Nghịch lý của Tình Yêu Kitô giáo
Ai
cũng biết Kitô giáo là đạo yêu thương. Tuy nhiên, trên thế gian này có rất
nhiều cách hiểu về tình yêu. Rồi người ta suy diễn từ những cách hiểu về tình
yêu của mình để "hiểu" về đạo. Thế là phẩm chất Kitô giáo cũng trở
thành nhiều thứ khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau theo những cách hiểu về
tình yêu khác nhau.
Đức
Benedicto XVI, trong Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, sau khi trình bày sự khác biệt giữa hai thứ tình yêu
eros và agapê, đã nói rằng :
“Nếu
như người ta đưa việc đối kháng này đến mức triệt để, thì điểm đặc thù của Kitô
giáo sẽ bị tách ra khỏi những liên hệ căn bản của cuộc sống con người, và trở
thành một thế giới đặc biệt, người ta có thể nhìn ngắm một cách kinh ngạc,
nhưng lại bị cắt lìa khỏi sự toàn diện của đời sống con người” (số 7)…
và “…trên
căn bản, tình yêu là một thực tại duy nhất, nhưng lại có nhiều chiều kích khác
nhau – tùy trường hợp, có thể chiều kích này nổi trội hơn chiều kích kia. Nhưng
nơi nào cả hai chiều kích bị tách biệt nhau, thì sẽ xuất hiện một bức hý họa,
hay có khi một hình thức què quặt của tình yêu” (số 8).
Khẳng
định của đức Bênêdictô XVI cho thấy Kitô giáo không phải là một sự đối nghịch
với những giá trị bình thường của cuộc sống nhân sinh; và tình yêu Kitô giáo không
loại trừ những giá trị tốt đẹp của tình yêu đời thường. Tuy nhiên, Kitô giáo
cũng không phải chỉ là một hệ thống giáo thuyết luân lý mà người ta có thể tìm
thấy những điều tương tự trong các giá trị luân lý của xã hội con người. Kitô
giáo bao hàm một cách thiết yếu tác động cứu độ của Thiên Chúa như một sự đảo
nghịch quy luật thường tình của cuộc sống. Như thế, tình yêu Kitô giáo cũng có
phẩm chất riêng, mà nói như đức Bênêdictô XVI, đó là : tình yêu Agape sẽ thanh
luyện tình yêu Eros.
"Sự
thanh luyện và trưởng thành rất cần thiết, và các điều này phải kinh qua con
đường từ bỏ. Đây không phải là phủ nhận, cũng không phải là "đầu độc"
eros, nhưng là chữa lành để đạt được sự cao cả thực sự của nó " (số 5)
Đức
Benedictô XVI còn tiếp tục trình bầy rõ hơn về sự thanh luyện ấy trong số 6 của
Thông Điệp, mà trọng tâm chính là con đường từ bỏ.
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất
; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống
đời đời".(Ga 12,25)
Nói
cách khác nữa, Kitô giáo đảm nhận tất cả những giá trị của tình yêu nhân loại,
nhưng làm biến đổi tình yêu ấy trong tác động cứu độ của Thiên Chúa; và Ngài
làm cho tình yêu nhân loại được thực hiện một cách trọn vẹn trong một phương
cách đảo ngược kỳ diệu. Có lẽ chính con đường từ bỏ, diễn tả tính cách đảo
ngược, tính cách "nghịch lý", chính là phẩm chất rõ nét nhất của tình
yêu chân chính đến từ Thiên Chúa. Nghịch lý ở đây không phải là một sự mâu
thuẫn, và không phải là một thái độ chủ trương một niềm tin chống lại lý trí
như nhà thần học Tertulien (tôi tin vì sự nghich lý). Nhưng nghịch lý ở đây là
một sự đảo ngược những thói quen suy nghĩ, những thói quen hành động của con
người, và bày tỏ cho thấy một "cách nghĩ" khác của chính Thiên Chúa
để làm cho tình yêu trở nên tuyệt hảo. Chúng ta thử suy niệm một vài nét về
tính cách đảo ngược ấy..
1. Thay đổi trọng tâm
Khi tôi yêu, thế giới của tôi không còn là
thế giới của cái tôi đơn độc, lù lù ra đó; nhưng nó bỗng nhiên trở nên mỏng
mảnh, mông lung, và thiếu thốn. Khi tôi yêu, cái tôi vốn được tôi coi như là
cái rốn của vũ trụ bỗng nhiên trở nên không quan trọng nữa; trước đây, tôi suy
nghĩ một sự từ cái nhỉn của tôi, tôi yêu thích mọi sự từ trái tim của tôi, tôi
xử dụng mọi sự theo sự thuận thiện cho tôi…., thì nay, điều quan trọng hơn cả
lại là làm sao tốt nhất cho người tôi yêu. Khi tôi yêu, tôi mong điều tốt cho
người tôi yêu; tôi quan tâm đến người tôi
yêu hơn là quan tâm về chính bản thân tôi. Như thế, trọng tâm của đời tôi bắt
đầu thay đổi. Tôi bắt đầu biết di chuyển trọng tâm đời tôi ra khỏi cái tôi ích
kỷ và giới hạn của tôi để đặt trọng tâm cuộc đời nơi người tôi yêu. Rồi với một
trọng tâm khác thì ý nghĩa của thành công hay thất bại cũng khác. Cái thành
công của tôi có thể lại trở nên xấu, nếu nó mang lại điều không hay cho người
tôi yêu. Ngược lại cái đau của tôi lại có thể trở nên tốt khi nó được đánh giá
từ trọng tâm là điều tốt cho người tôi yêu. Với tình yêu thương, cuộc đời có
thể thay đổi hoặc đảo ngược ý nghĩa; vì trong tình yêu, cuộc đời, thay vì là
vun quén cho bản thân, lại trở thành như một hành vi cho đi; và cho đi trọn vẹn
nhất chỉ có thể là cho đi chính bản thân.
