Lòng Thương Xót Chúa
1. Thiên Chúa của lòng thương xót
Mặc khải
Thánh Kinh là cho chúng ta biết Thiên Chúa là tình yêu, nhưng tình yêu của
Thiên Chúa đối với con người được diễn tả với một đường nét đặc biệt, trong mối
tương quan riêng biệt của con người với Thiên Chúa : Thiên Chúa là Đấng cao cả
vô cùng, còn con người lại là những con người giới hạn và lỗi lầm. Thực
tế của tội tổ tông là một điều gắn liền với thân phận con người, gắn liền với
thân phận con người phải chết, và con người đã bất trung với Chúa cũng như phản
bội lẫn nhau. Bởi vì thực trạng của con người trước mặt Chúa là hư vô và là con
người có tội; nghĩa là đời sống con người luôn phải đối diện với sự ác và tội
lỗi, nên đời sống ấy đặt con người trước mặt Chúa như là những người cần được
đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lịch sử ơn
cứu độ chính là lịch sử của một thứ tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa, tình yêu Thiên
Chúa bầy tỏ lòng nhân từ, thương xót của Ngài trước nỗi thống khổ của người
nghèo khổ và người tội lỗi.
1.1 Chúa cứu giúp người khốn khổ :
Thiên Chúa
tỏ hiện chính bản thân Ngài như Đấng che chở người nghèo khổ, kẻ goá bụa, mồ
côi… Đây là kinh nghiệm đức tin của người Israen từ thời Xuất Hành, và kéo dài
suốt dòng lịch sử của Dân :
- Xh 3,7-20 : "ĐỨC
CHÚA phán : "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người
Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn
trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và
Giơ-vút. 9 Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en
đã thấu tới Ta ; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10 Bây giờ, ngươi hãy đi ! Ta sai ngươi đến với
Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập."
- Dnl 7,7: ĐỨC CHÚA đã
đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân,
thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân.
- Is 66,2 : Tất cả
những vật ấy, chính tay Ta đã làm. Tất cả những vật ấy đều là của Ta - sấm ngôn
của ĐỨC CHÚA.Kẻ được Ta đoái nhìn : đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan
nát, người nghe lời Ta mà run sợ.
Chúng ta có
thể đọc được những lời như thế tràn ngập trong Sách Thánh, đặc biệt là trong
Thánh Vịnh.
1.2 Thiên Chúa cứu giúp tội nhân
Một khía
cạnh thứ hai của lòng thương xót Chúa, chính là việc Thiên Chúa cho thấy lòng
nhân từ của Chúa còn vượt thắng được tội lỗi đến độ, vì tội lỗi, con người lại
được tiến sâu hơn vào mầu nhiệm lòng âu yếm của Thiên Chúa :
- Xh 34,6-16
: ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng : "ĐỨC CHÚA ! ĐỨC CHÚA !
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu
đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con
cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông." 8 Ông Mô-sê
vội vàng phục xuống đất thờ lạy 9 và thưa : "Lạy Chúa,
nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân
này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội
lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài."
- Hs 1,6.11,8 : 1,6 Bà
lại có thai và sinh một người con gái. ĐỨC CHÚA phán với ông : "Hãy đặt
tên nó là Lô Ru-kha-ma ("không-được-thương") vì Ta không còn chạnh
thương nhà Ít-ra-en, không xử khoan hồng với chúng nữa. (…). Hs 11,8 : Hỡi
Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi ! Hỡi
Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành ! Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được ? Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi
hồi".
- Gr 31,20 : -
Ép-ra-im có phải là đứa con Ta yêu dấu, một đứa con Ta rất mực mến yêu ? Vì mỗi
lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta
thương nó, thương nó thật nhiều, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
- Is 49,14-20 : Xi-on
từng nói : "ĐỨC CHÚA đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!" Có
phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã
mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi
bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta, thành luỹ ngươi,
Ta luôn thấy trước mặt.
