Giáo Hội Việt Nam
trong sóng gió chính trị
Giáo Hội Việt Nam đang
trải qua một giai đoạn khó khăn, khó khăn trong lòng tin của người tín hữu đối
với tình trạng chia rẽ trong lòng Giáo Hội nói chung, và khó khăn trong việc bổ
nhiệm các đấng bậc trong hàng giáo phẩm…. Điều cần ghi nhận là cơn khủng hoảng
này xẩy ra đúng vào thời điểm mừng Năm Thánh 2010, dịp kỷ niệm 350 năm thiết lập
Giáo Hội tại Việt Nam, và 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm. Ghi nhận một sự
trùng hợp như thế có lẽ có thể giúp chúng ta dễ dàng hơn để nhận ra một ý nghĩa
nào đó trong bình diện đức Tin.
Phải chăng
những khủng hoảng hiện nay, trước tiên, cho thấy những lỗ hổng vốn có trong
lòng Giáo Hội Việt Nam
? Phải chăng những khó khăn trước mắt chính là một thử thách cần thiết để Giáo
Hội Việt Nam
trưởng thành hơn ? Phải chăng những khủng hoảng trong niềm tin và trong sự hiệp
nhất như hiện nay lại chính là cơ may để Giáo Hội Việt Nam có thể lột bỏ một thái độ sống
đức tin còn quá nặng hình thức và lễ nghĩa ? Phải chăng để có thể bước vào một
khởi đầu mới của giai đoạn trưởng thành, Giáo Hội Việt Nam cần nhận ra những
đòi hỏi mãnh liệt hơn, những thôi thúc toàn diện hơn của Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô, trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần ?
Chúng ta có
thể chấp nhận lối nhìn của đức Tin như thế trước những vấn đề sôi bỏng trong hiện
tình của Giáo Hội Việt Nam,
vì chính thánh Phaolô cũng đã nói :
“Chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi
ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như
ý Người định”.(Rm 8,28)
Nhưng đâu là những đầu
mối để chúng ta có thể nhận ra đây là một sự khủng hoảng để trưởng thành ? Đâu
là một chút ánh sáng để chúng ta có thể thuận theo sự hướng dẫn của Thánh Thần
Chúa, để thánh ý Chúa được thực hiện một cách tốt đẹp hơn ?
Hình như Giáo
Hội Việt Nam
hiện nay đang phải đối diện trước những tình huống mà trò đời của chính trị,
cách này cách khác, đã len lỏi vào. Tính cách ít nhiều có tính chính trị trong
các biến cố hiện nay đã làm cho Giáo Hội Việt Nam, xưa nay vốn sống êm ả trong
thế giới linh thiêng, trở nên lúng túng. Những giá trị Tin Mừng, xưa nay được
suy diễn theo những ý nghĩa đạo đức thiêng liêng, bây giờ hình như không giúp
gì được mấy cho người tín hữu để phân định phải trái. Cuộc chiến đấu chống lại
Satan không còn minh bạch trắng đen rõ ràng. Đây là lúc người tín hữu không phải
chỉ sống sự đơn sơ như chim bồ câu, nhưng còn phải tìm thấy một sự khôn ngoan của
con rắn :
“Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy
anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”. (Mt 10,16)
Quả thật, đời sống đức
Tin của Giáo Hội Việt Nam nói chung lâu nay thường bị gói gọn trong những vấn đề
thuần túy thiêng liêng; người giáo dân ít nhận ra “sứ mệnh trần thế” như một
thúc bách của chính niềm tin; các giáo sĩ thường không có khả năng hướng dẫn
giáo dân sống đức tin, thể hiện đức tin trong lãnh vực trần thế. Do đó, khi bước
ra khỏi “nhà thờ”, khi đụng vào những chuyện trần thế, cả giáo sĩ và giáo dân đều
dễ dàng rơi vào những thái độ, những lập trường hoàn toàn trần tục như một người
không có đức tin. Trong những biến động hiện nay, có lẽ có nhiều lập trường, thật
ra, chỉ là bộc lộ một khiếm khuyết của một đời sống đức tin vốn bị tách rời khỏi
môi trường sinh hoạt trần thế.