2. Ra khỏi bản thân
Sự vật vật chất thì “lù lù” ra đó, nó là nó.
Nó chẳng bao giờ ra khỏi bản thân, nên cũng chẳng đổi ra khác được. Nó sống hay
chết cho một mình nó. Sự sống thì có một cơ chế đặc biệt hơn, sự sống có thể tự
gạn lọc để thu nhận những gì thích hợp, tiêu hóa những gì mình thu nhận để biến
trở nên chính xương thịt của mình. Sự sống cũng “tìm cách” ra khỏi bản thân
mình để muốn sống “trường tồn” bằng sự sinh sản. Thế nhưng sự sống của con vật,
thì dù tiêu hóa cao lương mỹ vị gì, thì vẫn chỉ là nó; và khi nó “ra khỏi bản
thân” qua sự sinh sản, thì cũng chỉ là một sự kéo dài thêm sự sống của nòi
giống. Cá thể của sinh vật chỉ là phương tiện cho giống nòi, và chính giống nòi
của con vật thì cũng không có cứu cánh tự thân. Con người cũng là một sự sống,
nhưng sự sống của con người thì khác hẳn. Đó là một sự sống có phẩm chất tinh
thần, nó có thể ra khỏi bản thân mình để đạt đến một sự hiệp thông sâu xa với
ai khác, nó có khả năng “trường tồn” khi chuyển sự sống của mình sang người
khác.
Sự chuyển thông này không phải chỉ là chuyển
thông sự sống sinh vật của giống nòi. Bởi vì con người vốn là một sinh vật
tương đối, nhưng lại mang phẩm giá của tuyệt đối. Bản thân tự tại của con người
thì rõ ràng là một sinh vật tương đối. Tất cả thành công hay thất bại của tôi
chỉ là cái hết sức tương đối. Tôi thành công thì có người thành công hơn tôi;
tôi đau thì cũng có người còn đau hơn tôi; cuối cùng cuộc đời tôi đụng chạm vào
cái chết, và mọi sự dính dáng đến tôi cũng tỏ hiện tất cả tính tương đối căn
bản của nó trong cái chết của tôi. Tuy vậy, trong thế giới con người với nhau,
và trong thế giới của Chúa, con người là một cá thể có giá trị độc đáo mà không
thể lấy một điều gì khác để thay thế được, con người có cứu cánh tự thân và
không thể trở thành phương tiện cho bất cứ điều gì khác hay cho bất cứ ai khác.
Như một cá nhân độc đáo, con người có mơ ước của mình, những những niềm vui và
ý thích riêng của mình, có lịch sử của minh. Con người như một cá thể độc đáo,
có quyền mơ ước trường tồn, có khát vọng tuyệt đối. Chính con người cao quý và
tuyệt đối ấy, khi yêu, đã chấp nhận đã ra khỏi bản thân mình, để đến với người
khác. Chỉ khi yêu thì con người mới có khả năng ra khỏi bản thân mình để đến
với ai khác; nói cách khác, chỉ có một "ngõ ra" của con người đó là
ngõ ra của tình yêu.
3. Dấn thân vì người khác
Triết gia G. Marcel cho rằng người ta không
thể dấn thân vì mình, không thể dấn thân vì sự vật, ngay cả với một lý tưởng,
nhưng chỉ có thể dấn thân vì một ai khác. Khi người ta lao vào cuộc để củng cố,
để thăng tiến bản thân mình, người ta dễ rơi vào kiêu ngạo hoặc ích kỷ, đó là
thái độ đóng kín trong chính mình. Tất cả vẫn chỉ là làm phình to lên cái tôi
của mình mà thôi. Khi người ta dấn thân vì sự vật, vì một thứ chân lý khách
quan nào đó, vì một công trình tuyệt vời nào đó, thậm chí vì một lý tưởng cao
đẹp nào đó mà không hướng đến ai khác, thì thật sự ra đó cũng chỉ là một sự dấn
thân vì mình mà thôi.
