Từ những biểu hiện của tình trạng đạo đức hiện nay,
cần trở lại với vấn đề bản chất con người
Bài này được viết nhân một buổi nói chuyện tại số 43 Nguyễn Thông, vào
khoảng năm 2004, với những dữ kiện xã hội của thời kỳ ấy. Tuy nhiên, có lẽ tình
trạng xã hội và những ý nghĩa ấy vẫn còn đúng trong giai đoạn hiện nay, nên tôi
lấy lại bài viết cũ, sửa đổi chút ít, và gửi đến anh chị em như một tài liệu đọc
thêm. NTV
Việt Nam
đang bước vào giai đoạn hiện đại hóa – công nghiệp hoá đất nước để theo kịp các
nền kinh tế trong khu vực; và để, không có cách nào khác, đi vào tiến trình
toàn cầu hoá của cả hành tinh. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế như thế không thể
không kéo theo nhiều biến đổi khác, trong đó có sự biến đổi về đạo đức. Trong
thời gian gần đây, đất nước Việt Nam đang phải đối diện với nhiều tệ nạn xã hội,
hoặc do chính cơ chế kinh tế thị trường; hoặc do việc du nhập nhiều phong cách
sống của các nước tư bản; hoặc do những nền tảng “văn hoá xã hội” đã không còn
thích hợp nữa trong tình hình mới : tham nhũng, ma tuý, ăn chơi xa sỉ, phung
phí, đua xe, thanh thiếu niên đua đòi tại các vũ trường, hiện tượng thanh niên
sau 0 giờ, thanh niên lao vào các trang xấu trên Internet....
Bên dưới tất
cả những hiện tượng tiêu cực nổi cộm trong xã hội hiện nay, chúng ta có thể thấy
một tình trạng sâu xa hơn : suy thoái giá trị đạo đức mà mức độ của nó có thể
nói là một sự khủng hoảng. Hoàn cảnh mới của tình hình kinh tế thị trường vừa
cho thấy giá trị đạo đức trong thời kỳ bao cấp trước đây đã không còn đủ, không
còn thích hợp cho tình hình mới[1]; đồng thời, cũng cho thấy
những quan niệm căn bản của một nền triết học đang chi phối xã hội chúng ta
không đủ hay ít là không toàn diện để có thể “đồng hành” cùng dân tộc trong quá
trình lịch sử của mình.
Trong những
năm gần đây, đã có nhiều tiếng hô báo động về tình trạng đạo đức xuống cấp[2] và chúng ta thấy có khá nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau : giá trị
truyền thống Việt Nam, lối sống tôn thờ thần tượng, mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và đạo đức gia đình truyền thống, sự phân hoá giầu nghèo, vai trò của luật
pháp, mối tương quan giữa lý trí và tình cảm[3] . . . Quả thật vấn đề đạo đức là một vấn đề sống
còn của xã hội Việt Nam hiện nay trên bước đường hiện đại hoá - công nghiệp hoá
đất nước; và đây là một thách thức đối với những nhà nghiên cứu, đặc biệt là
nghiên cứu triết học, trong trách nhiệm xây dựng đất nước.
1. Nhận định tình hình cụ thể
1.1 Xã hội truyền thống và xã hội hiện đại hoá công nghiệp hóa[4]
Khái niệm
hiện đại hóa, theo ngôn ngữ đời thường, được hiểu là sự trang bị những máy móc
hiện đại với kỹ thuật cao. Nhưng thật ra, ý nghĩa của từ hiện đại hoá, xuất hiện
vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, có ý nghĩa triết học xã
hội và bao hàm một nội dung rộng lớn hơn nhiều. Hiện đại hoá là bước biến chuyển
từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại.
Xã hội truyền
thống có những nét đặc trưng như sau:
- Về phương diện sản xuất : đó là một xã hội nông nghiệp, sử
dụng lực lượng sản xuất tự nhiên, năng suất chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thường
ngày, tự cung tự cấp;
- Về phương diện tiến bộ : xã hội truyền thống vận động theo
chu kỳ lập đi lập lại, trong đó yếu tố truyền thống bao giờ cũng quan trọng hơn
và có ưu thế hơn những nhân tố mới;
- Về phương diện tương quan xã hội : các quan hệ trong xã hội
truyền thống đề cao tính cộng đồng, làng xã, huyết thống; mang tính chất “sự đồng
nhất nhóm” (công xã, làng, dòng họ . . .); trong đó cá nhân luôn phải phụ thuộc
vào tập thể . . .
Nét tinh thần
được đề cao là đạo đức truyền thống, cá nhân không được nhìn nhận và cảm thông
trong hoàn cảnh riêng, nhưng phải chấp nhận những nguyên tắc đạo đức, quan hệ ứng
xử, trật tự thứ bậc của đời sống cộng đồng. Nói chung là các yếu tố quyền bính,
kinh tế, chính trị, tôn giáo gắn chặt thành một khối không phân chia.
Trong khi
đó, những nét tiêu biểu của xã hội hiện đại là:
Công nghiệp
và thương nghiệp chiếm ưu thế so với nông nghiệp. Ngay nông nghiệp cũng đã được
công nghiệp hoá và đạt đến trình độ kỹ thuật cao. Công nghiệp trở thành xương sống
của nền sản xuất xã hội cùng với những hiện tượng liên hệ : cụm dân cư mới, trường
dạy nghề, quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường . . .
Tính chất
“chu trình” lặp đi lập lại của đời sống truyền thống bị đẩy lùi và được thay thế
bằng tính biến đổi, mới mẻ, sáng tạo. Trong lãnh vực kinh tế, nền sản xuất của
xã hội công nghiệp là nền tái sản xuất mở rộng và tích luỹ thặng dư. Đời sống
xã hội được điều chỉnh chủ yếu bằng những yếu tố mới. Xã hội hiện đại khuyến
khích những sáng kiến, nhạy bén với thị trường, gia tăng sáng tạo để đạt hiệu
năng, thích ứng với những biến đổi mau lẹ.
Về phương
diện quan hệ xã hội, yếu tố phân quyền và chuyên môn hoá là nét đặc trưng; mỗi
người không tìm cách tồn tại theo kiểu “tự cung tự cấp”, nhưng tìm cách nâng
cao tay nghề chuyên môn của mình. Nhờ việc phân quyền và chuyên môn hóa, con
người có nhiều quan hệ gián tiếp và ít lệ thuộc hơn các cộng đồng phân cấp, các
quan hệ hàng dọc. Đời sống hiện đại hóa có một mạng lưới các “quan hệ hàng
ngang” chằng chịt.
Trong xã hội
hiện đại, vai trò cá nhân được hình thành và được tôn trọng. Mỗi cá nhân có thể
tự “bứt phá” những hệ thống phân cấp để lao vào cuộc “chạy đua xã hội”. Tính thụ
động, tính đồng nhất nhóm không còn là yếu tố chính; nhưng tính cá nhân, độc lập
càng ngày càng được đề cao. Tinh thần cầu tiến, cung cách làm việc hiệu năng,
có chuyên môn cao . . dần dần trở thành
những yếu tố “cạnh tranh” với tinh thần chỉ đề cao đạo đức cũng như “nề nếp gia
phong”.
Tóm lại, xã
hội hiện đại hoá là xã hội đang chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội
hiện đại mà yếu tố công nghiệp hoá là yếu tố nổi bật. Công nghiệp hoá là tiêu
chuẩn để phân định “xã hội truyền thống” và “xã hội hiện đại”. Có thể nói công
nghiệp hóa là chuẩn mực công nghệ – kỹ thuật, trên đó nẩy sinh những tiêu chuẩn
khác trong toàn bộ cơ cấu xã hội.
1.2 Nền đạo đức nước ta thời kỳ hiện đại hoá công nghiệp hóa
Sự biến đổi
mau lẹ của nền kinh tế công nghiệp ở nước ta đã mang lại nhiều thành quả, cả về
mức sống của dân chúng cũng như trong thái độ “đạo đức”. Đó là điều không ai có
thể chỗi cãi: số hộ nghèo giảm đi, cung cách làm việc trì trệ bị phê phán, thói
đạo đức giả càng ngày càng lộ rõ bộ mặt xấu xa; ngay các người thành đạt trong
xã hội cũng được kêu gọi để sống tinh thần tương trợ nhiều hơn so với thái độ dửng
dưng ỉ lại vào nhà nước của thời kỳ bao cấp. . . Tuy nhiên, những hệ quả xấu của
bước biến chuyển này cũng là điều ai cũng có thể nhận thấy, đặc biệt là sự sa
sút về nhiều phương diện đạo đức trong đời sống thường ngày, được phản ảnh trên
mặt báo mỗi ngày. Nền kinh tế thị trường đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh
thần nói chung giá trị đạo đức nói riêng và người ta nói nhiều đến sự xuống dốc
của nền đạo đức. Chỉ riêng qua báo chí thôi, chúng ta cũng nhận ra những hiện
tượng báo động về sự giảm sút đạo đức trong mọi khía cạnh căn bản của đời sống
xã hội.
