Văn hoá đức Tin
Đức Tin là ân sủng siêu nhiên do Chúa ban. Nhưng đức Tin
cũng cần “đất sống”, cần một “môi trường” thuận lợi trong thái độ sống của con
người. Dĩ nhiên, Chúa có thể ban đức Tin phong phú và vững mạnh cho một ai đó,
dù là trong một “môi trường văn hoá” không thuận lợi. Tuy vậy, về phía con
người, chắc hẳn mỗi người cũng cần tự mình tìm tòi những thái đô thích hợp trên
hành trình gặp Chúa. Cũng vậy, cộng đoàn nói chung và mỗi thành viên trong cộng
đoàn đều liên đới trách nhiệm với nhau trong việc tạo nên một bầu khí “văn hoá
đức Tin” để cùng chia sẻ, cùng vun xới cho nhau trên hành trình đức tin ấy.
Tạm gọi là “văn hoá đức Tin”, để chỉ những gì trong con
người ít nhiều có khả năng hỗ trợ cho đức tin, giúp con người có thể đưa ra
những quyết định về bản thân và cuộc đời mình, tìm thấy niềm xác tín của chính
mình, rộng mở để đón nhận những chứng tá đức tin của cộng đoàn,…
Trải qua một lịch sử dài, đức Tin vẫn là một, nhưng thần học
đã hiểu về đức Tin nhiều cách khác nhau, dựa vào những “khẩu vị” khác nhau của
con người qua các thời đại. Nếu như thời Trung Cổ, nói chung, hướng tới những
chứng cớ khách quan để củng cố niềm tin, thì thời cận đại người ta lại lưu ý
nhiều tới xác tín nội tâm của mỗi người. Thời hiện đại, người ta lưu ý tới
nhiều bước ngoặt liên quan đến đức tin, bước ngoặt của kinh nghiệm, bước ngoặt
của thực hành, bước ngoặt của ngôn ngữ, bước ngoặt của trí tưởng tượng[1]
… Tất cả những yếu tố ấy đều liên quan đến phẩm chất của đức tin và cần được
trân trọng giữ gìn, phát triển phong phú trong một thứ “văn hoá đức Tin”.
1. Trở về với nguồn mạch sống-với
Điều căn bản trong thái độ tin chính là khả năng sống-với.
Đây là nguồn mạch căn bản của sự sống đức Tin trong truyền thống Sách thánh và
đặc biệt trong Kitô giáo. Nền tảng nhân học Kitô giáo khẳng định bản chất con
người trong mạc khải Thánh kinh : con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa và con người được dựng nên có nam có nữ.
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa
sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có
nam có nữ”. (St 1, 27)
Ý nghĩa sâu xa và trọn vẹn của nền tảng này là con người
được dựng nên để sống với Chúa và nhờ sống với Chúa sống mà có thể sống với
nhau. Khẳng định này cho thấy bản chất của con người vượt quá mục tiêu tự hình
thành ra mình, tự khẳng định mình, qua lao động trên vật chất hoặc qua việc thể
hiện những tài năng cao cả nào đó của chính mình. Mặc dù con người có bổn phận “thống trị mặt đất”, “làm bá chủ cá biển,
chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." (St 1,28), nhưng con
người không thể hình thành nên bản chất người và không thể hoàn thành vận mạng
của mình chỉ với việc lao động. Mặc dù con người có lý trí khôn ngoan và có tự
do cao cả, nhưng con người vẫn không thể hoàn thành cuộc đời mình với trí khôn
sáng suốt hoặc với một thái độ tự do bát ngát. Vận mạng của con người vượt quá
tình trạng sống thế nào, vượt quá cặp phạm trù đúng sai, để vươn tới chỗ sống
với ai khác, sống vì, sống cho ai khác. Vận mạng con người, từ trong mầu nhiệm
sáng tạo, đã bao hàm khao khát sống với, và chỉ có thể được hoàn thành khi sống
với Chúa, rồi từ đó mà có thể sống với nhau. Sách Giáo lý Giáo hội nói :
“Tận đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa vì con người được
tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con
người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và
hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm” (s.27)
Rồi sách Giáo lý trích lời Hiến chế Mục vụ :
“Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được
kêu gọi kết hợp với Thiên Chúa…và con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một
khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác đời mình cho Đấng tạo dựng mình” (MV
19,1)
Ý nghĩa sống-với
hướng dẫn toàn bộ đời sống đức Tin theo truyền thống Sách thánh. Chẳng hạn,
người dân Israen được Chúa trao ban lề luật; nhưng lý do căn bản để họ giữ luật
không phải là vì luật rất hay, mà là do lòng trung tín với Chúa. Tin, đó là
trung tín với Chúa và vì vậy cũng tuân giữ mọi điều Chúa dạy. Ai đảo ngược vị
thế hai yếu tố ấy, sẽ rơi vào thái độ đề cao sự “lựa chọn” và đi đến lập trường
của “bè rối”. Khi những người môn đệ của đức Giêsu cảm thấy "Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?"