Dấn thân chân chính chỉ có thể là dấn thân
vì ai khác. Dấn thân vì ai khác mang phẩm chất của một hành trình được nuôi
bằng nghĩa tình, được hoàn thành khi đạt đến đích điểm là nghĩa tình chứ không
phải là sự thành công của bản thân tôi hay hoàn thành một công trình có tính
"sự vật" nào đó. Chẳng hạn : người đi vào đời sống hôn nhân hoặc đời
sống tu trì đều một cách nào đó là những người “điếc không sợ súng”, nghĩa là
không thấy hết được những khó khăn trong ơn gọi và sứ vụ mà mình lựa chọn. Điếc
không sợ súng, một cách nào đó, là “tưởng bở” hóa ra là “dai”. Thế nhưng cái
hay của hành trình “điếc không sợ súng” là : chính trên hành trình không được
duyệt chính do lý trí, con người vẫn có thể đi cho trọn vẹn được. Đúng hơn,
chính hành trình điếc không sợ súng thật ra lại tỏ lộ rõ rệt hơn động lực của
hành trình : chính những tương giao trên hành trình dấn thân vì ai khác, chính
những nghĩa tình được xây dựng trên hành trình dấn thân mới có thể nuôi dưỡng
và trở nên động lực của hành trình dấn thân. Điếc không sợ súng, điều đó cũng
có nghĩa là động lực để người ta đi trên đường đời, sâu xa hơn, không phải là
lý trí lựa chọn một chương trình, không phải là một lý tưởng đẹp được mơ ước…
nhưng chính bề dày nghĩa tình, nghĩa là chính những tình nghĩa, chính vì tha
nhân mà ta gặp trên hành trình dấn thân làm cho người ta tìm được sức sống mới,
liên tục phát sinh sức mạnh để đi trên hành trình ơn gọi và sứ vụ. Điếc không
sợ súng, đó cũng là điều cần thiết, vì khi đó, người ta lao vào cuộc, có thể vì
tưởng bở, nhưng không phải đi vào cuộc với sức mạnh và chương trình của mình,
mà là nhờ sức mạnh của tình liên đới cụ thể, càng đi thì càng “tự sạc” điện cho
mình bằng những kinh nghiệm của sống-với. Điều đó cũng cho thấy con người chỉ
có thể dấn thân thực sự và dấn thân đến cùng vì ai khác, chứ không phải vì một
chương trình hay vì bất cứ một sự vật nào khác.
4. Gặp lại chính mình
Trong thế giới con người, chỉ có hai lãnh
vực mà trong đó, con người kinh nghiệm được sự nghịch lý căn bản của đời sống
con người, hai lãnh vực đó là tình yêu và tôn giáo, và điều nghịch lý căn bản
đó là : ra khỏi bản thân mình để lại tìm gặp lại được chính mình một cách toàn
vẹn hơn. Người cha/mẹ chẳng hạn, sống tình yêu thương đối với con cái, và cảm
nhận ra mình được là mình thật sự (được là cha/mẹ) khi vất vả làm ăn để nuôi
con, khi được chăm sóc cho con, và nhất là khi nhận ra đời mình, dù có tầm
thường đến đâu cũng được, miễn là con mình được nên người.
Công
Đồng Vatican II diễn tả chân lý sâu xa của vận mạng con người như sau :
“Con người là tạo vật duy nhất ở trần gian
được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lai chính bản thân mình
nhờ thành thực hiến dâng” (MV 24c).
Chính
chân lý ấy được Đức Giêsu trình bày nhiều lần trong Tin Mừng :
- "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự
sống đời đời".( Ga 12,25)
- "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".( Ga 12,24)
- "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi
được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có
quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận
được."( Ga 10,18)
Tình
yêu Kitô giáo là một sự đảo ngược, trong đó, tình yêu thực sự vượt thắng được
chính cái tôi ích kỷ, cái tôi muốn thành chính mình không cần đến ai khác, cái
tôi mà con người mang lấy trong thân phận của "tội tổ tông", nghĩa là
tự mình hoàn tất đời mình, trở nên như thần thánh, chỉ bằng một phương cách
khẳng định điều thiện điều ác của chính mình.
Kết
Đi vào nhịp bước tình nghĩa,
người ta được mời gọi ra khỏi bản thân, dấn thân vì tha nhân và dấn thân cho
đến cùng. Tiếng gọi của tình yêu chân chính bao giờ cũng thôi thúc con người
đến một cách sống yêu thương trọn vẹn, triệt để, yêu thương đến cùng. Hành
trình của tình yêu không phải nhằm đạt đến một sự an hòa cho bản thân, nhưng là
vượt quá bản năng bảo vệ bản thân. Đó luôn luôn là một cuộc “vượt qua”. Tình
yêu thương, trong khía cạnh dính dáng đến vận mạng con người, không thể được
giải quyết bằng thái độ “đi giầy cao gót”, thái độ “đi cà khêu” trong cuộc đời.
Để đến với ai khác trong tình yêu, ai khác như một bản thân có giá trị tuyệt
đối, ai khác như vận mạng một đời người, ai khác với tất cả sự phức tạp của
cuộc đời, người ta cũng phải hy sinh cả một đời.
Nguyễn Trọng Viễn O.P.
Con cảm ơn cha, bài viết tuyệt vời.