Dấu chỉ thời đại [1]
Theo cha Chenu, ý niệm “dấu chỉ
thời đại” là một trong ba hoặc bốn từ ngữ quan trọng nhất của Công đồng Vatican
II[2].
Việc tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ này chẳng những có thể giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về Công đồng Vatican II, nhưng còn là giúp chúng ta sống đức Tin một cách
trưởng thành và có trách nhiệm giữa cuộc đời; nghĩa là dám đồng hành với bước
đi của lịch sử nhân loại, trong ánh sáng của Tin Mừng và với sức mạnh của Thần
Khí. Đó cũng là cách thức sống đức Tin phù hợp với tâm thức của Giáo Hội, phù
hợp với sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trong thời đại hôm nay.
1. Lịch sử
Từ ngữ “dấu
chỉ thời đại” là một từ ngữ khá mới trong lịch sử Giáo Hội. Người ta thấy, vào
thế kỷ XVII, Melchior Cano nói về lịch sử như một “nơi chốn thần học”. Trong
thời đại chúng ta, đức Hồng y Faulhaber đã từng dùng kiểu nói “Tiếng của
thời đại, tiếng của Chúa”[3].
Về phần giáo quyền, đức Pio XII đã đề cập đến đề tài này nhiều lần, đặc biệt
trong diễn văn trước hồng y đoàn ngày 20-2-1946. Tuy nhiên, chỉ với Công đồng
Vatican II, từ ngữ này mới trở thành một điểm then chốt của thần học, là chiều
hướng chính trong hoạt động của Giáo Hội và là một nét căn bản trong đời sống
đức tin Kitô giáo.
1.1 Thời gian chuẩn bị Công đồng Vatican II
Ngày
25-12-1961, trong tài liệu chính thức triệu tập Công đồng Vatican II, đức thánh
cha Gioan XXIII đã sử dụng từ ngữ “Dấu chỉ thời đại” và qui chiếu vào đoạn Tin
Mừng Mt 16,3 :
“Bấy giờ, có những người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái
Xa-đốc lại gần Đức Giêsu, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ
trời. Người đáp : ‘Chiều đến, các ông nói : Ráng vàng thì nắng’, rồi sớm mai,
các ông nói : ‘Ráng trắng thì mưa’. Cảnh sắc bầu trời thì các các ông biết cắt
nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi” (Mt 16,
1-3)
Ban đầu
chẳng mấy ai chú ý đến cách dùng từ ngữ ấy cũng như nội dung cụ thể của nó. Tuy
nhiên, trong thông điệp Hoà Bình Trên Trái Đất (11-4-1963), đức thánh cha Gioan
XXIII nhắc lại ý tưởng đó và sử dụng nó như một khái niệm then chốt hướng dẫn
tất cả những triển khai của thông điệp. Mỗi phần trong ba phần của thông điệp
được kết thúc bằng một phân tích những nét tiêu biểu của thời đại, nhằm cố gắng
triển khai “những viên đá chờ đợi”[4],
để tỏ bày sự hiện hiện và hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới.
Tiếp theo
đó, Đức Phaolô VI, trong thông điệp đầu tiên của mình, Ecclesiam suam (công bố
ngày 6-8-1964), rõ ràng đã triển khai đường hướng của vấn đề trên. Ngài nói : “phải
kích thích trong Giáo hội sự chờ đợi trong sự tỉnh thức kiên trì đối với những
dấu chỉ thời đại . . . xác nhận tất cả những sự vật và gìn giữ điều gì là tốt
trong mọi thời cũng như trong mọi hoàn cảnh”…
Cuối cùng,
chính hiến chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng mới diễn tả ý nghĩa phong phú của từ
ngữ dấu chỉ thời đại. Thay vì tách biệt và xa lạ với thế giới, Giáo Hội đặt
mình trong trong dòng lịch sử trần thế, Giáo Hội đồng hành với con người; Giáo
hội chăm chú tìm kiếm, lắng nghe, khám phá tiếng nói cũng như hoạt động của
Thiên Chúa trong dòng lịch sử trần thế qua những “dấu chỉ thời đại”.