Trước hết,
trong phạm vi gia đình, chúng ta nhận thấy có nhiều triệu chứng của một sự khủng
hoảng. Gia đình, cùng với nền giáo dục gia đình, luôn là nền tảng của đời sống
xã hội. Gia đình là nơi cung cấp nền giáo dục đầu tiên và căn bản cho một con
người. Vì thế, nếu “gia giáo” bị bỏ quên thì người ta sẽ phải hứng chịu những hậu
quả, chẳng những trong chính gia đình, nhưng còn trong mức độ toàn xã hội. Hiện
nay, chúng ta thấy có tình trạng các bậc cha mẹ lao vào đời sống kinh tế, coi
việc thăng tiến địa vị xã hội là quan trọng hơn đời sống gia đình. Tình trạng
và buông lỏng việc giáo dục con cái không còn là điều hiếm thấy. Vẫn có nhiều bậc
làm cha mẹ cho rằng việc giáo dục là của nhà trường và tự bào chữa cho mình bằng
sự bận rộn của công việc; tự giới hạn trách nhiệm của mình trong việc cung cấp
cho con cái những phương tiện vật chất. Từ đó, chúng ta thấy tình trạng đổ vỡ
trong đời sống hôn nhân càng ngày càng tăng, để lại những hậu quả nặng nề cho
những tâm hồn trẻ thơ và thanh thiếu niên. Tình trạng con cái hành hung cha mẹ,
anh em từ bỏ nhau, kiện tụng và tranh giành phần gia sản . . . cũng cho thấy sự
khủng hoảng nề nếp gia đình.
Trong phạm
vi nhà trường, hiện trạng đạo đức cũng cần phải lên tiếng báo động. Căn bệnh chạy
theo thành tích đã phá huỷ tất cả mọi nỗ lực cải tổ, mọi chương trình cải tổ.
Thậm chí, ngay các nhà giáo dục đã không còn giữ được phẩm chất của mình (chạy
theo thành tích, đôi khi còn “nhũng nhiễu” học sinh trong việc thu nhận học
sinh, dạy thêm, học hè. . . .) thì sự xuống cấp nói chung của tình trạng giáo dục
và của học sinh nói riêng, có thể nói, là một hệ quả tất yếu. Tác giả Mạc Lâm kể
ra “Thập nạn” trong sinh viên[5] như sau :
“Tiêu cực trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng, mê
tín dị đoạn, uống rượu say, nghiện hút, cắm quán, trộm cướp, ham mê văn hoá
phẩm đồi truỵ, vô kỷ luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy theo lối sống
tiêu dùng”.
Cùng với
ngành giáo dục, ngành y tế vẫn được coi là biểu tượng đặc biệt của giá trị nhân
văn; nhưng ngành y gần đây lại bị vạch trần và lộ ra những cung cách “bất nhân”
: việc kê toa theo sự thúc bách của trình dược viên và những mập mờ của cơ quan
chuyên trách làm tăng giá thuốc một cách “bóc lột”. . . Thật sự đó không phải
là chuyện mới có, nhưng là những chuyện mới bị tiết lộ. Dù có nhiều tiếng nói biện minh cho rằng chỉ
một bộ phận nhỏ trong ngành y đã làm “rầu nồi canh”; nhưng thực sự hầu hết người
dân đều từng đến các bệnh viện, các cơ sở y tế đều đã được thấy, không phải là
ít, những hiện tượng tiêu cực nơi những người mang danh là “lương y như từ mẫu”.
Trong phạm
vi kinh tế, ta có thể thấy quá nhiều những sai phạm qui tắc tài chính trong mọi
lãnh vực sản xuất, kinh doanh, ngân hàng, xây dựng, dầu khí, nông nghiệp, thể dục
thể thao, điện lực, giao thông . . . Tác
động của động tiền đã thúc đẩy những tệ nạn tham ô, buôn lậu, buôn bán ma tuý,
mại dâm . . . nhưng nguy hiểm hơn là nó còn làm cho nhiều chiến sĩ anh hùng
trên mặt trận bom đạn bị quỵ ngã. Vì đồng tiền, nhiều người chà đạp danh dự,
bán rẻ tình nghĩa gia đình, bán rẻ cả nhân phẩm . . .
Trong phạm
vi văn hóa, chúng ta thấy một sự yếu kém trong bản lĩnh văn hoá, yếu kém trong
năng lực “nội sinh”. Do đó, phim ảnh, thời trang, đồ dùng của các nước khác đã
có thể xâm nhập tràn lan và tác hại nguy hiểm đến sự ổn định tinh thần và xã hội.
Tình trạng coi nhẹ giá trị truyền thống, sùng bái phong thái nước ngoài, đã dẫn
tới hàng loạt các vi phạm thuần phong mỹ tục và những giá trị tinh thần căn bản
của dân tộc. Lối sống cá nhân ích kỷ trở thành một điều bình thường của những
người “chịu chơi” và “tiến bộ”.
Ngành công
an và hải quan là những lãnh vực mà việc mua quan bán chức nhằm kiếm được những
chỗ làm có nhiều thu nhập bất chính đã trở thành điều thường lệ, ai cũng biết
và người dân dễ dàng kiểm nghiệm được trong sinh hoạt thường ngày. Báo chí đã
phanh phui, không phải chỉ là những sai phạm ngẫu nhiên của một vài thành phần,
nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy đây là những sai phạm của cả một nhóm, một hệ
thống, dính dáng đến nhiều người, ngay cả những thành phần lãnh đạo cao cấp.
Trong phạm
vi toàn xã hội, người ta thấy tình hình tội phạm hình sự càng ngày càng gia
tăng và đang ở mức độ nghiên trọng. Có một số tội danh mới nguy hiểm như : khủng
bố cá nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em, buôn bán phụ nữ, buôn bán chất nổ, chất
ma tuý với số lượng lớn, tổ chức xã hội đen, đâm thuê chém mướn, môi giới mạn
dâm…. Tình hình phụ nữ phạm tội và các vụ tôi phạm do người chưa thành niên thực
hiện có chiều hướng gia tăng. Một số các thanh thiếu niên rơi vào lối sống bạo
lực, phi nhân tính.
Đặc biệt,
tình trạng biến chất, xuống cấp về đạo đức biểu lộ trong việc chính những cơ
quan chuyên trách đã có những vi phạm nghiêm trọng trong trách nhiệm đặc biệt
được nhân dân trao phó: cán bộ chống ma túy lại đi buôn bán ma tuý, cán bộ hành
chánh nhũng nhiễu người dân,…
Văn kiện Đại
hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII xác nhận :
“Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản
thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ
luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống”[6].
Tóm lại, những
biểu hiện về sự xuống cấp của tình trạng đạo đức thể hiện ở mọi lãnh vực :
trong đảng và quần chúng, trong những cơ quan chức năng và những ngành nghề
khác nhau; người lớn tuổi và giới trẻ. Đặc biệt, chúng ta thấy đáng buồn với sự
xuống cấp đạo đức của hai ngành nghề cao
quí diễn tả tâm hồn và lương tri của bản chất người, đó là ngành giáo dục và y
tế.
2. Nỗ lực giải thích khủng hoảng đạo đức
2.1 Theo xã hội học[7]
Sự khủng hoảng
xuất hiện như một hậu quả của sự thay đổi đột ngột mà quá trình đang diễn ra
bình thường không thích ứng được. Trong sự khủng hoảng, ta ghi nhận hai yếu tố
chính: - sự thay đổi - và khả năng chống
đỡ.
