Huyền Nhiệm Tình
yêu
1. Cái “nặng” và
cái “nhẹ”
Cái nặng là cục
sắt; cục sắt nặng nên nằm yên một chỗ và không dễ gì di chuyển nó được. Cái
nặng là cục vàng; cục vàng thì cũng nằm yên một chỗ; cục vàng còn được người ta
cất kín trong két sắt và chẳng mấy khi được chu du giữa trời đất mênh mông. Cái
nặng lúc nào cũng có tình trạng “an vị”, tự tại với chính mình và đòi cái gì
khác phải đến với nó chứ nó không tự đến với cái khác được. Người “nặng ký” thì
cũng vậy, người nặng ký thì được bảo vệ kỹ lưỡng, trong vòng an ninh chặt chẽ,
vòng trong vòng ngoài… Người “nặng ký” chẳng dễ gì có thể đến được những nơi
vùng sâu vùng xa, chẳng dễ gì gặp được những người “đầu đường xó chợ”, chẳng dễ
gì thông cảm hay chia sẻ được với những phận người đau khổ. Lâu lâu người nặng
ký làm một cuộc xuất du thì cuộc xuất du ấy cũng được dàn dựng với tất cả sự
cồng kềnh của một bộ máy an ninh và “điếu đóm”. . .
Cái nhẹ là cục
bông gòn, bay theo làn gió nhẹ, bồng bềnh lên xuống theo thời cuộc. Cái nhẹ là
hạt bụi, hạt bụi bị xua đuổi khỏi những nơi sang trọng, bị tống khứ ra những
nơi tồi tệ và bẩn thỉu nhất. Cái nhẹ thì không có gì để an vị, tự tại với chính
mình cả. Cái nhẹ suốt đời là kẻ viếng thăm cái khác mà chẳng bao giờ được cái
khác viếng thăm. Người nhẹ “tép riu” cũng giống như cục bông gòn, giống như hạt
bụi, họ có thể phiêu lưu như kẻ không nhà, và họ có thể đến được với người
khác, nhất là những nơi cùng khổ.
Tình yêu thương thường
không phải là “cái nặng” nhưng chính là “cái nhẹ”; là con người “nhẹ ký” để có
thể đến được với người khác.
2. Cái “thấm
nhập” và cái “cưỡng bức”
Cái “cưỡng bức” thì đè bẹp, trấn áp,
xô đẩy từ bên ngoài; cái cưỡng bức thì có sức mạnh để có thể bắt cái khác phải
ở đúng vị trí mình muốn, vận hành theo đúng cách thức mình muốn. Cái cưỡng bức
làm chủ được thân thể của cái khác, những lại không tạo được một sự hòa hợp sâu
xa. Cái cưỡng bức thường làm nên một trật tự bên ngoài, nhưng lại không có được
một chút cái “duyên” của một sự hòa hợp sâu xa. Con người có khả năng cưỡng bức
là một kẻ độc tài, là người chinh phục người khác bằng sức mạnh của cơ bắp, tạo
nên nơi người khác một nỗi sợ.
Cái “thấm nhập”
thì thường là cái nhẹ nhàng, nó “chinh phục” không phải bằng một sự cưỡng bức
bên ngoài, nhưng là một sự hòa hợp từ bên trong. Cái thâm nhập không phải là
một dị vật trong cơ cấu hữu cơ của điều nó thâm nhập, nhưng tan biến và trở nên
một với cái nó thâm nhập. Cái thâm nhập thì không còn giữ nguyên hình dáng của
mình, nhưng cấu tạo nên một cơ cấu hữu cơ với cái khác. Người có khả năng “thấm
nhập” là người được người khác đón nhận một cách tự nguyện, được yêu bằng chính
ý muốn tự do của người khác. Người thấm nhập là người để lại một chút vấn
vương, một chút thi vị, một chút thăng hoa trong tâm tình của người khác.
Cái cưỡng bức không thể mang lại tình
yêu được. Cái cưỡng bức chỉ có thể làm nên tình trạng “đồng nhi bất hòa”. Ngược lại, tình yêu thì
phải được thấm nhập, một cách nhẹ nhàng, một cách thi vị, một cách an hòa. Tình
yêu làm nên một nét duyên riêng của cấu trúc “hòa nhi bất đồng”.