Tuy nhiên, vì một số chuyên viên
Kinh Thánh dè dặt với cách hiểu từ ngữ này, nên các nghị phụ công đồng đã không
dùng từ ngữ Kinh Thánh nữa và chỉ nói về “dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên
Chúa và về hoạt động của Ngài”. Dầu vậy, trong phiên họp thứ bốn, cuối năm
1965, các nghị phụ lấy lại diễn ngữ “dấu chỉ thời đại” mà không qui chiếu vào
đoạn văn Kinh Thánh Matthêu 16, 1-3. Người ta thấy rằng đề tài “dấu chỉ thời
đại”, cách này cách khác, có mặt trong từng chương của hiến chế Mục Vụ Vui Mừng
và nhiều chỗ khác trong bản văn Công đồng.
1.2 Ý niệm “dấu chỉ” trong sách Thánh
Như đã nói,
việc triển khai ý niệm dấu chỉ thời đại của hiến chế Mục Vụ không phải là không
có tranh luận. Đặc biệt, những nhà chú giải Kinh Thánh đã lưu ý đến tính hàm hồ
cũng như những nguy hiểm trong việc sử dụng từ ngữ Thánh Kinh nhằm tìm trong
thế giới những dấu chỉ quá trực tiếp của sự can thiệp của Thiên Chúa, như thể
Thiên Chúa là nguyên nhân trực tiếp và loại trừ mọi nguyên nhân của con người
trong diễn tiến của thế giới. Theo cách hiểu đó, tự do của con người chỉ còn là
một “trò chơi” trong diễn tiến lịch sử. Các nhà chú giải Thánh Kinh có lý khi
tỏ ra dè dặt với một sự chuyển tiếp “quá nhanh”, quá trực tiếp từ ý nghĩa của
từ ngữ dấu chỉ trong văn mạch và trong ý nghĩa xác định của Thánh Kinh, đến một
ý nghĩa xác định khác trong lịch sử và trong thế giới hiện tại. Do đó, cần phải
tìm hiểu ý nghĩa của ý niệm “dấu chỉ” trong Kinh Thánh.
1.2.1 Cựu ước
Cựu ước đã
nói nhiều về những “dấu chỉ”[5]
của Thiên Chúa : Thiên Chúa thường tỏ bày ý định của Ngài qua những dấu chỉ
được ghi trong lịch sử thánh. Do đó, khi không thấy các dấu chỉ của Thiên Chúa,
Dân Chúa sống trong tâm trạng hoang mang, lo âu và khắc khoải đợi chờ. Quả
thật, Thiên Chúa luôn nhắc Dân nhớ lại những dấu chỉ trong quá khứ để củng cố
niềm tin; đồng thời Ngài cũng ban những dấu chỉ hiện tại để giúp Dân sống niềm
hy vọng; và nhất là Thiên Chúa hứa ban một dấu chỉ tương lai để hoàn tất nhiệm
cục cứu độ của Ngài (X. Is 55,3; 43,16-20; . . .).
Về những dấu chỉ quá khứ, chúng ta thấy một
“sưu tập” hết sức phong phú, từ những kỳ công của Mai-sen cho đến cuộc chiếm
hữu đất thánh thời Gio-su-ê; từ những cử chỉ tượng trưng của các ngôn sứ cho
các đứa con của Hô-sê và con của I-sa-ia. . . đều có thể là dấu chỉ. Ngoài ra,
sách Thánh còn nói đến cả những dấu chỉ “tự nhiên” như cầu vồng, hoặc các tinh
tú. . .