Khi sự thay
đổi có tính cấu trúc, tức là thay đổi toàn bộ cơ cấu và những nguyên lý chi phối,
thì đó là một sự thay đổi toàn diện, chẳng hạn như một cuộc cách mạng, thì sẽ
gây nên một sự biến dạng căn bản toàn bộ kiến trúc, gồm cả pháp luật, đạo đức,
những khái niệm căn bản của cuộc sống và các hệ thống khác. Trong sự khủng hoảng
toàn diện này, không có yếu tố nào có khả năng chống đỡ, không một lực lượng
nào đủ lớn để thể hiện như một lực đối trọng cân bằng. Trong khi đó, sự thay đổi
cục bộ thì lại khác, những yếu tố căn bản vẫn còn, vẫn có một sức mạnh có khả
năng trụ lại để giữ những biến đổi khác. Chỉ có sự thay đổi căn bản mà không có
lực lượng đối trọng cân bằng nào có khả năng chống đỡ thì mới gọi là khủng hoảng.
Người ta có
thể tính toán về một sự khủng hoảng lớn hay nhỏ bằng cách đo độ sâu, độ lớn, tốc
độ thay đổi, sự không cân bằng cả về số lượng lẫn chất lượng, ảnh hưởng trên xã
hội và điều sau cùng, nhưng không phải là điều nhỏ nhất, là chính khả năng chống
đỡ của các thành viên trong xã hội. Người ta có thể phân biệt một sự khủng hoảng
do quá trình thay đổi để phát triển hay một sự khủng hoảng do mất định hướng;
khủng hoảng do mất định hướng hay do mất năng lực; khủng hoảng do thiếu phương
tiện hay thiếu khả năng. . . .
Giáo sư Trần
Văn Đoàn nêu lên một vài nét căn bản của khủng hoảng đạo đức như sau :
1/ Khủng hoảng đạo
đức được hiểu như là sự suy thoái của quyền lực nhằm duy trì các trật tự trong
thực tại, hay nói rõ hơn, đó là khả năng đối phó với những vấn đề liên quan đến
con người. Khủng hoảng đạo đức phản ảnh sự suy thoái của năng lực con người
trong nhận thức và lựa chọn cái tốt, cái đúng để thực hiện hành vi của mình phù
hợp chuẩn mực xã hội.
2/ Khủng hoảng đạo đức thường xuất hiện dưới dạng “mất
định hướng”, “mất ý nghĩa cuộc sống”; đó là một sự hụt hẫng đột ngột trong tập
quán do tiếp cận với quá trình hiện đại hoá : khủng hoảng tự thân, bất đồng với
cách thức suy nghĩ và sinh hoạt của một nhóm người nào đó.
3/ Khủng hoảng đạo đức thể hiện tính tự thân qua quá trình
giao thoa không bình thường. Nó trái với các ứng xử thông thường trong các tình
huống xảy ra, nó được cảm nhận theo chiều hướng khác, được xử lý bằng một
phương pháp sai lầm, một lối sống khó chấp nhận; cách thức phản đứng ấy không
chỉ là bất hợp lý mà còn là ngoan cố.
4/ Khủng hoảng đạo đức có thể sinh ra trong việc lựa chọn
phương pháp hay hành động, khi các phương pháp này mâu thuẫn với mục đích hành
động hoặc làm phương hại đến mục đích; chẳng hạn lựa chọn bạo lực để bình định
nhân dân.
5/ Khủng hoảng đạo đức sẽ kéo theo những hậu quả không tốt
trong một thời gian dài, các tác hại thường vượt qua lợi ích và thảm hoạ của
nó, và làm mai một đi những phẩm chất căn bản.
Trong hiện
tình đất nước, chúng ta phải công nhận đó là một sự khủng khoảng thật sự, vì sự
đổ vỡ giá trị đạo đức diễn ra khắp nơi, và đặc biệt diễn ra một cách nghiệm trọng
ở chính hai “cơ năng” chính, đó là tâm hồn và lương tri, tức ngành giáo dục và
y tế. Hơn nữa, chúng ta còn thấy biểu hiện một sự lúng túng của những người có
trách nhiệm : có nhiều bài nghiên cứu trong các tạp chí, có nhiều biện pháp đã
được đề nghị. . . nhưng hình như chẳng đem lại biến chuyển tích cực nào!
2.2 Theo triết học
Về phương diện triết học, ta có thể
diễn tả một cách đơn giản ý nghĩa của khủng hoảng là: ở đỉnh cao minh triết thì “siêu hình” và
“luân lý” hoà nhập với nhau; còn ở mức độ la đà thì siêu hình và luân lý trở
thành hai con đường riêng biệt chẳng dính dáng gì tới nhau. Mức độ “la đà” đó
chính là nguồn cơn của khủng hoảng. Đây là “qui luật” của lịch sử nhân loại. Sự
huỷ hoại sâu xa nhất của một tôn giáo, một tổ chức, một tập thể,… không phải là
sự huỷ hoại tự bên ngoài, nhưng chính là một tình trạng mất căn tính từ bên
trong, khi mà những đường nét “tinh thần” căn bản không còn là nguồn mạch của
những phương sách cụ thể, nhưng chính những thứ “thích ứng” rẻ tiền đã lèo lái
tất cả.
Thái độ
thích ứng, kiểu giải quyết vấn đề bằng những biện pháp mà không phải là những
thể hiện đương nhiên, phát xuất từ một nền tảng siêu hình chân chính sẽ làm cho
tình hình càng ngày càng trở nên vá víu, mất phương hướng, giải quyết chỗ này lại
nẩy sinh vẫn đề chỗ khác; bịt được điều này thì lại xì ra chỗ lủng ở điều khác.
Chúng ta có thể thấy tình trạng lúng
túng ấy trong vấn đề đạo đức của xã hội
Việt Nam
hôm nay.
Nói cách
khác, qua một sự biến chuyển nào đó, cụ thể là sự biến chuyển của một nền kinh
tế Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể thấy những thiếu sót hay những chỗ lủng
trong quan niệm về bản chất con người, một quan niệm mà có thể đã có một số
thành công trong thời kinh tế chỉ huy. Việc triển khai những nền tảng tư tưởng
duy vật và vô thần và triển khai một cách bắt buộc, rộng khắp đã không còn có
thể tạo nền tảng cho tinh thần và sức sống của con người, đặc biệt trong lãnh vực
luân lý, trong xã hội hôm nay.
3. Cần nhận định lại về bản chất con người
Việc giải
quyết khủng hoảng đạo đức, cho tới hiện nay chưa có dấu hiệu lạc quan. Càng
ngày người ta càng thấy nhiều hơn và ở mức độ trầm trọng hơn những thái độ suy
đồi trong xã hội. Những phương thức giải quyết vá víu, bằng những quy định của
luật pháp, bằng những phong trào thi đua đạo đức,… thực sự không có chút ảnh hưởng
mang tầm mức xã hội nào. Những điều đó thúc bách chúng ta phải tìm giải quyết vấn
đế ở một bình diện sâu hơn, bình diện của bản chất người.
3.1 Trả lại chân trời tâm linh cho tâm hồn con người
Một cách
đơn giản, ta có thể diễn tả : tâm linh là chân trời của những ứng xử trong cuộc
sống đời thường. Không có chân trời, mọi hình ảnh đều trở nên mặt phẳng, không
còn độ sâu và không còn diễn tả được khuôn mặt sống động của “nhân linh ư vạn vật”.
Không có
chiều kích tâm linh, mọi ứng xử của con người với thế giới chỉ là một bài toán
cân đối giữa lợi ích của tôi và sự kiện khách quan; ứng xử một cách “hợp lý” và
một cách “vật lý”... Những cách xử lý ấy chỉ thoả mãn nhu cầu quản trị hay thống
trị của con người chứ không thoả mãn được nhu cầu gặp gỡ hay nhu cầu siêu việt,
không đưa con người vào khung trời nhân văn và huyền nhiệm; bởi vì người ta
không còn biết ướm sự kiện đời thường vào chiều sâu tâm hồn cũng như chiều kích
siêu việt trong khát vọng của con người.
C. Virgil
Gheorghiu đã từng nói rằng :
“Mỗi chủ nhân
bắt buộc phải biết đôi chút ngôn ngữ và tập tục của nhân viên thuộc quyền mới
có thể chỉ huy được họ. Hầu như bao giờ cũng vậy, khi kẻ chiếm đóng là thiểu
số, đều phải chấp nhận ngôn ngữ và tập tục của dân tộc bị chiếm đóng, vì lý do
thuận tiện hay quyền lợi thực tế. Kẻ chiếm đóng thành công vì là kẻ chiếm đóng
và chủ nhân có toàn quyền”.