(Ga 6,60); thì kết quả sẽ là “Từ lúc đó,
nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66). Cũng thế,
những mối nguy cơ khác trong đời sống đức Tin của người Do thái chính là : thay
vì tế lễ để thờ phượng Chúa, người ta dâng lễ vật chỉ để thanh thoả lòng mình
khỏi những bất công mình đã phạm; thay vì giữ các luật ô uế trong tâm hồn vì
tôn kính Chúa như sứ điệp của các ngôn sứ, người ta bám lấy hình thức bên ngoài
để tìm sự an toàn cho chính mình. Đó chính là “căn bệnh thực dụng” vẫn luôn
rình rập phá huỷ đời sống đức Tin đích thực của người Do thái.
Bản chất của đức tin như thế nằm trong nền “văn hoá sống
với”, nằm trong một sự nhạy bén về mối liên hệ đến ai khác, nằm trong hệ giá
trị đề cao những gì bộc lộ mối tương quan nhân thân. Được lớn mạnh trong nền
văn hoá đức tin ấy, người tín hữu phải nhạy bén với ai khác chứ không phải bám cứng
lấy một thứ nguyên tắc nào đó; phải là người có khả năng “vui với người vui,
khóc với người khóc” chứ không phải là người tự hào về sự hoàn hảo của chính
mình; phải là người tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc đời mình khi được đi
vào hành trình hy sinh cho ai khác chứ không phải kẻ thoả mãn vì khả năng khẳng
định chính mình…
Chỉ trên nền tảng sống-với, thái độ tin tưởng mới lộ ra nét
đẹp cao quí đặc biệt. Lòng tin, cả theo nghĩa đời thường cũng như trong tôn
giáo, không phải là một hình thức hiểu biết thấp kém so với lý trí, nhưng là
đường lối biểu lộ phẩm giá người trên lộ trình đến với ai khác. Ở Tây phương,
vào thế kỷ XIX, người ta đã từng hăm hở mổ sẻ sự vật và tưởng chừng như có thể
thấu triệt được thế giới; rồi người ta lại hăm hở mổ sẻ con người như một sự
vật với một sự lạc quan ngây ngô. Thế nhưng, vào thế kỷ XX, con người hiểu ra,
ngay với vũ trụ vật chất, con người cũng chẳng thể thấu triệt tường tận được,
huống hồ gì với con người. Thật sự, không ai có thể tham vọng hiểu biết trọn
vẹn con người, cũng như không bao giờ người ta có thể chiếm hữu ai khác như một
sự vật. Không ai có thể dán con dấu chất lượng để bảo hành cho một nhân cách. Con
đường đến với ai khác qua lý trí bộc lộ ra muôn vàn giới hạn.
Tin là thiết lập tha nhân như một chủ thể bất khả thấu đạt
bằng lý trí; trân trọng tha nhân như một chủ thể tự do trong khả năng tự “mạc
khải” và trao ban chính mình. Tin chính là khai mở lộ trình để con người tìm
thấy cửa ngõ “ra khỏi chính mình” và tìm thấy sự hoàn thành vận mạng của mình trong
gặp gỡ, trong yêu thương. Sống với ai khác một cách chân chính luôn luôn là đi
vào cuộc phiêu lưu. Những ai muốn tìm sự chắc tâm về mình sẽ sa đà vào khoái
lạc thống trị, hạ thấp bản thân mình trong một cuộc “chơi với sự vật”. Người ấy
sẽ không thể đi vào lộ trình của niềm tin, họ đánh mất khát vọng sống với, và
đánh mất cả hạnh phúc đích thực của một đời người.
Có thể nói được “văn hoá đức Tin”, một cách tổng quát, chính
là “văn hoá sống-với”; chính trong nền văn hoá này mà con người đáp lại hồng ân
đức Tin Chúa ban bằng quyết định tin của con người toàn diện, và được củng cố
nhờ sức mạnh chứng tá của cộng đoàn đức Tin[2].
2. Vận hành của sự sống đức tin
Nói chung, về phía con người, tin là một động thái phức tạp,
bao gồm nhiều yếu tố trong con người : lý trí, ý chí tự do, việc thực hành và sự
tương tác trong cộng đoàn đức Tin. Tin không gói gọn trong một hành vi riêng
biệt nào, nhưng là một thái độ nền tảng của ngôi vị người. Con người toàn diện
ấy quyết định trao tặng bản thân cho ai khác, đó là tin[3].