1. Ý nghĩa đích thực của niềm tin
Đức tin Kitô giáo
không phải là chuyện trên mây, nhưng là một sự dấn thân vào lịch sử trần thế, để
biến lịch sử ấy thành lịch sử ơn cứu độ. Do Thái Kitô giáo là tôn giáo mặc khải,
nghĩa là đón nhận giáo lý từ trời cao; nhưng giáo huấn ấy lại cần được thể hiện
trong cuộc sống đời thường, làm nên một thứ hoa trái riêng biệt của Kinh Thánh,
đó là “lịch sử ơn cứu độ”. Truyền thống Kinh Thánh vốn mang nét căn bản là tính
lịch sử, nghĩa là một thái độ của niềm tin được thể hiện, được minh chứng một
cách cụ thể trong chính chiều kích lịch sử, trong những bước thăng trầm của cuộc
đời. Bởi vì Thiên Chúa cứu độ của Ngài không phải bằng đường lối kéo lôi con
người ra khỏi đời sống thường ngày, Thiên Chúa không đưa con người vào việc kết
hiệp với Ngài như một huyền nhiệm cao xa, trong một thứ xuất thần nào đó; nhưng
Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ, một cách chính yếu, bằng cách đi vào lịch
sử, đồng hành với con người trong dòng đời, và giúp con người hoàn thành cuộc đời
trần thế của mình trên bình diện siêu nhiên. Nếu Thiên Chúa có ban cho ai đó những
hồng ân cao cả trong việc kết hiệp xuất thần với Ngài; nếu ai đó, được hân hoan
nhìn thấy tỏ tường vinh quang Thiên Chúa trên “núi Tabor”, thì mục tiêu của hồng
ân ấy cũng là để người ấy “xuống núi”, đi vào hành trình trần gian, giống như
Phêrô, Giacôbê và Gioan được mời gọi xuống núi để đi lên Giêrusalem, chịu khổ nạn
cùng với Chúa Giêsu.
“Lời hứa cứu
độ” của Thiên Chúa chính là một bảo đảm để con người có thể sống thái độ “trung
tín” với Chúa trên hành trình cuộc đời. Hai chiều kích ấy luôn gắn liền mật thiết
với nhau. Lời hứa cứu độ từ trời cao là nguồn mạch giúp con trung thành với “mặt
đất”; và chính lòng trung tín với Chúa trong hành trình cuộc đời biểu lộ một
cách chính xác nhất lòng tin tưởng của người tín hữu vào lời hứa cứu độ của
Thiên Chúa.
Do đó, đức
tin, theo Kinh Thánh, thiết yếu là tin vào sự can thiệp của Chúa vào lich sử đời
mình, và biến đời mình thành một lịch sử ơn cứu độ. Thái độ căn bản của người
Dân Chúa, không phải là một lòng đạo đức tự nó là tốt, cũng không phải là một
tư cách hay một trình độ tôn giáo cao vời, nhưng trước tiên và căn bản hơn hết
chính là lòng trung tín với Chúa, trung tín với giới luật của Chúa trong đời sống
thường ngày và trung tín với các giải pháp của Chúa trong những lựa chọn quyết định
của lịch sử. Người ta có thể thấy một sự trung tín của Hôsê ngay trong những giải
pháp của đời sống vợ chồng, một lòng tin được thể hiện “trên giường ngủ”; hoặc
một thứ “chính trị của niềm tin” nơi Isaia.
Sách Thánh
nói Dân Do Thái là một dân cứng lòng. Điều đó có lẽ không phải chỉ do tâm tính
của một dân tộc vốn thích ngang ngạnh, nhưng đúng hơn là do họ đứng trước một sứ
mệnh “không giống ai”, sứ mệnh sống niềm tin, đón nhận những chỉ dẫn của niềm
tin nhiều khi trái ngược với lối suy nghĩ khôn ngoan đời thường. Chính vì vậy
mà Dân đã thường giết các ngôn sứ... Sống đức tin tức là đón nhận sự hiện diện
của Chúa, nhận ra Thiên Chúa đang đồng hành trong lịch sử đời mình. Đời sống đức
tin là một lịch sử ơn cứu độ, điều đó có cũng có nghĩa là niềm tin chân chính
luôn phải là một niềm tin được thể hiện cụ thể trong “hành động”, trong dòng đời,
trong ý nghĩa toàn vẹn của một cuộc đời.