1.3 Lòng Nhân từ kêu gọi Hoán cải
Tuy nhiên,
đó không phải là một Thiên Chúa yếu hèn, ủy mị, chỉ biết cưng chiều. Lòng nhân
từ và tha thứ không phải để người ta ỉ lại, dựa dẫm, nhưng là để kêu gọi tội
nhân quay về với Ngài :
- Gr 3,12 : Hãy đi, hô
lên cho miền Bắc nghe những lời này : Trở về đi, hỡi Ít-ra-en phản bội - sấm
ngôn của ĐỨC CHÚA ! Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa, vì Ta giàu
lòng xót thương - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - và Ta không giận dữ mãi đâu.
- Hs 11,9
: "Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt
Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta
là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ.
- Is 55,7 : Kẻ gian
ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang
có mà trở về với ĐỨC CHÚA - và Người sẽ xót thương -, về với Thiên Chúa chúng
ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.
Quả thật,
Kinh Thánh diễn tả một thứ đạo cứu độ chứ không phải đạo luân lý. Đạo cứu độ là
một mặc khải vể Thiên Chúa như Đấng từ bi thương xót, tỏ bầy đường lối cứu đô
của Ngài trong một thứ logích của tình yêu luôn dành ưu tiên cho những người
nghèo, những người bé mọn. Thiên Chúa là Cha yêu thương, không tìm danh giá cho
mình hay tìm xoa dịu tính tự ái của mình, nhưng tỏ tình yêu đặc biệt cho những
đứa con bé mọn nhất, những người rớt vào những hoàn cảnh khó khăn nhất, cả về
vật chất lẫn tinh thần.
2. Đức Giêsu tỏ bày lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha
Sứ vụ của
Đức Giêsu rõ ràng là nhằm tới những người nghèo: Khởi đầu sứ vụ Chúa đã được
đầy Thánh Thần để đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo, Hành vi của chúa,
lời giảng của Chúa phô diễn lòng nhân từ của Thiên Chúa. Điều này được diễn tả
đặc biệt trong Tin Mừng Luca
- Lc 4, 17-21 : "Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân
của Chúa. Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi
xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với
họ : "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
- Đức Giêsu chỉ vui mừng một lần duy nhất khi nhận ra nhiệm
cục cứu độ của Chúa Cha được thể hiện : Lc
10,21 : Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và
nói : "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu
kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải
cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Kiểu sống
của Chúa Giêsu la lê la với những người nghèo. . . Ngài luôn bênh vực những
người nghèo và xác định phẩm giá của người nghèo dựa vào lòng tôn trọng của
chính tình thương của Chúa. Niềm vui mừng lớn nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu chính
là khám phá ra thánh ý yêu thương đặc biệt của Chúa Cha dành cho những người bé
mọn nhất.
Quả thật,
Chúa Giêsu thể hiện vai trò cứu độ của Ngài, không phải như một đấng uy quyền,
nhưng như Đáng đầy lòng từ bi thương xót. Chính bằng đường nét đó, Chúa Giêsu
tỏ mình ra là Đấng Mêsia đích thực :
-
Mt 11, 2-6 : Ông Gio-an lúc ấy
đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người
rằng : 3 "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?" 4 Đức Giê-su
trả lời : "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai
nghe : 5 Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi
được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,
6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi."
Chúa Giêsu
thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha bằng cách thể hiện hình ảnh Thiên
Chúa là Đấng nhân từ. Thư Do Thái cũng cho thấy Đức Giêsu là vị Thượng tế nhân
từ
- Dt 2,17 : "Bởi
thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một
vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội
cho dân."
Và như thế
là tỏ hiện ước muốn của Thiên Chúa : Dường khi khi ký giao ước với dân, TC đã
làm cho dân thành đồng bào "cùng nòi giống với Ngài"
- Cv 17,28 : "Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống,
cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói : 'Chúng ta cũng
thuộc dòng giống của Người.'
3. Sống linh đạo lòng thương xót
Tuy nhiên,
tình yêu của Thiên Chúa tỏ bày một đường lối quan trọng cho con người. Mikha
tuyên sấm về việc Giavê triệu tập số còn sót lại bằng những con chiên què,
những người bị tan tác tha phương và không còn bám víu vào loài người[1].