Quyết định tin là biểu lộ của một con người toàn diện; và
quyết định tin lôi kéo sự sống của con người toàn diện. Sự sống của niềm tin thể
hiện trong mối tương tác giữa lý trí, ý chí tự do, việc thực hành niềm tin và
sự tương tác trong cộng đoàn đức Tin. Cũng như kiến thức chân chính là một sự
sống chứ không phải là một kho hàng; cũng như ý chí quyết định, việc thực hành
và mối liên hệ tương tác trong cộng đoàn tin không phải là một tác động một lần
cho tất cả, nhưng là một dòng sự sống, có sự phập phồng, thăng trầm của sự
sống, thì quyết định tin của con người toàn diện cũng là một sự sống đích thực,
mang những dấu chỉ đích thực của sự sống. Nếu như quyết định tin của một con
người toàn diện và mối tương tác của chứng tá được nuôi dưỡng trong “văn hoá
sống-với”, thì lý trí, ý chí tự do và hành động của người tin cũng bộc lộ sự
sống trong những vận hành tương tác mà ta thử phân tích dưới đây :
2.1 Hiểu biết và kinh nghiệm
Đức Tin Kitô giáo có một phẩm chất
đặc biệt, được khẳng định xuyên suốt lịch sử Giáo hội, đó là có thể hoà hợp
được với lý trí. Tuy vậy, đức Tin không phải là “duy lý” nghĩa là xuất phát
hoàn toàn từ lý trí hiểu biết; và đức Tin cũng không phải là “duy tín”, nghĩa
là chỉ cần tin mà không cần hiểu biết. Đức Tin là ân ban của Chúa, được thể hiện
ra trong một “hành trình đi về” giữa việc chân thành đón nhân những chân lý do
Chúa mạc khải, được Giáo hội xác nhận, và những xác tín do kinh nghiệm trong cuộc
đời mỗi con người.
Kant cho thấy tri thức của con
người thuộc về một dạng đặc biệt, khác với kiểu tri thức của Chúa. Dạng tri
thức của Chúa là tri thức uyên nguyên, dạng tri thức của con người là tổng hợp,
tổng hợp giữa “mô thức”, là những ý niệm trong tâm trí, và “chất thể” là những
kinh nghiệm thật, gắn liền với giác quan... Tổng hợp này diễn ra giống như một
ly thuỷ tinh trong suốt khó nhìn thấy (mô thể) được đổ đầy chất sữa (chất thể)
để lộ diện rõ rệt là một ly sữa. Quả thật, chúng ta nhận ra, khi những ý niệm trừu
tượng được đổ đầy bằng kinh nghiệm, bằng thực tại của cuộc sống thật, chúng ta
tìm thấy sự hiện diện phập phồng của sự sống,
nhận ra được sức sống đức tin trong cuộc đời mình. Có lẽ cần phải nhắc
lại sự phân biệt giữa “cái chân” và “cái thật”[4]:
cái “chân” hiểu là những chân lý khách quan có tính phổ quát; cái “thật” hiểu
là những xác tín “chủ quan”, như là những dữ kiện “đổ dầy” cho chân lý khách
quan. Một cách nào đó, cái “chân” là cái “chúng tôi tin”; cái “thật” là cái
“tôi tin”. Sự sống đức tin thể hiện trong một “hành trình đi về” giữa cái chân
và cái thật, giữa kiến thức của lý trí và kinh nghiệm sống động.
Nếu việc đạo tạo đức Tin quá để ý
đến những yếu tố chân lý khách quan mà lại quên hướng dẫn người thụ huấn biết
phân tích kinh nghiệm, không để cho người thụ huấn có được thói quen tự quyết
định, từ những quyết định nhỏ đến những quyết định lớn, thì khó có thể nói rằng
người thụ huấn ấy thực sự có quyết định dấn thân trong đức Tin. Cũng như một
thanh niên không thể xây dựng gia đình chỉ dựa theo quyết định của cha/mẹ; cũng
như người chọn đời tu không thể đi tu do áp lực của gia đình, thì người kitô
hữu dấn thân vào hành trình đức Tin, đi vào cuộc gặp gỡ với Chúa cũng cần có
khả năng dám quyết định để có thể dám tin. Tin chắc chắn không phải là một thái
độ ấu trĩ, không phải là một thái độ hèn nhát, dựa dẫm, đoàn lũ. Đức tin là hồng
ân Chúa ban, gắn liền với hoa trái của một phẩm chất tinh thần, có khả năng mở
rộng chân trời trong hành trình đời người, để con người có thể thể hiện trọn
vẹn hơn phẩm chất nhân bản của mình. Tuy vậy, khả năng quyết định ấy không thể
trở thành một thứ ngựa chứng, mà cần có sự khiêm tốn, sự dễ dạy, hoặc nói cách
khác là cần có một “lương tri ngay thẳng” để tìm chân lý. Lương tri ngay thẳng
giúp cho những kinh nghiệm và xác tín cá nhân trở thành chất thể “đổ đầy” vào
những “mô thể” thuộc chân lý mạc khải.
Đức tin không phải chỉ là tri thức
khách quan mà cũng không phải chỉ là kinh nghiệm và xác tín chủ quan. Luôn có
một sự so le giữa hai tiêu điểm ấy, nhưng vận hành của sự sống đức tin chính là
sức năng động đi-về giữa tri thức và xác tín, giữ cái “chúng tôi tin” và cái
“tôi tin”.