Sứ mệnh của
Giáo Hội hiện nay cũng thế, đó không phải chỉ là gìn giữ một thế giới tôn giáo,
nhưng chính là trở nên men để biến lịch sử nhân loại trở thành lịch sử ơn cứu độ
toàn vẹn của Thiên Chúa. Giáo Hội cũng cần phải dấn thân vào thế giới chính trị,
nhưng dĩ nhiên là không phải với tư cách một thế lực chính trị, mà như một kẻ
mang nặng sứ mệnh với cuộc đời.
2. Thế giới chính trị
Quả thật, thế giới
chính trị là môi trường khó khăn nhất trong việc phân định được một thái độ của
Tin Mừng. Từ thời Machiavelli (1469-1527), người được coi như nhà sáng lập môn
chính trị học, cho đến nay, càng ngày người ta càng nhận ra rằng con đường của thứ
“chính trị kiểu Machiavelli” là điều mà gần như không nhà chính trị nào có thể
tránh được. Ngay trong tư tưởng của Machiavelli, người ta đã thấy có một sự giằng
co không thể hóa giải. Tác phẩm làm cho tên tuổi của ông trở thành “bất tử”
chính là tác phẩm “Ông Hoàng” (xuất bản 1532, sau khi ông qua đời) trong đó tác
giả đề cao một thứ chính trị, nói nhẹ là một thứ chủ trương phi đạo đức trong
chính trị, nói nặng ra là một thứ chính trị mưu mô, thủ đoạn, dối trá, bất
nhân, tàn bạo… Thế nhưng người ta quên rằng tác phẩm lớn nhất của Machiavelli lại
chính là cuốn “Những Bài Nói Chuyện” (Discourses), được xuất bản cùng năm với
cuốn Ông Hoàng. Trong tác phẩm “Những Bài Nói Chuyện”, Machiavelli lại trình bầy
một quan điểm chính trị khác hẳn : ông tin tưởng vào lý tưởng cộng hoà; ông cho
rằng một chính phủ tốt là chính phủ hoà hợp được các nguyên tắc cai trị của hai
thể chế, dân chủ và quân chủ. Không nhà cầm quyền nào được an ổn nếu không
giành được sự ủng hộ của dân chúng. Quốc gia vững bền hơn hết là những quốc gia
có vua cai trị những lại có hiến pháp hạn chế nhà vua; Ông không đồng ý câu
phương ngôn cổ “Xây dựng trên dân chúng là xây dựng trên cát”… Nhận định về hai lập trường khác biệt trong
hai tác phẩm ấy, người ta cho rằng tác phẩm “Những Bài Nói Chuyện” diễn tả những
điều ông mong ước, còn tác phẩm “Ông Hoàng” lại là những suy tính về một giải
pháp hữu hiệu cho điều đang diễn ra trong thực tế. Nếu những suy luận ấy là
đúng, thì chúng ta cũng hiểu ra nỗi khó khăn thực sự trong việc hòa hợp giữa chính
trị và đạo đức, hoặc giữa chính trị và tôn giáo. Vì thế, ông tổ của ngành chính
trị đã phải gác lại mơ ước của mình, dù là mơ ước lớn, để chiều theo một đường
lối chính trị hữu hiệu trước mắt. Mặc dù người ta nhận thấy tấm lòng thật sự của
Machiavelli là một con người yêu nước, nhưng chính ông cũng đành phải chọn đường
lối của Satan. (Ở Anh quốc, vào thế kỷ XVII, thuật ngữ “Gìa Nick” thường được
dùng lẫn lộn để bổ nghĩa cho hai danh tử riêng là Machiavelli và Satan).