“Cũng một quá
trình như vậy đang tiếp tục diễn tiến cuộc khai triển trong khuôn khổ xã hội
chúng ta, mặc dù chúng ta không chịu nhìn nhận điều đó. Chúng ta học đòi những
luật lệ và cách nói của lũ nô lệ để chỉ huy chúng. Do đó, cứ lần lần, chúng ta
cũng chẳng nhận thấy nữa, chúng ta chối bỏ những đức tính nhân bản của chúng
ta. những lề luật riêng của chúng ta. Chúng ta bỏ mất nhân bản tính, chúng ta
chấp nhận lối sống của những nô lệ kỹ thuật của chúng ta. Triệu chứng đầu tiên
của việc chối bỏ nhân tính là sự miệt thị con người. Con người hiện đại biết
rằng đồng loại, và ngay chính hắn, cũng chỉ là những yếu tố khả dĩ thay thế được.
Xã hội hiện thời cứ mỗi con người có từ một đến hai lố nô lệ kỹ thuật phải được
tổ chức và hoạt động, tùy thuộc những luật tắc kỹ thuật. Đó là một xã hội được
cấu tạo tùy theo nhu cầu cơ khí chớ không phải nhân bản, thảm kịch băt đầu từ
đó.
“Con người ta
bị buộc phải sống và xử sự theo những định luật kỹ thuật xa lạ với những luật
tắc của con người. Những ai không tuân theo những định luật của cơ khí, nâng
lên hàng luật lệ xã hội, sẽ bị trừng phạt. Con người sống theo thiểu số sẽ,
theo thời gian, trở thành một thiểu số vô sản. Nó sẽ bị đẩy ra khỏi cái xã hội
mà nó vẫn liên thuộc hoặc nó vẫn ở trong mà chối bỏ nhân cách của nó, thì nó
cũng không thể hòa mình vào xã hội đó được. Do đó nó sẽ, rốt cuộc, cảm thấy kém
thế, muốn bắt chước cơ khí và chối cỏ mọi tính cách độc đáo của con người vẫn
tách rời khỏi những trung tâm hoạt động xã hội..."
(V.Gheorghiu,
Giờ Thứ 25, trang 69-70)
“Thảm kịch xẩy
ra chính ở đó. Chúng ta không thể biến thành máy được. Sự đụng độ giữa hai sự
thật - cơ khí và nhân văn - đã xẩy ra. Những nô lệ kỹ thuật sẽ chiến thắng.
Chúng sẽ được giải phóng và trở nên những công nhân kỹ thuật của xã hội chúng
ta. Còn chúng ta, những con người, chúng ta sẽ trở thành những kẻ vô sản trong
một xã hội được tổ chức theo những nhu cầu và nền văn hóa của đa số công dân,
tức là những "công nhân kỹ thuật". (V.
Gheorghiu, Giờ thứ 25, trang 71)
Với phân
tích của Gheorghiu, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng hơn sự mất cân đối giữa
hai yếu tố biến chuyển và khả năng chống đỡ mà tác giả Trần Văn Đoàn đã phân
tích trên kia.
Cũng thế,
không có chân trời tâm linh, ngay trong tương quan của con người với nhau, người
ta cũng chỉ còn có một cách duy nhất là đối xử “tay đôi”, tính toán một cách
“công bằng”, nhưng tất cả đều không bộc lộ được vóc dáng đích thực của con người.
Không có tâm linh, người ta phải chọn lập trường sống với người khác là “bạn ra
bạn và thù ra thù”. Những làm sao có thể đóng dấu một người hay một tập thể nào
đó là bạn và nó mãi mãi là bạn đúng đắn ? Làm sao người ta có thể cho rằng một
ai đó là kẻ thù và chỉ là kẻ thù mà thôi ? Lối nhìn của chuyện cổ tích ấy thật
cũng đã trở thành “cổ tích” rồi. Hai đứa bé tranh cãi với nhau và đứa này mét mẹ,
đứa kia đòi mẹ phải làm thế này thế khác. . . Những lý lẽ của hai đứa bé đó
không hẳn là vô lý, nhưng nó hoàn toàn không thấy được một viễn cảnh nào xa hơn
cái bánh, món đồ chơi, hành vi trêu chọc của thằng anh . . . Chỉ có bà mẹ, với
“chân trời” của gia đình, mới có thể khuyên giải và giúp những đứa bé ấy biết
tha thứ, biết chia sẻ, biết nhường nhịn vì anh, vì em của mình.
Quả thật,
tâm linh là chiều kích siêu việt làm nên chân trời của mọi thái cử trong cuộc sống
con người. Con người nếu chỉ được hiểu như “tổng hoà các quan hệ xã hội”, hoặc
như một định nghĩa truyền thống của chủa nghĩa Mác, là “một thực thể tự nhiên
có tính chất người“[8],
sẽ không thể có được một chân trời để định hướng và để được kêu mời vươn lên
mãi.
Chỉ có một
niềm tin vào Thiên Chúa tha thứ và Thiên Chúa đòi hỏi ta phải tha thứ 70 lần bẩy
thì mới có thể giúp con người cố gắng từng bước để lại tiếp tục tha thứ; chỉ có
một niềm tin vào một viễn tượng huyền nhiệm, cao cả nào đó thì con người mới có
thể không dừng lại, thoả mãn với một giải pháp có vẻ hợp lý, có vẻ đúng đắn,
nhưng thật ra chỉ là một phản ứng tay đôi với một biến cố, với một tình huống,
với một bài toán.
Tóm lại, ta
có thấy hai ý nghĩa của tâm linh : - chân trời tâm linh mở cửa để đón nhận bước
tiến không ngừng của con người; và – chân trời tâm linh giúp con người có thể ướm
những thái cử hàng ngày của mình vào đó và tìm thấy thoả mãn nhu cầu siêu việt.
Ta cũng có
thể thấy hai bình diện : con người với thế giới vật chất cần chân trời tâm linh
để vươn tới giá trị nhân văn; con người với con người cần giá trị tâm linh để
vươn tới siêu việt.
Xã hội
chúng ta hiện nay là một xã hội nỗ lực truyền bá học thuyết vô thần, một xã hội
rất khoái từ ngữ “khoa học” để dồn tất cả mọi thứ không khoa học vào bao “mê
tín”, một xã hội mà tình trạng văn chương kém cỏi đã trở phổ biến trong mọi cấp
giáo dục. . . Chính xã hội ấy đã tước mất
khả năng tâm linh của con người để có thể đối diện với các khủng hoảng xẩy ra.
3.2 Trả lại nền tảng “siêu nghiệm”[9] của luân lý trong lương tâm con người
Những đường
nét tinh thần cao quý và “huyền nhiệm” của con người không phải là điều con người
có từ bẩm sinh. Tuy nhiên, nếu từ đó mà kết luận rằng tất cả mọi phẩm tính nhân
văn và tâm linh cũng chỉ là phản ảnh của phương thức kiếm sống, phản ảnh của
hình thái kinh tế, “phản ánh” từ những
diễn tiến cụ thể của hoàn cảnh lịch sử, thì đó lại là một kết luận không khoa học.
Cũng như thế, thế giới thống nhất với nhau ở tính vật chất, điều đó không có
nghĩa tất cả thế giới là vật chất. Tất cả mọi nhận thức đều thông qua giác
quan, điều đó thánh Thomas cũng chủ trương, nhưng lại không đi đến kết luận của
một học thuyết “duy nghiệm”.
Thật vậy,
những đường nét tinh thần cao quý và huyền nhiệm của con người, được hình thành
trong quá trình lịch sử, nhưng không phải là một sự thành hình ngẫu nhiên,
không phải là một sự phản ánh nguyên mẫu của hoàn cảnh, mà là một sự chắt lọc để
làm lộ ra cái mà ngày nay người ta gọi là “phẩm giá con người”. Ở mọi nền văn
hóa, những nỗ lực chắt lọc từ biết bao nhiêu diễn tiến phức tạp của cuộc sống
đã tạo nên những thành quả xoay xung quanh một cái trục là chính phẩm giá con
người, cho đến một giai đoạn chín muồi, những thành quả đó biến thành một giá
trị “siêu nghiệm” có khả năng hướng dẫn chính những phản ánh từ cuộc sống cụ thể
với những hoàn cảnh cá biệt.