2.2 Lương tâm và lề luật
Trong vận hành tương tác giữa chân
lý khách quan và kinh nghiệm của mỗi cá nhân như một chủ thể, ta thấy xuất hiện
yếu tố của một sự trung thực. Kinh nghiệm đức Tin chỉ có thể đi đúng đường, chỉ
có thể vươn tới chân trời của những chân lý mạc khải khi người tín hữu có được
một lương tâm ngay chính. Thái độ dám nghĩ luôn là cần thiết, nhưng đó phải là
thái độ dám nghĩ trong sự trung thực, trung thực với chính mình và trung thực
với lời mời gọi của Chúa trong lòng mình. Quả thực Thiên Chúa tôn trong con
người đến cùng, nên đã để lại trong ý chí tự do của con người một “vị quan toà”
của chính mình, đó là lương tâm. Lương tâm là hạt ngọc phản ảnh sự hiện diện của
Thiên Chúa trong lòng mỗi người và là tâm điểm của việc đào tạo xứng tầm với
phẩm giá con người.
Trong đời sống Giáo hội, người ta
đã thấy có một sự uý kỵ đối với khái niệm tự do, lương tâm,…là những điều có
hơi hướng của thứ chủ nghĩa cá nhân. Linh mục Mai Văn Hùng nói :
“Phải nhấn mạnh ngày rằng trong giới Kitô hữu, người ta đã dừng
lại ở một quan niệm suy thoái về tự do, một quan niệm rất xa quan niệm thần học
thánh Tôma đề ra. Có một sự khinh dể ngàn đời của Giáo hội với tự do “bị” quan
niệm một cách “tự phát” như là đồng loã với sai lạc và tội lỗi, nghĩa là thu
hẹp vào một thứ tự do thể lý thuần tuý trong hoạt trường được qui luật luân lý
nhường cho.”[5]
Cùng trong mạch văn đó, linh mục Mai Văn Hùng viết :
“Một dữ kiện khác, cũng rất thiết yếu cho cách đặt vấn đề của
chúng ta, đó là sự kiện đánh giá cao các quyền của lương tâm. Giáo hội đã tỏ ra
hờn dỗi, và thường thì chống lại sự kiện này bởi vì Giáo hội nối kết sự thăng
tiến các quyền lợi đó với ký ức đau thương của phong trào chống giáo sĩ của
Cách mạng Pháp. Sự từ khước dai dẳng đó (mãi cho tới Vatican II), nhân danh một
trật tự luân lý khách quan, là một trong những khía cạnh chính tạo ra cuộc ly
dị giữa thế giới thời mới và Giáo hội, bởi Giáo hội đã đi quá đà, coi tự do
lương tâm như là một thứ dịch, một thứ hoang tưởng, một thứ thác loạn thật sự”.[6]
Sự uý kỵ đó lại càng lớn hơn nhiều nơi trong đời sống đức
Tin của Giáo hội Việt Nam,
cũng như trong việc đào luyện đức Tin tại các cộng đoàn tu trì. Người tín hữu
Việt Nam
không cần tới lương tâm mà chỉ cần nhắm mắt tuân theo lệnh truyền của các Đấng bậc.
Người tu sĩ Việt Nam
có lẽ là những người ít được tạo điều kiện để thể hiện khả năng tự quyết định
về bản thân mình… Ta có thể thấy đó là một sự yếu kém trong “văn hoá đức tin”
???
Thật sự, với lương tâm, con người
mới có thể đứng trước lề luật của Chúa như một chủ thể. Nói cách khác, nếu con
người vâng phục Thiên Chúa, thì đó phải là một sự vâng phục xuất phát từ bên
trong, trong sự chân nhận của “con tim”, và trong thái độ tự nguyện qui phục,
chứ không phải là bị dí đầu dí cổ do một sức mạnh bên ngoài nào. Con người được
kêu gọi vâng phục lề luật khách quan, không phải như một “công công”, nhưng như
một con người có đầy đủ tư cách. Với lương tâm, con người tự nhận ra cái nghèo,
nhận ra mình chỉ là hư vô trước mặt Chúa, và con người tự nguyện quì gối xuống,
nhưng với tư thế “thẳng lưng”, chứ không phải như một kẻ gia nô khúm núm trước
một áp lực bên ngoài. Lương tâm bộc lộ phẩm giá tự do, tự chủ của con người
được chính Chúa tôn trọng. Chúa không bao giờ muốn chinh phục con người như kẻ
nô lệ.
Cũng như trong lãnh vực tri thức và
kinh nghiệm, ta cũng sẽ luôn thấy có sự so le giữa lề luật và lương tâm, nhưng
đó là sự so le cần thiết trong qui chế sống của con người. Chính trong sự so le
đó, đức tin tìm được ý nghĩa chân chính trong vận hành đi-về giữa lề luật và
lương tâm, biểu lộ sự sống đích thực của đức tin.
2.3 Thế giới siêu nhiên và việc thực hành trong đời thường
Sách thánh mặc khải cho chúng ta
một thứ tôn giáo của tương quan hiện sinh; không phải là một sự hoà đồng trong
bản tính, đưa đến một sự hoà tan vào nhau. Tương quan hiện sinh chân chính
không do ngất trí, không do xuất thần, không do sự bộc phát của tình cảm, nhưng
được hình thành do quá trình lịch sử, được đan bện do những sự kiện cụ thể.