Quả thật,
chính trị là một lãnh vực thách thức nhất đối với nhà đạo đức, đối với tôn giáo
nói chung, và đặc biệt là đối đức tin Kitô giáo. Bước vào “sân khách” của thế
giới chính trị, niềm tin Kitô giáo có còn đủ khả năng để chơi theo phong cách đức
Tin của mình không ? Chẳng những các nhà chính trị chuyên nghiệp dễ dàng bán
mình cho Satan, nhưng tính cách chính trị còn dễ dàng biến những con người
thành tâm thiện chí trở thành những kẻ vô tình tăng thêm sức mạnh cho những thế
lực mưu mẹo gian manh. Bước vào những sinh hoạt ít nhiều có tính chính trị, người
nào “non tay” sẽ thường bị giật giây, bị lèo lái, bị lợi dụng. Khi đó, đang khi
người ấy tưởng rằng mình đấu tranh cho mục tiêu chân chính này, thì thực sự ra
người đó lại trở thành tay sai cho một thế lực nào khác để phục vụ cho một mục tiêu
khác. Trong tình hình ấy, thường chính đám đông là những con mồi, những con dê
tế thần, những người dễ bị xúi dục nhất, bởi vì đám đông thường có những phản ứng
bộc phát tức thời; trong khi những con “cáo già” trong chính trị lại là những
người đã có sẵn những mưu lược và họ điều khiển người khác như những con bài
trong bàn cờ chính trị.
3. Đức Giêsu hiền hậu
Chúa Giêsu tự nhận
Ngài có lòng hiền hậu : " Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với
tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29). Thế nhưng, ta
có thể thấy ngay trong Tin Mừng, hình như Đức Giêsu không phải là mẫu người hiền
lành như người ta tưởng. Ngôn từ của Ngài mạnh mẽ như Đấng có uy quyền : “Khi Đức
Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một Đấng
có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7, 28-29); Đức Giêsu la mắng
những người Biệt Phái và các Kinh sư nặng lời (Xc. Mt. 23, 13-36); Đức Giêsu
vào Đền Thờ, Ngài và xô đẩy, đánh đuổi những con buôn trong đền thờ. (Xc. Ga 2,13-17);
rồi trong cuộc tử nạn, khi quân lính đánh Chúa vì câu trả lời của Chúa với vị
thượng tế, Ngài cũng thẳng thắn chất vấn : “…sao anh lại đánh tôi” (Ga 18,23)…
Có lẽ chúng ta thấy Chúa Giêsu không
phải là một con người hiền từ theo nghĩa tâm lý, Ngài không phải là một người để
mặc cho người khác làm sao cũng được; Ngài cũng không phải là một nhân vật siêu
thoát, quân tử, theo kiểu không thèm đếm xỉa đến những điều người ta xúc phạm,
hoặc đối xử bất công với mình. Chúa Giêsu dấn thân vào cuộc đấu tranh, Chúa
Giêsu mạnh mẽ tố cáo những điều sai lạc, Chúa Giêsu không “hiền lành” như một cục
bột, hoặc như một người nhẫn nhịn, chịu đựng giỏi. Sự hiền lành của Chúa Giêsu,
một cách căn bản, cũng không phải là một phẩm tính luân lý do tu luyện, như khả
năng nhẫn nhịn và chịu đựng, để làm đẹp thêm cho nhân cách một con người.
Sự hiền hậu
của Chúa Giêsu nằm ở một bình diện khác, bình diện thực chất của ơn cứu độ. Khi
Isaia tiên báo về Người Tôi Trung của Giavê với những phẩm tính như : “Nó không
kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường” (Is 42,2), thì
chắc chắn đó không phải là một hình ảnh hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một cách
thức đấu tranh cho công lý không bằng sức mạnh của nhân loại : “Nó sẽ làm sáng
tỏ công lý trước muôn dân (…). Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không
yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu” (Is, 42,
1. 2-3).
Chúa Giêsu
hiền hậu, vì sau khi đã tức giận đánh đuổi con buôn ra khỏi đền thờ, Ngài lại
nói : "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.";
và “…Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người”. (Ga 2,19.21).
Chúa Giêsu hiền hậu, vì Ngài không muốn dùng phương thức bạo lực để chống lại bạo
lực, Ngài không muốn tiêu diệt những kẻ chống lại Ngài, nhưng lại muốn mời gọi
họ trở về đường ngay nẻo chính, và dùng sự hy sinh chính bản thân mình để mang
lại ơn cứu độ cho con người : “Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : "Hãy xỏ
gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?"