Trước tiên,
chúng ta thấy Mi-kha tuyên báo số còn sót lại, tức những người được Giavê yêu thương và cứu thoát là những người bé mọn
nhất, tầm thường nhất trong Dân, những người đau khổ :
- Mk 4, 6-7 : “Ngày ấy
- sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - chiên nào què, Ta sẽ quy tụ lại, chiên nào đi lạc xa
hay bị Ta giáng hoạ, Ta sẽ tập hợp về. Ta sẽ dùng chiên què làm số sót, biến
chiên đi lạc thành dân tộc hùng cường".
Đó là lời
tuyên sấm của Chúa, lời tuyên sấm mang lại niềm hy vọng cho những người bé mọn
nhất, những người không còn biết bám víu vào đâu để rồi đặt tất cả cuộc đời
mình, tương lai của mình vào tay Thiên Chúa. Đám dân còn sót lại, theo sự chọn
lựa của Chúa, chính là những người nghèo hèn nhất, những người bị loại ra bên
lề của cuộc sống :
- Mk 5,2.6 : “Vì thế, Đức Chúa sẽ
bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót
của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.(…) Bấy giờ giữa chư dân, số
còn sót lại của nhà Gia-cóp sẽ như sương ĐỨC CHÚA gửi đến, như sương móc trên
đám cỏ xanh. Nó không cậy trông ở người thế, chẳng mong chi nơi con cái loài người.
Lời tuyên
sấm của Mikha cho thấy nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa, đường lối của Thiên
Chúa khác hẳn cách suy nghĩ bình thường của con người. Rồi Dân bé mọn ấy, những
con chiên què ấy, sẽ được Chúa triệu tập lại, cũng nhờ một đấng Mêsia xuẩt hiện
ở một nơi nhỏ bé mà người ta không chờ đợi. Vâng, ngưòi thứ nhất trong sống còn
sót lại ấy chính là một vị vua Messia, sinh ra tại thôn Bethlehem, một thôn nhỏ nhất trong các thành phố của Giuđa, thậm chí có nhiều lúc
còn không được kể như một đơn vị hành chính.
- Mk 5, 1 : “Phần
ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi
ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.
Ta biết
rằng Bethlehem
vẫn được coi là nơi nhỏ bé. Sách Giosuê, khi kể danh sách các thành của Giuđa,
bản văn tiếng Hipri không kể đến Bethlehem, (Gs 15,58); chỉ có bản Hy lạp mới
thêm vào.
Đường lối
cứu độ của Thiên Chúa tỏ bày một sự đảo ngược kỳ lạ :
- Mt 19,30 : "Nhiều
kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng
đầu." (Xc. Mt 20,16; Mc 10,31; Lc 13,30)
Đường lối
ấy thể hiện một cách cụ thể trong lịch sử Giáo Hội :
- 1 Cr 1, 26-31 :
"Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa kêu gọi, thì
trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người
quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì
Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là
yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; 28 những gì thế
gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ
diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt
Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức
Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát
xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và
cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng : Ai tự hào thì hãy tự hào trong
Chúa.
Kinh Thánh
cho thấy những kẻ làm vui lòng Thiên Chúa không phải là là những người tự hào
cho rằng minh công chính, nhưng là những tội nhân biết hối hận, sánh như con
chiên và đồng bạc vị mất nhưng lại được tìm thấy, như người con hoàng trở vể
(X. Lc 15, 7.10.20 tt )
Chóp đỉnh
của thư Roma nằm trong sự khải mặc khải này : trong khi người Do Thái quên lãng
lòng nhân từ của Thiên Chúa và cho rằng họ được công chính nhờ công trình hay
việc thực hành lề luật, thì thánh Phaolo lại tuyên bố rằng : họ cũng là tội
nhân, và như vậy họ cần lòng nhân từ… và như thế, họ chỉ được nên công chính nhờ đức tin..
Quả thật,
người Kitô hữu cần khám phá ra một thứ linh đạo của lòng thương xót, đó là dám
sống thật con người giới hạn và tội lối của mình. Khi con người ý thức mỗi bất
hạnh, tội lỗi của mình, thì lúc đó, con người nhận ra lòng nhân từ vô biên của
Thiên Chúa biểu lộ cho họ.