Tuy nhiên, về những dấu chỉ thời hiện đại,
người ta thấy trong Cựu Ước có những cách hiểu khác nhau :
+ Đối với loại Sách Sử, lối nhìn về “dấu chỉ thời đại” dựa
trên việc đọc lại những biến cố từ những vị sáng lập nên Giao Ước và suy tư
theo nguyên tắc chung là : nếu Thiên Chúa, trong quá khứ, đã yêu thương những
người thuộc về Ngài; thì Ngài không thể không yêu thương họ ngày hôm nay. Tình
yêu của Thiên Chúa vẫn tỏ hiện trong đời sống của Dân vì Ngài vẫn luôn là Đấng
dẫn dắt lịch sử. Lối nhìn này luôn đặt mối liên hệ tuyệt đối giữa những diễn
biến của lịch sử với mức độ của lòng trung tín của Dân; nghĩa là nếu Dân càng
trung tín với Chúa thì càng được hưởng những phần thưởng trần thế. Về phía
Thiên Chúa, tất cả mọi may lành trong Dân là do Thiên Chúa trung tín với lời
hứa của Ngài; còn nếu có những tai ương, đó cũng là vì Thiên Chúa trung tín với
lời hứa của Ngài. Các tác giả của Sách Sử nhìn thấy những tai ương ấy mang ý
nghĩa như hình phạt để giúp Dân sám hối về tội lỗi. Việc đánh đuổi quân vô đạo
và những kẻ bất chính sẽ mang lại hạnh phúc cho Dân (X. 1 Mac 3,1-9). Trong
những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa hoặc những vị đại diện của Chúa sẽ gởi
tới một dấu chỉ nhằm giải thích minh bạch hơn ý nghĩa của một sự kiện lịch sử;
hoặc cũng có trường hợp một con người, như Giô-na-than, đã xác định ý muốn của
Thiên Chúa bằng một dấu chỉ (1 Sm 14,10)
+ Đối với các ngôn sứ, là những người mà lời giảng luôn luôn
được gợi hứng từ hoàn cảnh hiện tại, thì cách hiểu ý niệm dấu chỉ, khá gần với
các sách sử, bao hàm một sự phân biệt dấu chỉ thời đại theo hai điểm :
- Mặc dù Thiên Chúa luôn hoạt động, nhưng lịch sử của Dân
không hoàn toàn trực tiếp thể hiện muốn của Ngài. Nếu hoàn cảnh hiện tại là tai
hoạ cho Dân, đó là vì Dân đã không trung tín với những biến cố nền tảng.
- Nhưng chỉ riêng sự trở về với Thiên Chúa không đủ để
tái lập trật tự của Giao ước; cần có một hành động can thiệp mới của Thiên Chúa
: hồng ân của một giao ước mới . . . Hoạt động của Thiên Chúa trong thời hiện
đại vừa là dấu chỉ sự bất lực của Dân Israel, vừa là dấu chỉ sức mạnh của Giavê
vẫn đang tác động trong một cuộc sáng tạo mới (Xc. Is 45, 1-8).
+ Đối với loại sách Khôn Ngoan, có hai cuốn đặc biệt bàn về
bàn về chủ đề này, đó là sách Gióp và sách Giảng Viên. Được hình thành trong
một giai đoạn có những biến đổi văn hoá quan trọng, những sách này là những
tiếng kêu mãnh liệt chống lại tất cả những người muốn giải thích tình trạng khó
khăn hiện tại như ý định của Thiên Chúa. Lý do là : không phải có người nào
chối từ hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử, nhưng mỗi người lại nhìn những
sự kiện lịch sử theo cách của mình. Do đó, sách khôn ngoan không chấp nhận
những cách giải thích hoà hợp dễ dãi giữa những dấu chỉ của Thiên Chúa với cách
giải thích của con người.
Qohelet biết rằng tất cả lịch sử, tất cả những cái
nhìn tiên đoán, nhưng dự định lớn đều chỉ là “đuổi theo gió”; và “Thiên Chúa ban cho con người biết nhận thức
về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công
trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử” (Gv 3,11).
+ Về loại sách Khải Huyền, ta thấy có sự nhìn nhận cả cách
trả lời của các ngôn sứ cũng như lập trường của các tác giả sách khôn ngoan.
Tuy nhiên, nhiều khi ta thấy Thiên Chúa thinh lặng trong thời hiện tại và người
công chính không biết đi theo đường nào. Tựu trung, trong thế giới xấu xa, mọi
biến cố là dấu chỉ sự cùng tận và biến cố cùng tận này mang lại sự nghỉ ngơi
cho những người công chính, bởi vì sự cùng tận tương đương với việc trở lại của
Thiên Chúa và sự phục sinh của Ngài (X. Đn 12)
Tóm lại,
theo Cựu Ước người ta có thể xác định những ý nghĩa căn bản về dấu chỉ thời đại
như sau :
- Thiên Chúa đã thiết lập và dẫn dắt Dân của Ngài trong
quá khứ bằng cách ban cho Dân những dấu chỉ biểu lộ sự hiện diện tác động và ý
muốn của Ngài. Ngài đòi Dân gìn giữ sống động những dấu chỉ trong quá khứ để
nuôi dưỡng niềm tin; nhưng Ngài vẫn tiếp tục ban những dấu chỉ trong thời hiện
tại.