(Ga 18,11). Chúa Giêsu hiền hậu, Ngài đã trở nên như con chiên, không phải vì
con chiên không mở miệng kêu ca, nhưng chính vì Ngài là Chiên Thiên Chúa, con
chiên dám tự nguyện chấp nhận cái chết, dám hiến mình là của lễ mang lại ơn cứu
độ cho con người. Chính trên thập giá, Chúa Giêsu thực sự tỏ mình ra “Đây là
Vua Dân Do Thái” (Ga 23,38).
Có lẽ đường
lối của Chúa Giêsu có thể giúp cho người Kitô hữu Việt Nam nói chung
biết tìm ra cách ứng xử trong bóng tối đầy tính chính trị hiện nay. Cuộc đấu
tranh cho công lý, theo đường lối của Chúa Giêsu, không phải chỉ là một cuộc
tranh cãi, hay đấu tranh trên bề mặt của những sự kiện. Cũng như Chúa Giêsu,
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
có thể và cần phải lên tiếng, cần phải đấu tranh, và cần phải trách mắng nữa…
Thế nhưng, thực chất của ơn cứu độ lại diễn ra ở tầng sâu hơn, nơi đó Giáo Hội
không thể nào chỉ muốn thấy những chiến thắng và vinh quang, nhưng phải dám chấp
nhận trở thành hy lễ. Để thiết lập được công lý, không thể nào không có hy sinh,
không thể nào không có những con người dám chấp nhận chết đi, đánh mất mình đi
vì yêu thương người khác. Trong “bàn cờ chính trị của Nước Trời”, một đức Giêsu
bị kết án theo luật pháp, lại chính là vua, là thẩm phán để xét xử thế giới
theo tiêu chuẩn của tình yêu. Đó là phương cách đấu tranh của sức mạnh cứu độ đối
với sự gian manh của chính trị.
Kết
Quả thật,
bước thế giới chính trị, thế giới chính trị như một thế lực lớn nhất của nước
thế gian, người ta thấy rằng những đức tính luân lý, những giá trị nhân sinh,
những thứ chân lý của lý luận, những suy tính chiến thuật khôn ngoan, hợp lý,
những đòi hỏi công bằng và công lý chính đáng nhất của con người… hình như
không còn đủ đẳng cấp để đấu tranh nữa. Thế giới chính trị ma manh, quỉ quyệt
có thể lợi dụng tất cả, hóa giải tất cả, làm biến chất tất cả… Chúa Giêsu thi
hành sứ vụ công khai trong một bầu khí chính trị đặc biệt của vùng đất
Palestin, và Ngài bị kết án như một kẻ có nguy cơ làm xoay chuyển tình hình
chính trị :
“Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng
Hội Đồng và nói : "Chúng ta phải làm gì đây ? Người này làm nhiều dấu lạ.
Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người
Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." Một người trong
Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng : "Các ông
không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là : thà một
người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." (Ga 11, 47-50)
Tình hình
chính trị như thế chắc chắn sẽ xô đẩy Chúa Giêsu đến cái chết. Chúa Giêsu biết
rõ điều đó, nhưng Ngài không rút lui, không né tránh; Ngài lao mình vào bằng cả
sự sống của bản thân Ngài. Đức Giêsu đi vào tình hình chính trị bằng một sức mạnh
quá chênh lệch, xét theo tiêu chuẩn trần gian. Nhưng thật ra, Ngài đã đương đầu
với mâu thuẫn chính trị bằng thực tại cứu độ. Chỉ có tôn giáo cứu độ mới có thể
hóa giải được mâu thuẫn chính trị.
Chỉ có Nước
Thiên Chúa mới có thể đương đầu với thế giới chính trị như kẻ cầm đầu Nước thế
gian. Nếu Kitô giáo đánh mất mình trong sinh hoạt chính trị, nghĩa là chơi trên
sân khách theo phong cách của đội khách, thì phần thua sẽ là phần chắc. Ngược lại,
nếu trung tín với Chúa Giêsu, ta hiểu rằng, sự chiến thắng của Nước Chúa, như lời
Chúa khẳng định : “Thầy nói với anh em những
điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian
nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16,33),
sự chiến thắng ấy không nằm trong bình diện những sự việc trần thế, nhưng chính
là vận hành của ơn cứu độ đang lớn lên trên quê hương đất Nước Việt Nam.
Nguyễn
Trọng Viễn O.P.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.