Tác giả Trần
Nguyên Việt[10],
trong khi cố gắng nối kết những giá trị truyền thống của dân tộc với những giá
trị của nhân loại nói chung để lý giải sự khủng hoảng đạo đức hiện nay, đã viết:
“Cái được toàn thể loài người chấp nhận từ các nền văn minh khác
nhau, trong đó có cái đạo đức mà chúng
ta đang đề cập tới luôn mang tính bền vững và ổn định cao, đồng thời tồn tại
một cách khách quan, không phụ thuộc vào tính dân tộc, tính giai cấp và thể chế
xã hội của bất cứ dân tộc nào. Nó mang tính giá trị cao bởi vì tính chất nền
tảng của đạo đức nhân văn trong việc ổn định và phát triển các mối quan hệ giữa
các cộng đồng người trên hành tinh, giữa toàn thể nhân loại với môi trường sinh
thái hoàn cầu”[11].
Những giá
trị phổ biến ấy phải đạt đến nền tảng luân lý mang tính ”siêu nghiệm” trong lương
tâm con người chứ không phải là những giá trị ngẫu nhiên và tùy thời của môi
trường kinh tế hay hoàn cảnh xã hội. Nếu theo nhận định của Jaspers về Thời Trục,
tức khoảng thời gian 6 thế kỷ, từ khoảng năm 800 và năm 200 trước Tây lịch, là
thời gian “xuất hiện những con người đích thực mà chúng ta còn chịu ảnh hưởng
cho đến ngày nay”[12], thời gian ”lần đầu
tiên xuất hiện các triết gia, nghĩa là những con người sống biệt lập, can đảm
chỉ tự tin vào có chính mình”[13]; và đó là quãng thời gian
“đâu đâu cũng thấy con người ý thức về toàn diện sự hữu, về chính họ và về
những giới hạn của họ”[14], thì chúng ta có thể nhận
ra thời kỳ này là giai đoạn con người thực hiện được những cuộc đột phá mang
tính “siêu nghiệm”, nghĩa là con người không còn hoàn toàn bị dính vào những
hoàn cảnh cụ thể, những ứng xử tuỳ thời, nhưng khám phá ra những giá trị căn bản
của “sự hữu”, của bản chất con người, vượt qua cả sự sống và cái chết.
Quả thật,
người ta nhận ra - trong một giai đoạn mà mà ta tạm chấp nhận như Jaspers, Thời
Trục – sự “lên ngôi” của một giá trị mà
ta có thể gọi được là “phẩm giá con người”. Chính biến cố “đột phá mang tính
siêu nghiệm”, làm nên một giá trị căn bản như thế, đồng thời, cũng đặt con người
trên một hành trình sứ vụ, có tính thống nhất, có tính “lý tưởng” gắn liền với
giá trị “siêu nghiệm” ấy. Từ đây, thực hiện nhân tính là giá trị tối hậu trong
cuộc sống nhân loại và trở thành tiêu chuẩn tâm linh căn bản. Dù hoàn cảnh lịch
sử có tạo nên nhịp điệu “lắc lư” của giá trị “siêu nghiệm”, nhưng vẫn không thể
tách rời cái giá trị “siêu nghiệm” mang ý nghĩa căn tính của phẩm giá con người.
Chính vì thế, Đỗ Minh Hợp khẳng định “siêu hình học, về nguyên tắc, là không
thể loại ra khỏi tồn tại người”[15], và sau khi đã minh chứng trong suốt bài viết về khẳng định ấy, tác giả
Đỗ Minh Hợp kết luận :
“Trong con người luôn có nhu cầu siêu việt hoá – vượt ra khỏi
giới hạn của tồn tại hiện có. Và chỉ có siêu hình học mới đáp ứng bằng cách tìm
tòi các nền tảng văn hoá của tồn tại người. Văn hoá tồn tại người được coi là
con đường siêu việt hoá của con người, và do vậy, siêu hình học biến thành siêu
hình học văn hoá. Toàn bộ nhân học hiện đại, về thực chất, là cái đóng vai trò
siêu hình học hiện đại”[16]
Học giả Đỗ
duy Minh[17] nói về khái niệm “nhân” nơi đức Khổng Tử theo
cùng một chiều hướng như thế :
“Sự tập trung vào tính chất quan trọng hàng đầu và tính đa diện
phong phú của khái niệm nhân trong Luận Ngữ là một biến cố vĩ đại trong vũ trụ
biểu tượng của tư duy Trung Quốc thời cổ và rõ ràng cho thấy rằng sự đột phá
này mang tính siêu nghiêm theo ý nghĩa là khái niệm Nhân, lần đầu tiên trong
lịch sử Trung Quốc, nhằm chỉ định một giá trị tối hậu vượt qua cả sự sống và
cái chết. Khổng Tử nói : “Một bậc thức giả cương quyết và một con người có lòng
nhân sẽ không bao giờ tìm cách sống mà để làm hại lòng nhân. Anh ta thà là hi
sinh cuộc sống của mình để thực hiện lòng nhân”(Luận Ngữ 15 :8).
Chúng ta có
thể thấy dấu ấn “siêu nghiệm” trong trong những nền văn hoá khác nhau như một
giá trị tuyệt đối vượt trên những biến thiên của môi trường, của hoàn cảnh, vượt
trên “bài toán” phản ánh của thế giới hiện thực khách quan vào ý thức con người.
Con người cần phải thực hiện vận mạng của mình, cần phải bảo vệ phẩm giá của
mình, và điều đó là một đòi hỏi vượt trên cả chính sự sống của mình nữa. Ta có
thể nói rằng, theo quan điểm đức Tin, con người phải thực hiện mệnh lệnh của Đấng
Tối Cao, nhưng có lẽ cũng cần phải nói, từ một hướng nhìn lấy con người làm
trung tâm, rằng con người tự đòi buộc chính mình “phải” vượt trên những phản ứng
có tính cách cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ cho chính phẩm giá của mình, theo kiểu
“thà chết vinh hơn sống nhục”….
Quả thật,
luân lý gắn liền với chiều kích tuyệt đối, gắn liền với dấn ấn “siêu nghiệm”, bởi
vì nó là chính phẩm giá con người. Người ta có thể chấp nhận thất bại khi lựa
chọn đường lối kinh tế sai lầm, người ta có thể mất tiền khi cá độ không chính
xác, . . . nhưng người ta không thể bị kết án, bị khinh dể vì một tiêu chuẩn
luân lý tuỳ thời, tuỳ hoàn cảnh. Chúng ta “nghe lại” một mẩu đối thoại trong một
chuyện phim nổi tiếng Sám Hối :
“Tonike (con của Abe, cháu Varlam) : - Chuyện về ông nội.
Abe :- Ông con không làm điều gì xấu cả; hồi đó là thời kỳ phức
tạp. Bây giờ khó mà giải thích được tất cả..
Tonike : thời kỳ thì có nghĩa lý gì ở đây ?
Abe: Có đấy con ạ. Tình hình lúc đó khác. người ta phải giải
quyết vấn đề : tồn tại hay không tồn tại. Kẻ thù bao vây chúng ta, chúng chống
lại ta. Theo con thì ta phải làm gì ? xoa đầu chúng à ?
Tonike: thậm chí Barateli
cũng là kẻ thù sao ?
Abe : Đúng thế, ông ta có thể là một hoạ sĩ giỏi, nhưng có nhiều
điều ông ta không hiểu. Hơn nữa, ba không nói rằng chúng ta đã không có sai
lầm. Cuộc sống của một hai người có nghĩa lý gì khi vấn đề liên quan đến hạnh
phúc hằng triệu người khác ? Nhiệm vụ của chúng ta hồi đó thật là nặng nề. con
phải nhớ điều đó phải phải biết nhìn xa thấy rộng hơn.
Tonike: Nghĩa là các người dùng phép tính số học để giải quyết
số phận con người, so sánh tỷ lệ phải không ?
Abe: Chẳng nên lý tưởng làm gì, ranh con ạ. Đã tới lúc con phải
biết rằng, đối với nột quan chức thì quyền lợi của xã hội bao giờ cũng được đặt
cao hơn quan điểm cá nhân. Vâng, chính thế. Con phải hiểu điều đó.
Tonike : Người ta sinh ra, rồi sau đó trở thành quan chức....”