- Có những điều kiện và những cách thức riêng biệt để
biện phân những dấu chỉ, chứ không phải đọc các dấu chỉ một cách ngẫu hứng hoặc
tuỳ tiện. Đặc biệt, các dấu chỉ của Thiên Chúa biểu lộ ý định của một Thiên
Chúa ngã vị và một chương trình duy nhất của Ngài, chứ không phải là những trò
ma thuật dị đoan hoặc những giải thích về một hành động ngẫu hứng của thần
thánh.
- Để biện phân những dấu chỉ do Chúa ban, phải có một dân
tộc tin tưởng. Hơn nữa, một dấu chỉ của Thiên Chúa như thế không phải là một
chuyện có tính cách cá nhân. Chắc chắn có những con người được dành riêng, được
Thiên Chúa tuyển trạch, các ngôn sứ chẳng hạn, để nhận định, giải thích và ngay
cả đôi khi là những người làm ra các dấu chỉ mà các ngài thực hiện bằng lời
tiên báo hoặc hành động. Nhưng đó luôn là những dấu chỉ liên quan đến cộng đoàn
Dân Chúa. Do vậy, là ngôn sứ đích thực, các ngài luôn hội nhập trong dòng lịch
sử của Dân. Tất cả mọi ngôn sứ đều không phải là những cá nhân cô độc, ngay cả
khi vì sứ điệp khó được chấp nhận mà các ngài bị loại trừ trong một giai đoạn
nào đó.
- Cuối cùng, Thánh Kinh cho thấy Thiên Chúa dẫn dắt niềm
tin của Dân bằng cách loan báo “một dấu chỉ tương lai”, “một dấu chỉ vững cửu
và không thể tiêu tan”, đó chính là Đấng Mê-si-a.
1.2.2 Tân Ước
Vào thời
đại Tân Ước, có một sự chờ đợi tha thiết về sự can thiệp của Thiên Chúa; hoặc
đúng hơn, có nhiều sự chờ đợi khác nhau nơi những người Do Thái. Sứ điệp của
Đức Giêsu vừa trở nên dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã có mặt, nhưng cũng làm thất
vọng một phần những sự chờ đợi ấy. Ngài sẽ hiện diện như một “Dấu chỉ” có khả
năng mang lại sự nâng dậy cho tất cả những ai khao khát Ngài; đồng thời, cũng
trở thành duyên cớ cho nhiều người vấp ngã.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà
Maria, mẹ của Hài Nhi : ‘Thiên Chúa đã đặt chú bé này làm duyên cớ cho nhiều
người Ít-ra-en phải bị vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người
đời chống báng’” (Lc 2,33-34)
Diễn ngữ
“dấu chỉ thời đại” thấy trong Mt 16,3, hiểu cho đúng, là những dấu chỉ riêng
biệt của thời đại Thiên Sai, nghĩa là thời gian cứu độ cánh chung. Như thế, ở
đây, ta không thể nói về những dấu chỉ vũ trụ hoặc dấu chỉ ngẫu nhiên, tuỳ
hứng. Để hiểu được dấu chỉ đặc biệt này, phải đặt mình trong dòng lịch sử của
Dân Chúa, và phải qui chiếu vào dấu chỉ Giô-na (X. Mt 12, 38-42), tức sự chết
và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Tất cả mọi dấu chỉ trong dòng lịch sử ơn cứu độ
cũng như những dấu chỉ thời sau hết luôn phải qui chiếu vào Dấu Chỉ Tuyệt Hảo
là chính Đức Giêsu, Đấng được nâng cao trên thập giá và tỏ lộ quyền năng của
Ngài trong vinh quang Phục Sinh (X. Ga 12, 32-33; So 3,14; 8,28). Diễn ngữ “dấu
chỉ” trong Tân Ước diễn tả điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và lịch sử, vào thời đại
đức Mêsia.
Như thế, trong Tân ước, Thiên Chúa dấn thân trọn vẹn
vào dòng lịch sử, Thiên Chúa trở nên người để con người khám phá tiếng gọi trở
nên Thiên Chúa trong chính lịch sử của đời sống trần gian; nghĩa là khám phá ra
một tình yêu phổ quát được tỏ hiện trong suốt lịch sử nhân loại và đưa lịch sử
nhân loại đến chỗ hoàn thành.
