Chia sẻ ưu tư về giá trị Nhân Bản Kitô Giáo
1. Một chút lịch sử
Nhập thể là
một trong những chiều hướng căn bản của nhiệm cục ơn cứu độ theo Thánh Kinh.
Thiên Chúa của Kinh Thánh là một vị Thiên Chúa không an vị trên trời, nhưng
dính dáng, liên lụy vào lịch sử loài người. Ngài dấn thân vào lịch sử nhân
loại, Ngài thích ứng với tầm mức nhân loại để tỏ bày chân lý cao vời của Ngài,
Ngài đón nhận những phiền lụy của nhiệm cục cứu độ đến độ trao ban chính Con
Một của Ngài. Trong chiều hướng ấy, chúng ta có thể thấy được một đường nét
quan trọng trong “phương thức cứu độ của Thiên Chúa” : Ngài chọn Dân riêng là
một chủng tộc Sêmít, và cũng trình tỏ bày huyền nhiệm bản thân Ngài, cũng như
nhiệm cục Cứu Độ con người trong truyền thống văn hóa Sêmít ấy; theo đó, chính
hành trình lịch sử của đời sống thật là nơi con người được mời gọi sống niềm
tin vào Chúa, chứ không phải trong một hệ thống lý thuyết, hoặc trong một cảnh
giới xuất thần, siêu việt nào đó bên ngoài đời sống thật của con người.
Thừa hưởng
truyền thống ấy, vào thời kỳ của Giáo Hội, Kitô giáo đã dấn thân vào lịch sử
nhân loại, thể hiện niềm tin trong cả một chiều hướng nhập thể, nghĩa là đón
nhận tất cả những sự kiện, những biến cố, những diễn tiến trong vận hành lịch
sử của nhân gian. Sống niềm tin chân chính không phải là “đóng cửa” để bảo vệ
một gia tài đã đầy đủ trọn vẹn của mình, hoặc bay lên một vùng trời nào hoàn
toàn khác lạ; nhưng là sống trọn niềm tin vào Chúa trên hành trình lịch sử, qua
việc đón nhận tất cả những thăng trầm trong thực tại trần gian.
Trong tiến
trình ấy, có một sự kiện quan trọng trong dòng lịch sử Giáo Hội, đó là việc
Kitô giáo đã bạo dạn dấn bước vào cuộc đối thoại và hội nhập văn hóa với nền
triết học khổng lồ của người Hy Lạp. Vào khoảng thế kỷ thứ II, Kitô giáo, trong
sự non trẻ về mọi mặt, về bề dày lịch sử cũng như về hệ thống lý thuyết, về lực
lượng nhân sự cũng như về vị thế chính trị… đã dám mạnh dạn sử dụng những khái
niệm của nền triết học Hy Lạp khổng lồ để diễn tả những chân lý đức Tin của
chính mình. Đó là một chọn lựa hết sức quan trọng trong dòng lịch sử Kitô giáo,
chọn lựa tạo nên một khúc quanh quan trọng. Chính truyền thống dấn thân đã đưa
Kitô giáo vào chọn lựa ấy, và chọn lựa ấy làm nên một hành trình sử mệnh của
Kitô giáo. Nhờ quyết định ấy, Kitô giáo có thể luôn đối thoại và hội nhập vào
dòng lịch sử luôn tiến triển của nhân loại, điều mà anh em Hồi Giáo sau này,
nói chung, đã rất khó để làm được; và vì thế, anh em Hồi Giáo, cho đến hiện
nay, có rất nhiều khó khăn trong việc thích ứng với thế giới hiện đại.