Trong xã hội
chúng ta, có hiện tượng quá dễ dàng kết án người khác với những từ ngữ : phản động,
ngu xuẩn, điên cuồng, thằng này thằng nọ, nguỵ; đồng thời cũng thấy một sự ca
ngợi quá lố những nhân vật chính trị. . . Một cách nào đó, người ta đồng nhất
theo kiểu đồng nghĩa (univoque) thái độ chính trị và luân lý của con người. Khổ
thay, những thái độ kết án tuyệt đối ấy lại không bền vững; khi thời cuộc thay
đổi thì những kẻ bị kết án, hoặc những kẻ được đưa lên trời xanh lại thay đổi vị
trí. Những điều ấy thể hiện quan điểm luân lý chỉ là giá trị của một hoàn cảnh;
vô số người đã bị xúc phạm phẩm giá một cách bất công vì bị đồng hoá lập trường
chính trị, tư tưởng ý thức hệ với luân lý. Hệ quả nguy hiểm của thái độ này là
làm phai mờ dấu ấn “siêu nghiệm” trong tâm hồn con người. Điều đó không thể
không tạo nên trong tâm thức của nhiều người một chủ trương cơ hội chủ nghĩa,
và luân lý như một đòi hỏi chân chính trở thành điều thứ yếu.
3.3 Trả lại tầm mức ngôi vị cho cá nhân mỗi người
Con người
là một hữu thể có ngôi vị. Khái niệm triết học này, theo lối trình bày của kinh
viện[18], nói lên được tính siêu
việt của con người đối với vũ trụ; và theo đường hướng của thánh Thomas, nhấn mạnh
tới tương quan bản thể và lập hữu nơi Thiên Chúa. Những cách nhìn như thế rất
căn bản. Tuy nhiên, nền triết học nhân vị[19] lại nhìn ngôi vị con người một cách năng động
và độc đáo, làm sáng tỏ được nét đẹp hiện sinh của mỗi con người, theo đó, ngôi
vị là một cá thể tự thể hiện mình[20] như một tự do sáng tạo, hình thành nên một cấu
trúc giá trị cho bản ngã của mình. Như thế, ngôi vị con người được mặc lấy
xương thịt trong những lựa chọn có tính cách tự do. Trong khi cá thể chỉ là một
mẫu vật của một chủng loại, mất cá thể này, ta có cá thể khác thay thế, miễn
sao chủng loại được bảo đảm; thì ngôi vị lại là một đơn vị độc đáo tuyệt đối,
nghĩa là không ai khác, không một cá thể nào khác, dù cùng loại, có thể thay thế
hoàn toàn được. Tính cách độc đáo riêng biệt này được hình thành là nhờ một cấu
trúc giá trị mà mỗi người tự sáng tạo cho bản thân mình : tôi thích mầu xanh vì
nó làm cho tâm hồn con người dịu lại; tôi chọn nghề giáo vì đó là nghề đào tạo
chính nhân cách con người; tôi là người Việt, tôi yêu tiếng nói véo von của người
Việt…
Khi không
nhìn nhận cho đủ tính cách độc đáo như là nét căn bản của phẩm giá con người
như một ngôi vị, người ta sẽ dễ dàng đi đến chỗ đoàn lũ hoá con người, đoàn lũ
hoá bằng những phong trào, những thi đua, những xếp hạng, những khen thưởng, những
bình bầu, những kế hoạch đạt thành tích…;
bộc lộ trong một cung cách đầy tính cách tuyên truyền (ba giảm, bốn quyết
tâm, năm thi đua…). Chính nền tư tưởng coi thường phẩm giá con người, coi con
người chỉ như một sinh vật xã hội, nền tư tưởng ấy đã làm cho những giá trị
nhân sinh không thâm nhập và gắn kết với ngôi vị chân chính của con người, mà
chỉ tạo nên một lớp vỏ những giá trị thuần túy xã hội. Những giá trị này không
có khả năng “giáo dục” thực sự mà chỉ đúc khuôn, nhào nặn con người trong một
môi trường đầy tính phong trào của tập thể mà thôi.
Ngược lại,
một thái độ tôn trọng phẩm giá và tự do của con người sẽ luôn luôn đưa ra những
“lời gọi”[21],
những ”đề nghị” và mong được đáp trả trong tự do. Những “lời gọi” này, một khi
được đón nhận cách tự do chân chính, luôn bao gồm một chút sáng tạo, luôn bộc lộ
một nét độc đáo, luôn là một sự gặp gỡ “bên trong”, là sự thông hiệp ở mức độ
con người, thông hiệp giữa những giá trị chung của xã hội và ngôi vị độc đáo của
mỗi con người.
Như thế, có
thể nói được, phẩm giá con người được thể hiện một cách “có xương thịt” trong cấu
trúc giá trị riêng; vừa hoà hợp với tập thể, vừa độc đáo như một ngôi vị không
gì có thể thay thế được. Nói cách khác, ngôi vị con người chỉ thể hiện trọn vẹn
phẩm chất của mình khi thể hiện khả năng sáng tạo những giá trị riêng trong mối
tương quan nhân bản với người khác.
Một người
thanh niên được lớn lên trong bầu khí xã hội thời bao cấp và cả hiện nay thường
được thổi hơi bằng những phong trào, thường được đánh giá bằng những chiến dịch
thi đua, thường tìm cách khẳng định mình bằng những thành tích được tuyên
dương… Đường lối ấy luôn phải tìm ra thật nhiều chiến dịch, phát động thật nhiều
phong trào; đường lối ấy tạo niềm hăng say phấn khởi cho cá nhân bằng bầu khí
thi đua, và làm cho người ta chỉ tìm thấy niềm vui khi được khen thưởng. Ý
nghĩa tự nguyên của hành vi đạo đức đã bị bỏ quên và thay vào đó là những yếu tố
“đánh giá của xã hội”. Rất nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên đã nỗ lực để đạt
được những thành tích cao, nhưng nỗ lực ấy không xuất phát từ thái độ tự nguyện mà xuất phát từ lợi ích cá
nhân, từ cung cách đoàn lũ, chạy theo đám đông, chạy theo phong trào. Căn bệnh
này không chỉ có ở nơi giới trẻ, nhưng hiện nay đã bộc lộ như một căn bệnh nan
y ở nhiều cấp lãnh đạo, thuộc nhiều ngành khác nhau, đặc biệt là ngành giáo dục.
Điều đó chẳng những không luôn luôn góp phần xây dựng đạo đức từ góc độ cá
nhân; nhưng ngược lại rất thường phá huỷ hạt nhân đạo đức nơi cá nhân.
Những dũng
sĩ thi đua, những cá nhân tiến tiến, những người đạt thành tích xuất sắc ấy thường
tìm thấy niềm vui khi được khen thưởng, mà ít tìm thấy niềm tự hào khi mình sống
và thể hiện một giá trị nhân sinh do chính lựa chọn tự do của mình. Hệ quả là tạo
nên một tình trạng “hèn hạ” khá phổ biến, ngay cả nơi những tầng lớp ưu tú của
xã hội, chẳng hạn giới giáo chức. Ít có người dám khẳng đinh bản thân như “Tôi
sống liêm chính”, “tôi không nịnh bợ”, “tôi chủ trương dạy học vì chất lượng,
không vì thành tích”. . ., những thái độ ấy chẳng những thường không được tôn
trọng, những còn dễ bị trù dập, nhất là khi chúng trái ngược lại với những chiến
dịch, phong trào đang diễn ra. Người ta trở thành anh hùng trong những hành vi
“tốt”, chỉ bởi vì hành vi ấy được đặt trong chiến dịch thi đua, trong chuỗi
sinh hoạt của tập thể, trong bậc thang giá trị của phong trào; nhưng không thấy
hành vi “tốt” ấy gắn liền với bản chất cá nhân của mình. Chính vì thế, chúng ta
cũng có thể thấy, ngay trong chiến dịch thi đua sôi nổi nhất, những thái độ tắc
trách, vô trách nhiệm. Tôi còn nhớ mãi kinh nghiệm của lần đầu tiên đi thủy lợi
trong ấp Cây Dầu, Thủ Đức : để đạt được thành tích trong chiến dịch thủy lợi, tất
cả một ấp, từ trưởng ấp trở xuống, đều chặt lá và thân dừa, độn bên dưới đê thủy
lợi. Tất cả là nhằm tới thành tích thi đua, dù biết chắc rằng chỉ cần một con
nước lên, thân dừa nổi theo con nước sẽ phá đổ toàn bộ công trình đê thủy lợi
trong mấy ngày trời.