Kitô giáo và đạo Sách thánh nói chung là đạo của những sự kiện, những sự kiện
cụ thể đan bện lại thành nên một bề dày nghĩa tình.
Đáng tiếc là chiều kích lịch sử ấy
ít nhiều bị quên lãng. Trong một thời gian khá dài, người kitô hữu đến với Chúa
theo một thứ tu đức học dựa theo cấp độ siêu thoát. Cho đến Vatican II, Giáo
hội mới tìm lại được chiều kích lịch sử, tìm lại một nền thần học lịch sử; và
cũng từ đó, dần dần Giáo hội tìm lại được phẩm chất đức tin như một tương quan
hiện sinh.
Cuộc trở về này làm sáng lên hai
khía cạnh quan trọng, một là khía cạnh tín lý, trong đó, ý nghĩa Cánh chung trở
thành trọng tâm của mọi nền thần học; và khía cạnh khác là khía cạnh luân lý,
trong đó chiều kích đức Cậy trở thành nền tảng quan trọng.
Đức Cậy không còn chỉ được hiểu là đời
sau được vào hưởng nước Thiên đàng, nhưng còn là sống gắn bó với Chúa trong
hành trình lịch sử đời mình. Chiều kích đức Cậy làm cho đời sống đức Tin, nói
chung, đặt chân xuống đất, đặt nền tảng của tất cả đời sống đức Tin trên dòng
đời trôi nổi của sự sống thật, lộ diện những con người thật và cũng lộ diện một
Thiên Chúa đến với con người trong tương quan ngã vị sống động; lộ diện một đời
sống tâm linh có phẩm chất của một thứ “trọng lượng hữu thể” trên những sự kiện
và diễn tiến của một “nhiệm cục cứu độ”.
Nói một cách khái quát, sống đức Tin là sống cuộc đời mình
như một lịch sử ơn cứu độ; trong đó, bản thân của mỗi người tín hữu được trao
ban cho Chúa trong một quá trình lịch sử, và cũng đón nhận được chính bản thân
Chúa trong một quá trình. Thực sự con người chỉ là chính mình trong dòng lịch
sử, và Chúa cũng xuất hiện cho con người như thế, nghĩa là trong dòng lịch sử.
Như thế, tương quan ngã vị như là nét đặc trưng của Sách Thánh không thể thành
hình trên một sự ngẫu hứng hay một thứ “cú sét ái tình” mà là một hành trình
thực sự, đặt nền trên những sự kiện thực của đời sống con người.
Ở đây, chúng ta nhận ra yếu tố thực hành trong “cơ cấu” của thái
độ tin. Tin không phải chỉ là tác động thuộc về lý trí, cũng không phải chỉ là
tác động thuộc về ý chí, mà còn thiết yếu được thể hiện trong thực hành. Trong
“qui chế hiện hữu” của con người, sự sống thật và sống mạnh được thể hiện trong
khả năng thể “ý nghĩa nội tâm” trong “chất liệu” ít nhiều có tính vật chất.
Ta thử xét một ví dụ : có ba người thanh niên cùng yêu một
cô gái. Người thứ nhất thì bộc lộ tình yêu bằng cách mỗi ngày phải gặp gỡ bằng
được cô gái mình yêu. Người thứ hai thì không có điều kiện gặp gỡ hằng ngày,
nhưng luôn tìm dịp để gửi những món quá tỏ lộ tình yêu với cô gái ấy. Người thứ
ba thì đi làm xa, nhưng tình yêu của anh ta với cô gái được thể hiện trong thái
độ quyết tâm làm ăn, góp góp tiền bạc, chuẩn bị cho gia đình tương lai… Cả ba
cùng yêu thương cô gái thật lòng. Nhưng người thứ nhất thì nuôi dưỡng tình yêu
bằng một “cự ly” gần nhất; người thứ hai thì xa hơn một chút. Người thứ ba thì
lại đóng ấn tình yêu thương trên những công việc lao động vốn không dính dáng
gì đến phẩm chất tình yêu. Ai là người có tình yêu mạnh mẽ nhất ?
Ta cũng có thể nói tương tự như vậy về ba hành động khác
nhau : một vị linh mục dâng thánh lễ, một ma sơ dạy giáo lý, và người giáo dân
cày sâu cuốc bẫm vì ý thức trách nhiệm với Chúa. Xét bên ngoài, ta thấy hành
động của linh mục thánh thiêng nhất, rồi đến ma sơ, cuối cùng là người giáo
dân. Tuy nhiên, nếu nhìn vào bên trong, ta có thể thấy rõ chính người giáo dân
mới là người có đủ sức mạnh để cử hành dấu ấn đức tin trên những chất liệu trần
tục nhất.
Người nào yêu và thể hiện tình yêu trong thái độ chăm chỉ,
kiên nhẫn làm việc để nuôi gia đình, thì đó là người có sức mạnh của tình yêu
thật. Đời sống đức Tin cũng tương tự như vậy, đức tin cần được thực hành và
thực hành đức tin là biểu lộ sức sống chân thật nhất. Đức tin cần được thể hiện
trong khả năng “cử hành đức tin” trên chất liệu của đời thường.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo xác định nội dung căn bản
của đức Tin :
“Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng
thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải” (s.