3. Cái “hiệp lực”
và cái “đối lực”
Cái cưỡng bức
thì phải mạnh để có thể đàn áp. Cái cưỡng bức thì coi sức mạnh của cái khác như
một đối lực. Cái khác mạnh thì có nguy cơ làm cái cưỡng bức bị suy yếu, nên cần
phải tiêu diệt sức mạnh của cái khác bằng tất cả mọi biện pháp cưỡng bức. Cái
khác ấy là một “đối lực” làm trì trệ vận hành của cái cưỡng bức. Cái cưỡng bức
luôn có khuynh hướng nghi ngờ, luôn tăng gia biện pháp đề phòng, luôn đặt ra
thật nhiều đòi hỏi, đòi hỏi của luật lệ chi ly, đòi hỏi của phép tắc khó khăn,
đòi hỏi cứ càng ngày càng gia tăng thêm nhiều quy định.
Cái “hiệp lực”
thì lại đón nhận được sức mạnh của cái khác, sức mạnh được gia tăng trong sự
hiệp thông, tình nghĩa được bền chặt trong mối giây tình nghĩa. Cái hiệp lực
cần nhờ đến nhau như một “tiêu cực tính”, hai bên cần đến nhau như sức hút của
nam châm khác cực, nghĩa là có khả năng đón nhận, có khả năng thấm nhập, có khả
năng hiệp nhất sức mạnh của hai bên.
Người sống với
người khác như một đối lực là người có khuynh hướng trở thành bạo Chúa, luôn có
những người để mình loại trừ, luôn bắt người khác làm theo ý mình, luôn đề cao
trật tự bên ngoài, luôn coi sự phát triển của người khác là mối đe dọa cho
chính mình. Ngược lại, người sống trong tinh thần “hiệp lực” thì lại có thể nhờ
đến người khác; coi sự phát triển của người khác là điều tốt đẹp cho chính
mình.
4. Huyền nhiệm
tình yêu nơi Chúa Giêsu
Nhìn vào Chúa
Giêsu, chúng ta thấy Ngài giống như ”cái nhẹ”. Giống như hạt bụi để cho ngọn
gió của quyền lực thổi tung :
“Thời
ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng
trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông
Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem,
miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai
người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không
tìm được chỗ trong nhà trọ”. (Lc 2,1-7)
“Khi
Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi
Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc
địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói : Này đất
Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông
Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại ! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh
tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối
của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. (Mt 4, 12-16)
Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta thấy
Ngài từ chối sức mạnh cưỡng bức để chinh phục người khác. Chúa Giêsu từ chối mọi cám dỗ của Satan để thi hành được
lối cứu độ bằng bánh mì, bằng sự lạ và bằng quyền bình (x. Trình thuật Cám dỗ).
“Đức Giêsu bảo người ấy : "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ
chết vì gươm” (Mt 26,52)
Ngài chọn con
được của Chúa Cha, con đường hy sinh mạng sống cho bạn hữu. Chúa Cha luôn xác
nhận “nẻo được thấm nhập” nơi hành trình của Đức Giêsu; mỗi khi Chúa Giêsu đi theo lộ trình thấm nhập như thế, thì lại có tiếng của
Chúa Cha “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng
ta mọi đàng”. Ngài trở nên tấm bánh và ly rượu để thấm nhập trọn vẹn vào
người môn đệ…
Nhìn vào Chúa Giêsu,
ta thấy Ngài chữa lành bệnh tật, Ngài tha thứ tội lỗi, Ngài đón nhận được những
người bị loại trừ, Ngài sống trọn vẹn như một người “mang Tin Mừng cho những
người nghèo khó”. Tin Mừng của Ngài không làm cho cuộc sống con người sợ hãi và
dúm dó, nhưng mở đường cho các môn đệ được lớn lên, được vững mạnh. Lời Thánh
Irênê diễn tả thật tuyệt nét “hợp lực” của
tình yêu ấy “vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”.
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và
phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. (Ga 10,10)
Thiên Chúa là
Tình yêu, và tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu được thể hiện trong tất cả
những đường nét huyền nhiệm mà ta không thể thấy được nơi đâu khác. Tình yêu
của Thiên Chúa thì nhẹ bồng để đến với mọi người; tình yêu Thiên Chúa thì biết
chờ đợi để thấm nhập sâu xa vào con tim của con người; tình yêu Thiên Chúa mở
ra con đường cứu độ, con đường sống, sống phong phú dồi dào, bởi vỉ
Nguyễn Trọng
Viễn O.P
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.