Những thành
tích và huy chương như thế không thể giúp cho những chiến sĩ thi đua, những anh
hùng lao động trở thành những con người liêm chính trong suốt cuộc đời. Bao lâu
còn chiến dịch thì còn phấn đấu, còn thi đua; bao lâu hết chiến dịch, tất cả
còn lại chỉ là một đống huy chương và một tâm hồn trống rỗng những giá trị nhân
bản; họ không có giá trị tự tại để làm xương sống cho hành trình cá nhân của đời
mình. Chính đường lối ấy khiến cho đất nước ta, khi chiến tranh thì ra ngõ là gặp
anh hùng, nhưng khi hết chiến tranh, đi đâu cũng thấy kẻ tiểu nhân. Chúng ta
cũng thấy nhan nhản, những thanh niên, đã từng là những dũng sĩ thi đua trong một
phong trào nào đấy, nhưng khi rời khỏi đoàn thể, lại dễ dàng trở thành những kẻ
tội phạm.
Trong bầu
không khí tập thể xã hội như thế, trong một xã hội có quá nhiều phong trào, quá
nhiều chiến dịch, quá nhiều bình bầu, thi đua, khen thưởng, thì chúng ta không
lạ gì khi căn bệnh thành tích trở thành thâm căn cố đế. Bệnh thành tích không
phải chỉ tai hại vì làm ra những sản phẩm kém chất lượng, nhưng còn phá huỷ phẩm
tính của sự thật, phá hủy lương tri, phá huỷ lòng tự trọng…và phá hủy nền tảng
đạo đức trong cấu trúc giá trị của ngôi vị con người. Chân nhận giá trị tập thể
của quần chúng là một nét hay, am hợp với tinh thần của Kitô giáo. Tuy nhiên, sự
vận động quần chúng mà không lắng nghe được phản ánh hồn nhiên của bản chất người
qua quần chúng thì, trong thực chất, chính là một sự khinh dể và sỏ mũi quần
chúng, một đám đông tội nghiệp dễ bị lợi dụng vì những mục tiêu không phải luôn
luôn là đúng. Nhờ các phong trào quần chúng, những con người chất phác nghèo khổ,
bỗng trở thành những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm, điều đó không ai
phủ nhận được; nhưng liền sau đó, quần chúng lại bị biến thành những kẻ "máu
lạnh” khi cuồng nhiệt đấu tố cả những người thân.
Mặt khác, nếu
một xã hội chỉ có “kỷ cương phép nước” mà không có “luân thường đạo lý”, thì mỗi
cá nhân sẽ tìm đủ mọi cách để phá rào. Hoàn cảnh xã hội sẽ luôn luôn có những kẽ
hở luật pháp để những cá nhân không có đạo đức tìm được cách thức trốn tránh luật
pháp; xã hội ấy là một xã hội băng hoại .
. .
3.4 Trả lại bầu khí trong lành để mỗi người tìm lại được ý nghĩa “ơn gọi” và “sứ vụ”
Con người,
trong bản chất của mình, không thể dừng lại ở mức độ sống liêm chính; không làm
hại ai, nhưng cũng chẳng cần hết lòng với ai. Con người, trong tầng sâu của bản
chất người, luôn khao khát sống cuộc đời
mình với một ý nghĩa cao đẹp (ơn gọi), và luôn muốn thể hiện bản thân như một sự
trao ban trọn vẹn trong một sứ vụ.
Để làm rõ
thêm, ta thử so sánh hai ý niệm ơn gọi và sứ vụ với ý niệm nghề nghiệp và công
tác. “ơn gọi” khác với “nghề nghiệp”. Nghề nghiệp là một công việc mình lựa chọn,
hoặc bị ép buộc phải làm, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nghề nghiệp là phương
tiện để kiếm sống, là một phương cách đổi chác, đổi điều mình đang “có“, để tìm
một “cái có” khác cần thiết hơn. Trong khi đó, ơn gọi, hiểu một cách rộng rãi,
lại là điều làm nên ý nghĩa trọn vẹn của một cuộc đời. Ơn gọi gắn liền với ý
nghĩa bên trong, ơn gọi là sự thôi thúc thể hiện cái mình “là”. Phẩm chất của
nghề nghiệp có thể đo đếm được, vì nghề nghiệp liên quan đến điều kiện làm việc
khách quan, đến đồng lương cao thấp mà mình lãnh nhận; và khi hoàn cảnh xã hội
thay đổi, thì người ta có thể thay đổi nghề để có điều kiện làm việc và đồng
lương tốt hơn. Trong khi đó, ơn gọi thì không đo đếm được, ơn gọi cũng không dễ
dàng thay đổi, nếu như người ta không muốn đánh mất ý nghĩa sâu xa của đời
mình. Phẩm chất của ơn gọi, mạnh mẽ hay yếu nhược, liên quan đến ý nghĩa vận mạng
một đời người. Nói “nôm na”, nghề nghiệp thì có thể có thời gian “nghỉ phép”,
hoặc “nghỉ hè”; nhưng ơn gọi thì không thể có nghỉ phép hoặc nghỉ hè. Làm cha/mẹ,
đi tu…là ơn gọi chứ không phải nghề nghiệp, do đó, không ai có thể “nghỉ hè
tu”, hoặc “nghỉ hè làm mẹ”.
Cũng thế, sứ
mạng khác với công tác. Công tác là một phần của nghề nghiệp, và công tác được
hoàn thành theo mức độ đòi hỏi tương đối của nghề nghiệp cũng như của hoàn cảnh
khách quan bên ngoài. Trong khi đó, sứ mạng lại là điều xuất phát từ sự thúc
bách của ơn gọi, sự thúc bách của trọn vẹn ý nghĩa một đời người. Do đó, sứ mạng
không lấy tiêu chuẩn của ai khác, của hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là một sự thúc
bách từ bên trong, thúc bách làm nhiều nữa, làm hơn nữa, đến độ không lấy giới
hạn nào làm đủ, thúc bách phải gom góp hết mọi năng lực của bản thân mình, hoặc
vơ lấy cả những năng lực của Thần Thánh, để thể hiện cho bằng được. Người làm
cha/mẹ, bình thường, là những người đã thực sự hy sinh cho con cái “đủ” rồi, hoặc
“quá đủ” rồi; nhưng cũng bình thường, ít có người cha/mẹ nào chấp nhận một cách
thanh thản : con đã lớn rồi, nó có thân nó phải tự lo lấy… Ngược lại, ngay cả
khi đứa con của mình đã “hơn” mình mọi phương diện, khỏe mạnh hơn, tài giỏi
hơn, giầu có hơn… thì người cha/ mẹ lại muốn vơ lấy thần thánh để phù giúp cho
đứa con “bé bỏng” của mình.
Nhìn lại vận
mạng một đời người, ta có thể thấy khá rõ: ai đó không có được một ơn gọi cho bản
thân mình[22],
người đó vẫn chưa thể sống trọn ý nghĩa và giá trị một cuộc đời. Cũng thế, cuộc
đời mà không được thể hiện ra như một sứ vụ, cuộc đời ấy chỉ là một cuộc chiến
đấu thảm hại để sống còn; chỉ là một thứ toán tính, đổi chác nhằm hưởng thụ, hoặc
tìm sự thanh thản đóng khung trong cái tôi nhỏ bé của mình; chỉ là một phương
cách đối phó để quanh quẩn trong mức độ trung bình cộng. Không có ơn gọi và sứ
vụ, đó là một tâm hồn không có tâm huyết, một cuộc sống không có lẽ sống, một
con người chưa thành nhân.
Sự xuống cấp
về đạo đức trong xã hội hiện nay, trong tầng sâu của nó, có liên can đến tình
trạng mất căn tính của mỗi cá nhân. Trước đây, nhiều nhà giáo, hoặc bác sĩ chọn
nghề cho mình như một “ơn gọi”, và thể hiện chứ năng nghề nghiệp của mình như một
sứ mệnh. Thậm chí, trước đây, trong những ngành nghề hết sức “bình dân” như nghề
mộc, nghề may, nghề hớt tóc,… thì người ta vẫn có một thứ “lương tâm nghề nghiệp”,
biểu lộ ra như một sự “tự hào” về phẩm chất “cái mình là”, và người ấy không thể
chấp nhận sản xuất ra những sản phẩm sai lỗi : “tao là thợ mộc, không thể đóng
một cái bàn sai quy cách như vậy. Bỏ đi, lấy gỗ khác làm lại, lỗ cũng phải chịu…”.