150)
Dĩ nhiên, điều thứ nhất, gắn bó với Chúa, là yếu tố căn bản,
nếu không thì đức tin không còn là thái độ sống-với nữa. Thế nhưng điều thứ
nhất không bao giờ có thể loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ điều thứ hai, “tự nguyện
chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải”. Sự sống đức tin chân chính
biểu lộ trong vận hành tương tác giữa “gắn bó với Chúa” và “chấp nhận mọi điều
Chúa dạy”.
“Đức Giê-su đáp : "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.
Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai
không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải
là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. (Ga 14, 23-24; xc.
14,21)
Một lần nữa, chúng ta lại nói về một sự so le giữa thế giới
siêu nhiên và sự thực hành trong đời thường. Chính sự so le ấy mới cho thấy
chân trời đích thực của hành trình đức tin, chứ không phải dựa theo chuẩn mực
của cấp độ siêu thoát. Để có một đức tin vững mạnh, không thể chọn thái độ
“đóng cửa”, đóng cửa nghi lễ phụng vụ với những diễn biến thực của cuộc sống
hằng ngày; đóng cửa đời sống thánh hiến với những vui buồn rất thực của một đời
người; đóng cửa đời sống đều đặn của tu viện với máu và nước mắt trong cuộc
sống xã hội; đóng cửa đời tu với những tình nghĩa gia đình…
Tạm kết
Có một sự khác biệt căn bản giữa nền văn hoá Hy la mà Giáo
hội đón nhận và đường hướng nội tâm hoá, đồng thời là phổ quát hoá cho mọi
người, của Kitô giáo. Nền văn hoá Hy la giúp Giáo hội diễn tả chân lý mặc khải
dưới những hình thức thần học vững chắc của lý trí, nhưng điều đó không thể làm
mất đi một thứ “biện chứng của con tim” trong truyền thống các ngôn sứ và nhất
là trong Tin Mừng của đức Giêsu Kitô :
“Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri
rất đúng về các ông rằng : 'Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng
chúng thì lại xa Ta. (Mt 15,7-8)
Có lẽ chính “yếu tố” Thánh Thần làm nên sự khác biệt căn bản
ấy.
Nhưng nếu đặt câu hỏi : nơi đâu ít Thánh Thần nhất ? thì ta
có thể trả lời : đó là nơi có hiện tượng “bị xỏ mũi” nhiều nhất ! Bản chất đức
tin được thể hiện trong bầu khí sống-với, nơi đây không có sự ăn chắc, sự an
toàn cho bản thân mà là một quyết định đi vào cuộc phiêu lưu với Ai khác. Ai sợ
phiêu lưu thì sẽ không thể sống-với, người ấy tự xỏ mũi mình bằng một sự cúi
đầu, còng lưng trước Chúa.
Cũng thế, sự sống đức tin luôn là một vận hành “đi-về”, đi
về giữa cái chân và cái thực, giữa lương tâm và lề luật, giữa siêu nhiên và đời
thường. Ai muốn xỏ mũi người khác thì sẽ luôn muốn đắp ụ ngăn cản những nẻo
đường đi về ấy.
Nguyễn Trọng Viễn
op
Bổ túc
*. Suy tư tìm nguyên nhân và suy tư tìm bản chất
Cách suy tư của người Hy lạp, là cội nguồn của triết học Tây
phương, có lối suy tư mà người ta gọi là “suy tư tìm bản chất”. Nguyên nhân sâu
xa của lối suy tư này là vì người Hy lạp không biết đến quan điểm Thiên Chúa
sáng tạo vũ trụ và con người từ hư vô. Trong văn hoá Hy lạp, thế giới tinh thần
và vật chất đều hiện hữu từ đời đời, và Thượng Đế hay thần thánh không sáng
tạo, nhưng dùng những “nguyên liệu” ấy để chế tạo nên vũ trụ và con người. Nỗi
băn khoăn căn bản của người Hy lạp là sự biến chuyển; và họ đi tìm cách giải
thích sự biến chuyển để xác định những nguyên nhân (nguyên nhân gần) đã tạo nên
bản chất của hữu thể.
Trong khi đó, người Do thái thì tin Chúa là nguyên nhân cuối
cùng và phổ quát của tất cả mọi sự. Niềm tin ấy giúp người Do thái vượt qua,
hoặc nhiều khi là bỏ qua, thái độ chúi mũi vào những nguyên nhân gần, để nối
kết mọi sự với nguyên nhân cuối cùng và phổ quát, đó là chính Chúa. Cách thức
này người ta gọi chung là “suy tư tìm nguyên nhân”.