Dĩ nhiên,
việc sử dụng những khái niệm triết học Hy Lạp để trình bày đức Tin không có
nghĩa là chấp nhận hoàn toàn văn hóa Hy Lạp và cũng khó có thể tránh nổi những
“thương tích” Tuy vậy, sự phân biệt đó luôn là điều cần thiết. Chúng ta có thể
thấy một cách cụ thể là, trong suốt thời kỳ Kitô giáo phồn thịnh ở Châu Âu,
phần lớn những giá trị nhân bản của người Hy Lạp, những giá trị “đời” đã bị bỏ
quên hoặc bị loại trừ. Các nhà trí thức Kitô giáo, trong thời kỳ đầu của thời
Trung Cổ, đã phải từng bước hình thành lại những nền tảng mới của đời sống nhân
bản Kitô giáo trong cuộc sống thường ngày. Người ta gọi đó là những nhà Nhân
Bản Kitô giáo, chẳng hạn như Cassiodore (485-580), Denys le Petit, Grégoire le
Grand (540-604), Isidore de Séville (570-636)… Tuy vậy, có vẻ như điều các nhà
nhân bản Kitô giáo làm được còn quá ít, trong khi cuộc sống đời thường của con
người thì càng ngày lại càng thêm “chuyện”, thêm “vấn đề”, thêm nhiều thách
thức mới, nhiều hoàn cảnh mới, nhiều tình huống mới…theo như quy luật phát
triển bình thường của cuộc sống nhân gian. Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại
sao nhiều nhà trí thức thế kỷ XII, XIII bắt đầu ham mê “chuyện thế gian” trong
triết học của Aristote, và muốn vượt ra ngoài nền tảng triết học Platon, vốn hỗ
trợ đắc lực cho đời sống “thuần túy tôn giáo” của Giáo Hội. Cũng thế, khoảng
thế kỷ XV, XVI, nhiều nhà giáo dục, đặc biệt là ở Italia, đã muốn tìm lại trong
các kho tàng văn hóa Hy Lạp những bài học thiết thực hơn cho cuộc sống trần
thế. Rồi những giá trị nhân bản của người Hy Lạp được phục hồi một cách ồ ạt,
đưa đến một thời kỳ gọi là Phục Hưng.
Với biến cố
Phục Hưng, ta có thể nói được rằng, mặc dù tạo dựng được hệ thống triết-thần đồ
sộ, và mặc dù xây dựng được cả một nền văn minh Kitô giáo, chi phối toàn bộ
cuộc sống xã hội thời Trung Cổ, Kitô giáo vẫn chưa đáp ứng được hết những nhu
cầu của đời sống con người, những nhu cầu có thực của cuộc sống đời thường,
những nhu cầu vẫn đang tiến triển mỗi ngày mỗi nhiều hơn và tinh tế hơn. Với
biến cố Phục Hưng, rõ ràng Kitô giáo vẫn chưa làm nên được một hệ-giá-trị nhân
bản Kitô vững chắc, có sức thuyết phục….
Chuyển tầm
nhìn về biến cố Vatican II, chúng ta lại nhận ra một bước ngoặt mới mà có người
gọi là bước ngoặt của trào lưu nhân bản. Với Vatican II, Giáo Hội lại một lần
nữa, nhận ra những thiết sót của mình trong việc quan tâm đến những “chuyện
đời”. Hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng, lần đầu tiên, hướng nhìn về những
chuyện đời người với một cái nhìn có trách nhiệm, với một lời mở đầu thật ấn
tượng :
“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con
người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng
và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự
là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ…”(s. 1).
2. Một chút suy nghĩ về Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
Thế nhưng,
sau Vatican II, ít nhất là trong hiện tình của Giáo Hội Việt Nam, đời sống đức
Tin của Giáo Hội Việt Nam có vẻ như vẫn là một khối ”đặc sệt chuyện đạo”, những
giá trị Tin Mừng ít được thể hiện trong đời sống thường ngày của chính người
Kitô hữu, những giá trị nhân bản Tin Mừng không mấy khi trở nên được những khái
niệm sống căn bản của người Kitô hữu, và dĩ nhiên càng không phải là những khái
niệm sống lan toả đến cuộc sống của xã hội, của thời đại. Phải chăng chúng ta
có thể nhận ra một khoảng trống của hệ giá trị nhân bản Kitô giáo, đặc biệt
trong đời sống Giáo Hội Việt Nam
???
Ta có thể
ghi nhận một vài nét trong tình hình Giáo Hội Việt Nam như sau :
- Các hội đoàn Công Giáo tại Việt Nam hầu hết là những hội
đoàn đạo đức, nghĩa là tập trung chính yếu vào việc tổ chức sinh hoạt đạo và
huấn luyện các việc đạo đức, chứ ít tạo được một sức mạnh để có thể đem đạo vào
đời, gieo men Tin Mừng vào cuộc sống trần gian, thể hiện một thứ văn hóa đức
tin trong đời sống hằng ngày…
- Các giáo trình nhân bản được biên soạn và sử dụng trong
giới Công Giáo thường dựa theo những giá trị chung chung, hoặc dựa trên giá trị
nhân bản của một triết học khác, trong một nền văn hóa hoàn toàn khác. Chẳng
hạn nhiều giáo trình nhân bản dựa theo Khổng Giáo để trình bày những đức tính :
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; hoặc : công, dung, ngôn, hạnh; hoặc có người lại dựa
trên một số kỹ thuật sống theo kiểu “Đắc Nhân Tâm”; hoặc hoàn toàn theo nội
dung của các phương pháp khoa học của tâm lý thực nghiệm; hoặc là những thích
ứng rời rạc để giải quyết những vấn đề trước mắt một cách thực dụng … chứ không
có được một “nguyên lý” cơ bản, một “hệ giá trị” nền tảng, một tinh thần thấu
suốt của Tin Mừng Đức Kitô … Dĩ nhiên, người ta có thể nêu lên nhu cầu hội nhập
văn hóa như một lý do quan trọng, nhưng hình như trong những kiểu “hội nhập văn
hóa” ở các giáo trình giáo dục nhân bản ấy, không còn bóng dáng của giá trị
Kitô giáo.