Một cách khái quát, với biến cố đức Giêsu Kitô, người
Kitô hữu có thể khám phá thấy những ý nghĩa chính yếu của lịch sử cứu độ như
sau :
+ Đức Giêsu đến để giao hoà con người với Thiên Chúa và
giao hoà con người với nhau. Đó là một sự “hoà giải” phổ quát vừa hoàn toàn có
tính nhân loại, vừa hoàn toàn có tính thần linh. Do đó, trên bình diện này, dấu
chỉ chính là người thân cận. . .
+ Thật ra, Thiên Chúa không bẻ ngoặt lịch sử bằng một ý
muốn độc đoán : cái chết của Đức Kitô là bằng chứng nổi bật rằng Ngài không
muốn thống trị. Ngài không làm một “cú đẩy” các biến cố. Do đó, chúng ta thường
thấy Ngài chấp nhận qui luật của cuộc sống con người. Ở mức độ này, dấu chỉ
chính là thập giá.
+ Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn bởi lịch sử. Sách
khải huyền có lý. Nếu hành trình của con người đi đến ngày Cánh Chung cần phải
bước qua cái chết, thì chính cái chết không phải là điểm cùng tận mà là điểm
khai mào cho một sự thành toàn. Con người qua cái chết để bước vào cõi sống. Ở
mức độ này, dấu chỉ chính là sự phục sinh.
Tất cả những ý nghĩa của căn bản của đời sống đức Tin
Kitô giáo đều thông qua ba dấu chỉ căn bản : người thân cận, cái chết và sự
phục sinh của đức Kitô.
2. Ý niệm Dấu chỉ trong văn mạch Vatican II
2.1 Bản văn Công Đồng
Được sự khuyến khích của quyền bính trong Giáo Hội,
các nghị phụ Công đồng mạnh dạn đưa đề tài này vào trong các bản văn, nhất là
trong mạch suy tư của thần học về giáo huấn của công đồng. Người ta có thể kể
ra một số bản văn Công Đồng đã, minh nhiên hoặc mặc nhiên, diễn tả ý tưởng ”dấu
chỉ thời đại” như sau :
MV 4 : “Để chu toàn phận vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có
bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải
thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với
từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện
tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữ hai cuộc sống ấy. Do đó, cần phải
nhận biết và thấu hiểu thế giới chúng ta đang sống với những chờ đợi, mong ước
và cả tính chất thường là bi thảm của nó.”
HN 4 Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa
Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý
muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc
làm, nên thánh Công đồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận
ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia và công cuộc hiệp
nhất”.
LM 9 : “Các linh mục phải thành thật nhìn nhận và nêu cao
phẩm giá và vai trò riêng biệt của giáo dân trong sứ mệnh Giáo Hội. Các Ngài
cũng phải thành thật kính trọng sự tự do chân chính mà mọi người có quyền được
hưởng trong xã hội trần gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, lưu ý
đến các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và
khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân
sinh, để cùng với họ có thể nhận biết những dấu chỉ của thời đại”.
MV 11 “Dân Thiên Chúa, nhờ đức Tin mà tin rằng mình được
Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao phủ mặt đất hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu
là những dấu chỉ thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa
trong mọi biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những người đương
thời”.
MV 44 “Bổn phận của toàn thể Dân Chúa, đặc biệt là các chủ
chăn và các nhà thần học là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân
biệt, và giải thích các tiếng nói của thời đại, rồi phán đoán
dưới ánh sáng Lời Chúa để Chân Lý mạc khải luôn được thấu triệt, được hiểu rõ
và trình bày cách thích hợp hơn”
LM 6 : “Những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát
triển rầm rộ cũng không có ích bao nhiêu, nếu chúng không hướng về việc giáo
dục con người đạt tới sự trưởng thành Kitô giáo. Để đạt đến sự trưởng thành đó,
các linh mục phải giúp họ sáng suốt nhận ra trong các biến cố lớn nhỏ
đâu là việc phải làm, đâu là ý Chúa muốn.
TĐ 14 : “Trong các dấu chỉ thời đại chúng
ta, phải đặc biệt chú ý tới ý nghĩa ngày một gia tăng và không thể tránh được
về sự liên đới giữa các dân tộc mà nhiệm vụ của hoạt động tông đồ giáo dân là
phải lo lắng cổ động và biến nó thành một khát vọng chân thành và thiết thực về
tình huynh đệ”.
TD 15 : “Hẳn nhiên phải công nhận là thời nay con người
khát mong được tự do tuyên xưng tôn giáo mình một cách riêng tư cũng như công
khai. Hơn nữa, họ còn muốn tự do tôn giáo phải được hầu hết các hiến pháp công
bố như một dân quyền và phải được các văn kiện quốc tế long trọng chấp nhận (.