Chúng ta có thể thấy một thí dụ. Sách Tông đồ Công vụ tường
thuật lại cuộc tranh luận của người Do Thái về hiện tượng những người Kitô hữu,
và lập trường của Gamalien :
“…Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị : hãy để mặc những người
này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị
phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ
được ; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa." Họ tán
thành ý kiến của ông”. (Cv 5, 38-39)
Thật ra, con người vẫn cần phải đi
tìm chân lý trong lối suy tư tìm bản chất. Theo châm ngôn vàng của thánh
Thomas, ân sủng không phá bỏ nhưng kiện toàn tự nhiên. Người Kitô hữu không thể
dễ dàng bỏ qua cơ cấu thực tại lù lù trước mắt, và càng không thể cưỡng bách
thực tại bằng một thứ đạo thiêng liêng nào đó. Tuy nhiên, thực sự cơ cấu thực
tại vẫn nằm trong chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Mặt khác, con
người cũng không thể nào khám phá đến tận cùng cơ cấu thực tại. Thái độ đích
thực của đức tin là, cuối cùng, đặt cơ cấu thực tại nhỏ bé và giới hạn ấy trong
chương trình phổ quát của Thiên Chúa. Phương thức suy tư tìm nguyên nhân (cuối
cùng) của người Do thái chính là một thái độ sống đức tin trong khát vọng tìm
chân lý vốn tiềm ẩn trong bản chất người. Ở đây, chân lý của lý trí được dành
lại phần quyết định cuối cùng cho chân lý của đức Tin.
Có phải chăng những tu sĩ trẻ ngày
nay thường quá lý sự, thường muốn giải quyết mọi việc một cách hợp lý nhưng lại
rất ít để cho lối suy tư tìm nguyên nhân của đức Tin ?
*. Nguồn mạch chứng tá
Trong truyền thống Sách thánh, chứng tá là một khái niệm
quan trọng. Từ trong Cựu ước, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc làm
chứng của con người. Tuy nhiên, chúng ta biết lời chứng của con người luôn có
nguy cơ sai lạc, vì sự dối trá. Tác giả Thánh vịnh cho thấy nhiều người công
chính bị hàm oan do những thứ làm chứng dối :
“Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì
lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương
bộ mặt hằm hằm sát khí”.(Tv 27,12. Xc. Tv 35,11…)
Từ khi có giao ước Thập giới, lời chứng dối bị lên nghiêm
cấm nặng nề (xc. Dnl 5,20) và bị coi như điều Thiên Chúa ghê tởm (xc. Cn 6,19)…
Hơn nữa, trong Sách thánh, ta thấy chính Thiên Chúa cũng “đứng ra” để làm
chứng. Thiên Chúa làm chứng cho những giao kèo giữa con người với nhau, giao
ước hôn nhân, hoặc những thứ giao kèo khác (Xc. St 35,53 tt; Gr 42,5…) và chính
Thiên Chúa tự làm chứng bằng cách công bố “tên” của Ngài và bằng những sự kiện
chứng thực được bằng kinh nghiệm của con người để có thể bảo đảm cho giao ước,
cho quyền năng và cho giáo huân Ngài ban cho Dân…
Trong Tân Ước, ta thấy khái niệm
lời chứng vượt qua mức độ luật pháp, đạt đến thái độ luân lý và mức độ tôn
giáo. Khi ta biết một người nào là tốt lành thì làm chứng cho người ấy, như
thái độ của người Do thái với đức Giêsu (x. Lc 4,12); đối với Cornelio (x. Cv
10,22); hoặc thái độ của cộng đoàn tiên khởi đối với các phó tế tiên khởi (X.
Cv 6,3)… Cuối cùng thì Sách thánh cho thấy chính đức Giêsu là nhân chứng trung
thành tuyệt hảo :
“Xin Đức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử
trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian,
ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình
rửa sạch tội lỗi chúng ta,…”(Kh 1,5. Xc Kh 3,14)
Nếu như trong Nhất lãm và sách
Tông Đồ Công Vụ, sứ mệnh loan báo Tin Mừng là mệnh lệnh ưu tiên số một, các
phép lạ kèm theo là để làm chứng cho lời rao giảng, thì trong Gioan cũng như
trong thánh Phaolô, việc làm chứng trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Tin
Mừng Gioan cho thấy Chúa Cha làm chứng
cho đức Giêsu; bản thân đức Giêsu là Lời Chứng, lời nói và hành động của đức
Giêsu cũng là lời chứng. Ngài làm chứng về những gì đã nghe và thấy nơi Chúa
Cha (xc. Ga 3,11.32); làm chứng cho chính Chúa Cha (Xc. Ga
5,31t.37t); Người làm chứng chống lại thế gian (Xc. Ga 7,7)…. Trong lời khẳng
định trước mặt Philatô, đức Giêsu tỏ bày mục đích nhập thể của Ngài là để làm
chứng cho chân lý :
“Ông Phi-la-tô liền hỏi : "Vậy ông là vua sao ?" Đức
Giê-su đáp : "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi."(Ga 18,37)
Người ta có thể thấy một sự chuyển biến ý nghĩa sâu xa từ Vatican
I đến Vatican II[7].