- Có lẽ vì không cảm được các giá trị đặc trưng của nền nhân
bản Kitô giáo, nên các nghệ sĩ Công Giáo, hoặc diễn tả những cảm xúc nghệ thuật
của mình trong “phạm vi” thuần túy nhà đạo; hoặc không còn một chút bản sắc
Kitô giáo nào trong các cảm xúc ra ngoài phạm vi tôn giáo. Các thành quả nghệ
thuật của giới Công Giáo, âm nhạc, hội họa, thơ ca,… rất ít truyền tải được đến
công chúng những giá trị nhân bản đặc trưng của Kitô giáo…
- Không có hoặc có rất ít người bên ngoài Kitô giáo tìm được
một niềm đam mê nghiên cứu Kitô giáo như một giá trị nhân bản, sống tinh thần
Kitô giáo như một lựa chọn nhân bản. Quả thật người Kitô hữu có rất ít điều thú
vị trên “mảnh đất đời người” có thể chia sẻ với những người ngoài Kitô giáo,
ngoại trừ việc truyền đạo một cách “thẳng thừng”… Chúng ta có thể thấy rõ điều
này khi đếm các đầu sách tôn giáo trong các nhà sách hiện nay. Chúng ta chỉ có
những nhà trí thức là người Công Giáo chứ chẳng có, hoặc có rất ít, nhà “trí
thức - Kitô giáo”… Hình như, trong tình hình hiện tại của Giáo Hội, chỉ có
“nhân bản” và “Kitô giáo” đứng cạnh nhau chứ không có “nhân bản - Kitô giáo”;
“Kitô giáo là giáo lý Kitô giáo”, và “nhân bản là nhân bản”…. Chúng ta cũng có
thể thấy, trong những nhà sách công giáo, những bức ảnh nghệ thuật, những hình
thêu chữ thư pháp... đầy những chữ : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… mà chẳng hề có
được những khái niệm diễn tả giá trị căn bản của Kitô giáo như : “sống với”,
“trung tín trong dòng lịch sử”, “dấn thân”, “hy sinh”…
- Nguy hiểm hơn cả, chúng ta có thể thấy rất nhiều những
người Kitô hữu, và cả các “chức sắc” Công Giáo, trong cuộc sống hằng ngày, đã
chọn lựa lập trường, trình bày những suy tư, thể hiện trong ứng xử về những
chuyện đời thường,… theo một tinh thần, theo tôi, chẳng có một chút gì là tinh
thần Kitô giáo cả. Tôi muốn nói ở đây, không phải là những hành vi xấu xa, tội
lỗi, nhưng là những điều tốt, hoặc những điều bình thường. Chẳng hạn vẫn có
những nhà giảng thuyết cho rằng : hôn nhân giết chết tình yêu; sau khi cưới,
người ta chỉ còn sống với nhau vì cái “nghĩa”…; chẳng hạn vẫn có những người
Kitô hữu tìm sự bình an bằng cách chọn lối sống “đừng đụng gì đến ai” để khỏi
phiền hà; hoặc chọn sống cuộc đời mình, một cách chính yếu, theo một kỹ thuật
sống nào đó chứ không phải là khả năng sống-với người khác trong một cuộc phiêu
lưu; chẳng hạn có nhiều linh mục hãnh diện vì có những “thằng lính” của tao,
tao nói gì là nó làm răm rắp…
Có một lần,
trong một lớp của các tu sĩ, tôi ra đề tài thi cho một lớp Triết Học Nhập Môn
như sau : “Hãy nói lên châm ngôn sống của bạn và giải thích tại sao bạn chọn
câu châm ngôn ấy”. Thật đáng buồn khi hơn một nửa lớp trình bầy những châm ngôn
sống của mình đại khái như : “Học, học nữa, học mãi”; “Đi một đàng học một sàng
khôn”; “uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói”…; nghĩa là những châm ngôn sống chẳng
hề có một chút gì là nẻo đường của tình yêu, của liên đới, của hiệp thông…mà
chỉ là những kỹ thuật sống cho riêng mình.