Đồng thời,
người Kitô hữu cững được mời gọi để sống lòng thương xót của Chúa đối với anh
chị em của mình :
- Lc 6,36 : "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh
em là Đấng nhân từ.
- Cl 3,12-15 : "Anh
em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế,
anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong
anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh
em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết
mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm
hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn
bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
Mc 5,19
5,19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo :
"Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã
làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào."
Rm 9,15-18
9,15 Quả vậy, Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê : Ta
muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương. 16 Vậy người ta được chọn
không phải vì muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót. 17 Quả thế, trong Kinh
Thánh, Thiên Chúa cũng nói với Pha-ra-ô : Ta đã cất nhắc ngươi lên, chính là để
dùng ngươi làm cớ cho mọi người thấy sức mạnh của Ta, và để cho danh Ta lẫy
lừng trên khắp hoàn cầu. 18 Vậy Thiên Chúa thương xót ai là tuỳ ý Người,
và làm cho ai ra cứng cổ cũng tuỳ ý Người.
Rm 11,30-32
11,30 Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục
Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục ; 31 họ cũng thế : nay họ
không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ
cũng được thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người
trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.
Rm 12,1
12,1 Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng
ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh
thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng
Người.
Rm 15,9
15,9 Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa,
thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép : Vì thế giữa muôn dân
con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.
Ep 2,4
2,4 Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất
mực yêu mến chúng ta,
1Tm 1,13-16
1,13 Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và
ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô
ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho
tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với
Người. 15 Đây là
lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận : Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian,
để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su
Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà
đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.
Tt 3,5
3,5 Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên
những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ
phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới.
Dt 4,16
4,16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai
Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi
cần.
Gc 5,11
5,11 Kìa xem : chúng ta tuyên bố : phúc thay những
kẻ đã có lòng kiên trì ! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và
đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.
1Pr 1,3
1,3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta ! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để
nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại,
* Lòng Thương xót của Đức Kitô
2Tm 1,18
1,18 Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi Chúa lòng
thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở Ê-phê-xô, thì anh
đã quá rõ.
* Lòng thương xót của người Kitô hữu
Lc 6,36
6,36 "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh
em là Đấng nhân từ.
Mt 5,7
5,7 Phúc
thay ai xót thương người,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Gc 2,13
2,13 Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ
không biết thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử.
Gc 3,17
3,17 Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở
nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và
sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình.
1Pr 3,8
3,8 Sau hết, tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất
trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và
khiêm tốn.
* Xin coi chữ "misericorde (nhân từ)" trong Điển
ngữ Thần Học Thánh Kinh
- Nhân từ : ở Tây Phương : trắc ẩn, tha
thứ… không diễn tả
hết ý nghĩa của dân Israen, theo đó, lòng nhân từ kết hợp hai luông tư tưởng :
trắc ẩn và trung thành.
- Ở Israen : Rahamim
: Sự gắn bó tự nhiên với người khác; bắt nguồn nơi cõi lòng của người mẹ
(rêhem : 1V3,26) hoặc nơi tâm can (rahamim) của người cha (Gr 31,20; Tv 103,13;
hoặc của người anh (stk 43,30). Đó là lòng âu yếm, trắc ẩn về một tình huống bi
thảm, thể hiện ngay nơi cử chỉ…
-Từ ngữ Do Thái thứ hai : Hêsed: nhân từ, biểu thì sự hiếu từ, nghĩa là mối liên lạc
nối kết hai con người và hàm chứa sự trung thành. Ở đây, lòng nhân từ
không chỉ là âm hưởng của một bản năng nhân từ và có thể lầm lẫn về đối
tượng cũng như về bản chất của mình, nhưng là nhân từ có ý thức và dụng
ý. Đó cũng chính là sự đáp trả một bổn phận nội tâm, lòng trung thành với
chính mình.
- Linh đạo của người nghèo :
- Sống bằng bản thân : vượt thoát được tầng lễ nghĩa. Cần
Chúa cho chính bản thân mình, cho cuộc đời đau khổ và tội lỗi của mình, chứ
không phải cần Chúa như một chút hoa lá cành làm đẹp cuộc đời…
- Mắc nợ nghĩa tình : sống tương quan con người chứ không
phải sống vì một lý tưởng. Sống mạnh mẽ hơn là sống với sự vật rất nhiều.