Trong khi Vatican I coi Giáo hội, với những phẩm chất như duy nhất, thánh
thiện, vững chãi, rộng khắp, phong phú, như là một dấu chỉ bày tỏ trước mặt
muôn dân, thì Vatican II lại tìm phương cách nhân hoá và nội tâm hoá dấu chỉ
Giáo hội và luôn nói tới “chứng tá của các kitô hữu”. Chính những người Kitô
hữu với đời sống thánh thiện và những cộng đoàn Kitô hữu, với đời sống hiệp
nhất và yêu thương, mới biểu lộ rõ rệt “dấu chỉ Hội thánh”. Từ Vatican II, dấu
chỉ Hội thánh được quy chiếu một cách thiết yếu vào phạm trù chứng tá. Trong
các hiến chế cũng như trong các tuyên ngôn và sắc lệnh của Vatican II, người ta
thấy khái niệm chứng tá trở nên đầy tràn, phong phú trong mọi khía cạnh… Sau
Vatican II, đặc biệt trong tông huấn của Kitô hữu giáo dân của đức Gioan Phaolô
II, phạm trù chứng tá vẫn là một trục chính của việc loan báo Tin Mừng.
Như chúng ta đã nói, ý nghĩa lời chứng không phải chỉ có
trong vấn đề loan báo Tin Mừng, nhưng chính là một phẩm chất căn bản của đức
Tin, của đời sống Giáo hội trong cuộc lữ hành đức Tin. Ý nghĩa chứng tá cần
phải được hiểu lại trong việc đào tạo, ngay cả trong việc dạy học, trong tổ
chức cộng đoàn…. Chẳng hạn, trong việc giảng lời Chúa của các linh mục, việc
trình bầy những chân lý khách quan vẫn luôn cần thiết, nhưng người linh mục
không vì thế mà làm nhẹ hoặc bỏ qua khía cạnh “thánh hiến cho chân lý” để có
thể rao giảng như một chứng nhân của chân lý.
Việc khám phá lại ý nghĩa của phạm trù chứng tá không phải
chỉ là một sự đổi mới để thích nghi mà là một sự đổi mới nhờ biết trở về nguồn.
Ý nghĩa ấy nằm trong mối liên hệ hữu cơ với những đổi mới khác về ý nghĩa đức
Tin.
*. Khả năng đọc dấu chỉ
Làm sao ta có thể biết đâu là ý Chúa ?
Câu hỏi này toát lược vị thế căn bản của đời sống đức Tin
theo truyền thống Do thái Kitô giáo. Một cách nào đó, ta có thể nói lối sống
của đức Tin chính là lối sống lần mò trong đêm tối của trần gian, nhưng được
ánh sáng của Chúa như ánh chớp lập loè soi lối. Vinh quang của Chúa không
thường trực và sáng ngời nhưng chỉ là “dấu chỉ” lấp lánh trên hành trình trần
gian. Thái độ của đức Tin khác với, hay đúng hơn là ngược với lối nắm bắt một
sự hiểu biết vững bền như một nguyên tắc hay như một khái niệm trừu tượng có
khả năng toát lược toàn bộ những sự việc đơn lẻ. Thái độ của đức Tin chính là
khả năng đọc dấu chỉ nơi sự kiện đơn lẻ và tìm thấy ánh sáng lập loè của Chúa trên
hành trình của đêm tối.
Dấu chỉ là một từ ngữ quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ và
trong đời sống Giáo hội, đặc biệt từ Công đồng Vatican II. Khả năng đọc dấu chỉ
là một biểu lộ cụ thể của sức sống đức Tin; và tiêu chuẩn căn bản của mọi dấu
chỉ chính hiệu chính là “dấu chỉ Giôna”, dấu chỉ đức Giêsu trong cuộc Tử nạn và
Phục Sinh. Quả thật chỉ có một Vị Mục Tử đích thực là Đức Giêsu, mục tử đích
thực hy sinh mạng sống cho đoàn chiên, nên ta có thể thấy dấu chỉ căn bản cho
vai trò quản trị trong Giáo hội chính là sự hy sinh tự nguyện để sự sống của
đàn chiên cũng như của mỗi một con chiên được phong phú dồi dào. Đúng như lời
thánh Irênê đã nói : “vinh quang Thiên
Chúa là con người được sống”.
[1]
Xc. Dermot Lane,
Kinh Nghiệm Về Thiên Chúa, Nguyễn
Luật Khoa OFM dịch, Nxb Phương Đông, lời tựa.
[2]
Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Sự sống đức Tin
như một dòng chứng tá, báo Chia Sẻ, số 69.
[3]
Xc. Les grands thèmes de la foi,
Dictionaire de Théologie chrétienne, dirigée par Joseph Doré, Desclée, mục Foi.
[4]
Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Cái Chân và Cái Thật, Chia Sẻ số 68.
[5]
Mai Văn Hùng OP, Làm Muối Cho Đời,
Thần học Luân lý cơ bản, lưu hành nội bộ, 1994-1995, trang 95.
[6] Mai Văn Hùng OP, Sđd, trang
120-121.
[7]
Xc. Dictionaire de Théologie fondamentale, sous la direction de René Latourelle,
Edition du Cerf, mục Témoignage.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.