Trong bầu
không khí ấy, tư tưởng của cha Anthony de Mello được mặc sức tung hoành. Quả
thật là liều lĩnh khi động vào một “tượng đài” như Anthony de Mello… Theo tôi,
trừ một vài cuốn như “Tiếp Xúc Với Thiên Chúa” …, tư tưởng của cha Anthony nói
chung tràn ngập thứ linh đạo “giác ngộ” chứ không phải linh đạo “sống-với”, khai
mở con đường giải thoát bằng đường lối “trầm mặc” để tìm thấy “nội lực” chứ
không phải đường lối yêu thương có tính “nhân thân”, ngã vị…theo truyền thống
Do Thái Kitô giáo…“Hiện tượng Anthomy de Mello” cho thấy một sự trống vắng giá
trị nhân bản Kitô giáo trong sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam.
Có không
một hệ giá trị nhân bản Kitô giáo ? Có lẽ không ai có thể nói rằng một Kitô
giáo, một sức sống, một giáo thuyết, một tổ chức trải qua bao ngàn năm như thế
lại không có một hệ giá trị nhân bản riêng. Hoặc là những giá trị nhân bản Kitô
giáo hiện nay đã trở thành những giá trị phổ biến và hiển nhiên đối với nhân
loại, nên cũng chẳng cần mang hình dáng Kitô giáo nữa ? Đâu là những nét căn
bản của hệ giá trị nhân bản Kitô giáo ?
Phải chăng người Kitô hữu có thể dựa vào chính
lịch sử cứu độ và đặc biệt Tin Mừng Nước Trời và biến cố đức Giêsu Kitô để nhận
ra những giá trị chân thật của đời sống con người như : sống-với, trung tín
trong dòng lịch sử, dấn thân, dám liên lụy, mắc nợ nghĩa tình, trân trọng phẩm
giá con người, tri ân, đón nhận và trao tặng bản thân, hiệp thông, hy sinh, tha
thứ, bác ái…??? Tôi tự hỏi rằng tại sao Kitô giáo lại không có được những thành
tựu nhân bản đầy tính chất Kitô giáo theo kiểu như những tác phẩm “Góp Nhặt Cát
Đá”, “Cái Cười của Thánh Nhân”…
3. Còn nữa thời đại Thánh Thần của Đức Kitô
3.1 Tầm mức nhân loại nơi Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu
Nếu như
Thiên Chúa giáo dục con người bằng cách tập trung tất cả vào bản thân của đức
Giêsu Kitô như một trục xương sống căn bản của tất cả vận hành lịch sử nhân
loại cũng như của đời sống cá nhân của mỗi con người, thì chắc chắn đó không
phải là khẳng định loại trừ tất cả những đường nét thành tựu của văn hoá nhân
loại, nhưng là cung cấp một “trục cứu độ” cho tất cả mọi nền văn hóa của nhân
loại. Nếu tất cả chân lý cuộc đời được “hội tụ” nơi đức Giêsu Kitô, thì điều đó
cũng hứa hẹn một sự “phân tán” rộng khắp Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô cho tất
cả những chiều kích dài rộng cao sâu của lịch sử nhân loại :
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng
bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ
dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất
cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những
điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà
loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói:
Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. (Ga 16, 12-15)
Ơn cứu độ
duy nhất nơi Đức Giêsu Kitô chắc chắn không phải là một lô cốt ngăn chận dòng
văn hóa của nhân loại, cũng không phải là một con đường song song với chuyện
đời thường, song song với những diễn tiến chính trị, kinh tế, khoa học, môi
trường,… và nhất là song song với văn hóa của con người. Ơn cứu độ duy nhất nơi
đức Kitô chính là trục cứu độ có khả năng khai mở con đường thành tựu chân
chính cho tất cả thực tại trần gian. Khẳng định ơn cứu độ duy nhất nơi đức
Giêsu không có nghĩa là coi những sự khác như một thứ “không cần thiết cho phần
rỗi”; nhưng là khẳng định chính Thần Khí của Chúa Kitô giúp con người có thể
tìm được một nguồn mạch phong phú và chân chính cho những giá trị nhân bản của
đời sống con người.