2.1 Kinh nghiệm tương giao cụ thể
Kinh nghiệm của thánh Vinh Sơn trong lãnh vực
này khám phá ra người nghèo luôn sống mối tương giao cụ thể.
“… Đối với người nghèo, Chúa ban cho họ có đức tin sống động; họ
tin, họ sờ mó, họ nếm cảm Lời hằng sống. . . “ {Coste XII, 170-171}
Đối với
người nghèo, kinh nghiệm cụ thể lớn hơn lý thuyết. Người nghèo sống mối tương
quan sống động với ai khác và điều đó chính là nét căn bản của truyền thống
Kinh Thánh. Mối giao tiếp con người với nhau là nét đặc trưng của truyền thống
Kitô giáo. Sống đức Tin là giao tiếp với Thiên Chúa và hiệp thông với tha nhân
chứ không phải sống theo một học thuyết “ăn ngay ở lành”. Lý tưởng của đời sống
này không phải là tìm thấy niềm vui vì bản thân mình hoàn hảo, không phải thực
hiện một thái độ anh hùng hay thể hiện tư cách một “chính nhân quân tử”, mà là
để cho ai khác dính dáng vào bản thân mình và nghe được từ đó một lời kêu mời
dấn thân. Chính từ động lực của một “mối tương quan nhân bản”, động lực ”dấn
thân vì tha nhân”, động lực “lấy lý do hiện hữu trong tương quan với tha nhân”
mà người ta tìm thấy nẻo đường chân chính để đi vào Nước Trời.
2.2 Từ nguồn mạch tương giao cụ thể ấy…
Từ nguồn
mạch căn bản của mối tương giao cụ thể ấy, chúng ta có thể khám phá thêm một
vài nét tiêu biểu :
* Sống bằng chính bản thân
Người ta
nói rằng : phú quí sinh lễ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là người giầu sống
trong một vòng vây của rất nhiều tường rào của lễ nghĩa, của văn hoá, của lập
trường tư tưởng... Những điều đó chắc hẳn là tốt, nhưng chúng cũng không phải
là không có thách đố. Trong vòng vây của những lớp “lễ nghĩa” như thế, người ta
đánh giá nhau qua phong thái lịch sự, người ta lo buồn chỉ vì một lời nói thiếu
lịch sự . . .
Những người
nghèo là những người “bị” bắt buộc đưa chính bản thân mình vào cuộc tương giao.
Người nghèo chia sẻ “hai đồng xu” thì không phải là lễ nghĩa hay danh giá, mà
là chia sẻ chính sự sống của bản thân mình. Người nghèo không bị dằn vặt nhiều
vì những “lớp hàng rào”. Khi người ta túng thiếu thì lễ nghĩa quí tộc như một
thứ trang trí chẳng quan trọng bằng chính những điều gắn liền với sự sống.
Mặt khác,
chính vì người nghèo sống trong sự bấp bênh, bấp bênh của chính bản thân, nên
họ dễ tin tưởng và phó thác trọn vẹn cuộc đời mình vào Thiên Chúa hơn. Với
người nghèo, Thiên Chúa không chỉ là một Đấng cần thiết trong suy tư đấu đá với
những lý thuyết vô thần, Thiên Chúa không chỉ là Đấng trợ giúp một vài khó khăn
lặt vặt, nhưng Ngài là nguồn mạch ban sự sống đích thực, Ngài thực sự là Đấng
vượt qua cái chết và Phục Sinh trong chính cuộc đời của mình.
* Khả năng lãnh nhận
Con người,
trong biết bao nhiêu điều cao quí cũng như tầm thường và xấu xa nhất của phận
người, có duy một khả năng có thể đưa con người lên cao hơn hết và giúp hoàn
thành khát khao căn bản nhất của con người, đó là khả năng lãnh nhận, lãnh nhận
cho đúng và trọn vẹn. Khả năng lãnh nhận nơi con người là điều cao quí nhất,
bởi vì cuối cùng vận mạng của con người chỉ có thể hoàn thành nơi Chúa, chỉ có
thể sung mãn trọn vẹn khi được làm con cái tự do của Thiên Chúa; những điều này
không thể là kết quả của tài năng, của nhân đức, của nỗ lực luân lý mà chỉ có
thể là kết quả của ơn cứu độ mà con người được lãnh nhận.
