 48.
[14] Xc. T/h Đời Sống Thánh Hiến ss.
17-19.
[15] Xc. Đặc điểm của Giao Ước Mới là
mối liên hệ giữa từng cá nhân một với Thiên Chúa. Xc. Kinh thánh Tân Ước, bản
dịch của nhóm CGKPV, Dt 8,11 [chú thích b], 1 Tx 4,9; 1 Ga 2,27; 5,20]. . .
[16] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Từ
những biểu hiện của tình trạng đạo đức hiện nay, cần trở lại với vấn đề bản
chất con người, nguyệt san Công Giáo và Dân Tộc, số126, tr. 33-36.
[17] Banquet, trích lại trong Trần
Thái Đỉnh, Sđd, trang 84.
[18] Xc. Ga 1, 14.
[19] Xc. Lc 4,18.
[20] Xc. Lc 23,32.
[21] Thánh Vinh Sơn, Các Nhân đức của
M.Naseau, IX,77.
[22] Xc. Mt 25, 40.
[23] Xc. Tuyển tập Vinh Sơn I, tr.
32-33.
[24] Xc. Jean Morin, C.M., Tìm
Hiểu Thánh Vinh Sơn, Animation Vincentienne; 16, Grande rue Saint Michel,
31400 Toulouse, 1991, Tuyển Tập Vinh Sơn I, trang 10-21.
[25] Tuyển Tập Vinh Sơn I, tr. 18.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.