3.2 Giá trị nhân bản như một chân trời của Thánh Thần
Nói cách
chung chung, trước Vatican II, người Kitô hữu sống mọi nhân đức dựa trên một
“nhân đức” căn bản, đó là “nhân đức chịu vậy”. Người Kitô hữu coi trần gian là
nhà tập của Nước Trời, nơi đây, người ta chịu khổ, chịu đau, chịu mất mát để
lập công. Những công trạng ấy giống như những đồng tiền âm phủ, không xài được
ở trần gian nay, chỉ có thể xài trong thế giới mai sau. Một cách nào đó, lối
sống đạo như thế là tin vào Chúa Giêsu, tin vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu, nhưng
không tin vào mầu nhiệm Nước Trời đang có mặt ở trần gian.
Với Công
Đồng Vatincan II, người Kitô hữu hiểu ra, nơi nào có Chúa Giêsu thì đã có Nước
Trời; và Nước Trời đã có mặt, ở đây và lúc này, tuy rằng có mặt ở dạng “hạt cải”
và nắm “men” nhỏ. Đời sống đức Tin chắc chắn không phải là sống một giá trị
tiêu cực theo kiểu “chịu vậy”, nhưng là một niềm xác tín vào nét đẹp của Nước
Trời. Tin vào Chúa Giêsu thì cũng tin vào mầu nhiệm Nước Trời mà Chúa Giêsu đã
loan báo.
“Vậy
Người nói : "Nước Thiên Chúa giống cái gì đây ? Tôi phải ví Nước ấy với
cái gì ? Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong
vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được."
“Người lại nói : "Tôi phải
ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia
lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men." (Lc 13, 18-21)
Như thế,
chính những giá trị Nước Trời sẽ trở nên như chân trời của hành trình trần thế.
Một người tín hữu tỷ mỉ giữ trọn lề luật, nhưng giữ trong tinh thần đối phó,
nghĩa là Chúa bắt phải giữ thì đành phải giữ, Chúa bắt phải làm thì đành phải
làm… chắc chắn sẽ chẳng thể tiến bộ được. Hành trình tâm linh ấy không có chân
trời rộng mở nên không thể chuyển dịch được. Sức sống của đời sống ấy chỉ là
một sự ép uổng khiên cưỡng của “nhân đức chịu vậy”. Ngược lại, một người người
Kitô, dù chưa chu toàn được trọn vẹn những điều lề luật buộc, những luôn khao
khát Nước Trời, luôn khao khát những giá trị đẹp của Nước Trời, thì đã mở ra
được một chân trời tâm linh hứa hẹn.
Giá trị
Nước Trời cần được đón nhận như một nét đẹp, như một sự thú vị cho dù mình chưa
thực hiện được. Nhưng “nét đẹp” của một giá trị lại chỉ có thể được đón nhận
trong một hệ giá trị, đó chính là những giá trị nhân bản Kitô giáo. Thiếu một
hệ giá trị nhân bản Kitô giáo, đời sống đức Tin dễ rơi vào tình trạng “Hồn
Trương Ba da Hàng Thịt”, nghĩa là sống đời sống đức tin như một dị vật trong
chính tâm hồn của mình. Đời sống đạo như thế không có thần khí đổi mới của
Chúa, không có sự thú vị của tâm hồn, không có lòng khát khao “nét đẹp” của đời
sống con Chúa.
Tin vào
Nước Trời không phải chỉ là tin nước Thiên Đàng mai sau, những thiết yếu là tin
vào sức mạnh biến đổi trần gian của những hạt giống Nước Trời. Những hạt giống
được Chúa Giêsu gieo vãi, được Thánh Thần của Đức Giêsu vun trồng, trong đời
sống Giáo Hội, trong sinh hoạt hằng ngày của người Kitô hữu, sẽ có sức mạnh
biến đổi bộ mặt trần gian.
“Thực
vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái
đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi
thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp
lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được
chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương
quốc vĩnh cửu và đại đồng : ‘Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc
thánh thiện và ân phúc, vương quốc công bình, yêu thương và hòa bình’ (Missale
Rommanum, Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua). Vương quốc ấy hiện diện cách mầu
nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến”.(MV 39c)
Như thế,
người Kitô hữu đích thực không thể nào không hình thành nên trong tâm hồn mình
một chân trời rộng mở của giá trị Nước Trời :
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. (Mt 6,33)
Nguyễn
Trọng Viễn O.P.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.