“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và
vu khống đủ điều xấu xa.Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh
em ở trên trời thật lớn lao. {Mt 5,11-12}.
Chúng ta có
thể nhận thấy những người nghèo thời Chúa Giêsu, những người đổ xô theo Chúa và
lãnh nhận những hồng ân của Chúa.
Hơn nữa,
trong tình yêu, là “bản chất” của toàn thể “thực tại”, của Thiên Chúa, của con
người và của vũ trụ, thì chỉ có khả năng lãnh nhận mới có thể giúp con người
đón nhận được những “món quà” mà con người không bao giờ có thể mua bán hay đổi
chác được, đó là “tình người”, đó là chính bản thân của người dâng tặng. Người
nghèo có khả năng lãnh nhận chính tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, người
nghèo cũng dễ có tâm tình tri ân chân
thật hơn, bởi vì tri ân sâu xa nhất chính là tri ân vì được đón nhận chính bản
thân của Thiên Chúa được trao tặng “miễn phí” trong tình yêu.
Kết
Dĩ nhiên,
còn rất nhiều nét trong “linh đạo của người nghèo” mà người Nữ Tử Bác Ái được
mời gọi để khám phá nơi người nghèo, nơi mỗi hoàn cảnh của mỗi người nghèo.
Người Nữ Tử Bác Ái cần tìm ra cáo “duyên” của từng nỗi đời, từng con người cụ
thể đối với ơn cứu độ của Thiên Chúa; điều mà các chị chỉ có thể thực hiện được
trong niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa.
2. Thần Học
- Xc, Thông Điệp Thiên Chúa giầu lòng thương xót
3. Suy niệm
Lòng thương
xót là một phẩm tính của Giavê Thiên Chúa, lòng thương xót là tình yêu của Chúa
đổ xuống, và đổ xuông tới những người bé mọn nhất…
Chính vì thế mà lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng là một
dấu chứng của ơn cứu độ, của một Đấng Mê-si-a đích thực, như Chúa Giêsu đã muốn
nhắn gời tới Gioan Tẩy Giả.
Is 29,19 : Nhờ ĐỨC CHÚA, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn
khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng
bừng.
Tv 4,2
4,2 Lạy
Thiên Chúa là đèn trời soi xét,
khi con
kêu, nguyện Chúa đáp lời.
Lúc ngặt
nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con,
xin thương
xót nghe lời con cầu khẩn.
Tv 6,3
6,3 Lạy
CHÚA, xin đoái thương, này con đang kiệt sức,
chữa lành
cho, vì gân cốt rã rời.
Tv 9,14
9,14 Xin
rủ lòng thương con, lạy CHÚA,
đấy Ngài
xem : địch thù làm cho con khổ nhục.
Xin kéo con
lên khỏi ngục tử thần,
Tv 25,16
25,16 Lạy
Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con,
vì thân này
bơ vơ khổ cực.
Tv 116,6
Hằng gìn giữ những ai bé mọn,
tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.
Lc 4,7,34
7,34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì
các ông lại bảo : 'Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội
lỗi.'
Mt 18,10 :
"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé
mọn này ; quả thật, Thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên
trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Mc 9,42 :
"Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải
sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.
Lc 14,13 :
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt, đui mù.
Mt 9,36
9,36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng
thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.
Mt 15,32
15,32 Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói :
"Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và
họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng
họ bị xỉu dọc đường."
Mt 20,34
20,34 Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ ;
tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Người.
Mc 1,41
1,41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh
và bảo : "Tôi muốn, anh sạch đi !"
Mc 9,22
9,22 Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống
nước cho nó chết. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương
mà cứu giúp chúng tôi."
Lc 7,13
7,13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói :
"Bà đừng khóc nữa !" Mt 20,16
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
[Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.]
Mc 10,31
Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu
sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên
hàng đầu."
Lc 13,30
"Và kìa có những kẻ đứng
chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót."
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.