Tâm thức con người hiện nay thì khác hẳn. Ngay trong những ngành liên can trực
tiếp đến mạng sống và tâm hồn con người, ngành giáo dục và y tế, thì người ta vẫn
không còn thấy một chút ý nghĩa bên trong của “cái mình là”. Tình trạng đó có
phải là hệ quả của chủ trương giản lược “con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”
không ?
Thực sự, bản
chất người luôn liên can đến một cuộc “vượt qua”, một sự “vươn lên” không ngừng
nghỉ. Con người cần vượt trên mức độ công tác để đảm nhận sứ vụ, con người cần
phải vượt trên mức độ tìm lợi lộc cá nhân, hoặc mức độ tìm dung hoà lợi lộc cá
nhân với lợi lộc tập thể[23], để tìm thấy ý nghĩa
trong một sự hy sinh chính bản thân của mình :
“Đức Giê-su trả lời : "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và
Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý
trọng người ấy." (Ga 12, 23-26)
Kết luận
Đất nước
chúng ta đã vượt qua tình trạng nghèo đói, khi mà nền “kinh tế chỉ huy” đã
không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu muôn mặt của con người, và chính phủ đã
phải đổi phương thức kinh tế bằng kinh tế thị trường. Chính nhu cầu muôn mặt của
đời sống vật chất đã buộc xã hội chúng ta phải đi đến nền “kinh tế thị trường”.
Cũng thế,
trong tình hình kinh tế thị trường như hiện nay, chúng ta thấy một nền “tư tưởng
chỉ huy” không có khả năng đáp ứng cho tình hình mới của nhân cách con người.
Chính nhu cầu muôn mặt của tinh thần đòi hỏi con người phải được hít thở bầu
khí “tư tưởng trị trường”. Sự độc quyền trong tư tưởng còn làm cho con người ngạt
thở hơn cả sự độc quyền trong kinh tế. Tình trạng xuống cấp đạo đức hiện nay ở
nước ta cho thấy nhân loại vẫn chưa tìm được một nền tư tưởng nào có khả năng
khai mở “bí ẩn” của bản chất người. Cho đến hiện nay, những nền tư tưởng hoặc
chế độ xã hội mang tính cách “toàn trị” vẫn có nguy cơ giản lược và đè nén bản
chất người nhiều hơn là khai mở một chân trời huyền nhiệm của bản chất người.
Trong ý nghĩa ấy, chúng ta hy vọng một chính sách rộng mở, một sự “giải phóng”
đích thực, nghĩa là để nhiều luồng tư tưởng, nhiều tổ chức văn hoá, tôn giáo
cùng đóng góp vào việc phát triển cơ cấu nhân cách của con người trong xã hội
hiện nay.
Nguyễn
Trọng Viễn O.P.
[1] X. Đỗ Lan Hiền, Vấn Đề Xây Dựng
Đạo đức trong Bối cảnh Phát triển Kinh tế Thị trường, Triết Học số 4-2002,
trang 16.
[2] X. Nguyễn Đình Tường, “Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và
giải pháp khắc phục”, Triết Học số 6-2002, trang 20.
[3] Xin coi danh mục những đề tài
nghiên cứu trong phần tham khảo.
[4] Xc. Lương Việt Hải, Về khái
niệm “Hiện đại hoá xã hội”, Triết Học, số
1/2003, trang 14-15.
[5] Tâm Mạc, Làm gì để khắc phục “thập nạn” trong sinh viên ?, Tạp chí Phát
triển giáo dục số 1, 1995; trích lại trong Nguyễn Đình Tường, Sđd, trang 19
[6] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiên
Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996
tr. 137.
[7] Trần Văn Đoàn, Đại Học Tổng Hợp
quốc gia Đài Loan, {An Anatomy of the
moral crisis in the process of modernization,
international journal of philosophy, vol 30, N.I.2001.p.1-17}; Trích
lại trong Tài liệu : Trung Tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện
Nghiên Cứu Con Người, Trở Lại Với Con Người, Nxb Khoa Học Xã Hội , Hà
Nội 2003.
[8] Xc. Hồ Sĩ Quý, Mấy Tư Tưởng
Lớn của C. Mác về Con Người, Triết Học 6/2003, Viện Triết Học, Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, trang 12-18.
[9] Xin tạm dùng từ “siêu nghiệm”,
không phải theo nghĩa của “những siêu nghiệm” của Aristote, cũng không phải
theo nghĩa của E. Kant…; không chỉ đối lập chủ trương duy nghiệm phê phán,
nhưng cũng khác biệt với lập trường của triết học Mác,… để chỉ những phẩm tính căn bản của bản chất
người, những phẩm tính trường tồn, nhưng chỉ được được lộ ra qua những biến
chuyển của dòng lịch sử. Xin dùng từ “siêu nghiệm” ở đây với sắc thái hơi giống
như lập trường “Duy thực ôn hòa” của Thánh Thomas trong vấn đề “các ý niệm phổ
quát”.
[10] Tiến sĩ triết học, Trưởng phòng
Nghiên cứu triết học Việt Nam,
viện Triết Học.
[11] Trần Nguyên Việt, Giá Trị Đạo
Đức Truyền Thống Việt Nam và Cái Phổ Biến toàn Nhân Loại của Đạo Đức trong nền
Kinh tế Thị Trường. Triết Học, 5/2002, viện Triết Học, Trung Tâm Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn Quốc Gia, trang 20.
[12] Karl Jaspers, Triết Học Nhập
Môn, bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, Nxb. Ca Dao 1974, trang 194.
[13] Như trên, trang 197.
[14] Như trên, trang 194.
[15] Đỗ Minh Hợp, “Siêu Hình Học :
tồn tại hay không tồn tại”, Tạp chí Triết Học, Viện Triết Học, Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, số 7/2002, trang 53.
[16] Đỗ Minh Hợp, Sđd, trang 53.
[17] Giáo sư Đỗ Duy Minh, Đại học
Harvard, bài tham luận “The Way, Learning, and Politucs in classical
Confucian Humanism”, tại hội nghị về “The Axial Age and its Diversity”,
Hamburg, Germany, từ ngày 4 đến 8 tháng Giêng, 1983. Xc. Dương Ngọc Dũng – Lê
Anh Minh, Triết gíao Đông Phương, Nxb. Đại Học Quốc Gia, Tp Hồ Chí Minh, 2003,
trang 242-243.
[18] Theo định nghĩa của Boèce
[480-525], được triết học Kinh Viện sử dụng, ngôi vị là : bản thể cá thể thuộc
bản tính có lý trí [rationali naturae invidua substantia].
[19] Emmanuel Mounier [1905-1950] là
người khởi xướng trào lưu Personnalisme này.
[20] J. Lacroix nói : “Ngôi vị không
phải là một dữ kiện nhưng là một nghĩa vụ phải là”.
[21] Những người theo chủ thuyết nhân
vị lưu ý về sự kỳ diện của từ “tiếng gọi” (l’appel) : kêu gọi ai tức là chỉ
định họ bằng một tên gọi, đồng thời cũng chờ đợi nơi họ một câu trả lời làm nên
chính hữu thể của người ấy.
[22] Hiểu theo tinh thần Kitô giáo,
“ơn gọi” còn có một ý nghĩa sâu xa và trọn vẹn hơn nhiều : sống ơn gọi nghĩa là
sống trọn ý nghĩa cuộc đời trong mối tương quan ngôi vị với một ai khác. Chỉ có
mối tương quan từ chính bản thân, nghĩa là mang chính bản thân mình ra để “giao
ước” (chẳng hạn giao ước của Bí Tích Thánh Tẩy ), làm nên một thứ “cộng đồng
ngôi vị” (giống như đời sống gia đình), mới có thể hình thành nên ơn gọi đích
thực và thúc đẩy đi đến một sứ mạng đích thực. Ngược lại, khi làm việc với sự
vật (tất cả những gì không phải là bản thân của ai khác), người ta luôn bị rớt
xuống tình trạng, hoặc “chôn vốn đời mình” trong sự thanh thản khép kín, hoặc
“phá sản đời mình” trong cuộc đổi chác với xã hội.
[23] Xc. Phạm Mậu Tuyền, Những Nhân
tố Cơ bản qui định sự Hình thành và Phát triển Nhân cách, Triết Học, 3/2002,
trang43-48.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.