. .). Trong niềm hân hoan chào đón những dấu hiệu tốt đẹp của thời đại này,
nhưng đồng thời cũng phải đau lòng nói lên những sự kiện đáng tiếc, Thánh Công
đồng khuyên nhủ những người Công giáo và nài xin tất cả mọi người hãy để ý xem
quyền tự do tôn giáo cần thiết như thế nào, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại
của gia đình nhân loại”.
* PV 43 : “Lòng nhiệt thành cổ xuý và canh tân Phụng Vụ
Thánh đáng được xem như một dấu chỉ các ý định quan phòng của Thiên Chúa
trên thời đại chúng ta, và như cuộc viếng thặm của Chúa Thánh Thần trong Giáo
Hội; sự kiện này đem lại một đặc điểm nổi bật cho đời sống Giáo Hội, cũng như
cho mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng
ta”.
Những đoạn văn tiêu biểu nêu trên
cho thấy Công đồng nỗ lực khám phá ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong thế
giới mình đang sống, qua những “dấu chỉ thời đại”; nhờ đó, Giáo Hội nói chung
và mọi người Kitô hữu nói riêng, tích cực cộng tác với Thiên Chúa trong tiến
trình của nhiệm cục cứu độ.
2.2 Vài khía cạnh cần xác định
Với sự triển khai trong Vatican II, Giáo Hội như bừng
mắt trước thế giới chung quanh muôn mầu muôn vẻ. Tầm nhìn của Giáo Hội không
còn chỉ là một thế giới “thiêng liêng” xa cách và không dính dáng gì tới trần
thế, nhưng là biết bao nhiêu hiện tượng đang diễn ra và đang thay đổi hàng ngày
trong thế giới. Tuy vậy, vấn đề không đơn giản, con người luôn có nguy cơ đi từ
thái cực này tới thái cực kia. Công việc của Công đồng Vatican II thực sự mới
là bước khởi đầu. Việc tìm hiểu chính xác đâu thực sự là những dấu chỉ thời đại
và đâu là ý nghĩa đích thực của dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng Tin Mừng, những
điều đó, trong thực tế, còn là một nhiệm vụ không ít khó khăn. Các chuyên viên
đã không ngừng nêu lên lên những xác định cần thiết về ý niệm “dấu chỉ thời
đại”.
2.2.1. Đâu là những dấu chỉ thời đại ?
Về khía cạnh này, chúng ta có thể tạm chấp nhận “định
nghĩa” của cha Chenu như sau :
Dấu
chỉ thời đại là : “những hiện tượng, mà do sự phổ biến và thường xuyên
của nó, xác định tính chất của một thời đại; và qua những hiện tượng ấy những
khát vọng và những nhu cầu của con người hiện tại được diễn tả”[6].
Trong định
nghĩa này, cần phải lưu ý :
* Những sự kiện lịch sử
Khi nói về
những dấu chỉ lịch sử, chúng ta không nói đến những dấu chỉ được coi là “tự
nhiên” (giống như khói là dấu chỉ của lửa), và cũng không nói đến những dấu chỉ
ước lệ (như các con số, các ký hiệu, bảng chỉ đường...), nhưng chỉ đề cấp đến
những dấu chỉ của thực tại nhân sinh, được “ghi” trong những biến cố và những
thực tại của lịch sử nhân loại.
* Những sự kiện có tính cách “đậm đặc”
Đó là những sự kiện hoặc biến cố chứa đựng một ý
nghĩa, đánh dấu một bước tiến triển hoặc thay đổi trong dòng lịch sử; những sự
kiện mang lại ý nghĩa chung cho cả một thời đại, một nhóm người hoặc một nền
văn hoá. Như thế, những sự kiện lịch sử ấy có ý nghĩa không chỉ đối với người
tín hữu, nhưng bình thường chúng còn có ý nghĩa còn đối với cả những người
ngoài Kitô giáo, nhất là những người biết để tâm suy nghĩ và tìm kiếm để hiểu
những gì mình đang sống và những gì diễn ra chung quanh mình. (X. MV 11; MV 4).
Dĩ nhiên ý nghĩa mà mỗi thành phần khám phá ra có thể khác nhau.
2.2.2. Cách thức đọc dấu chỉ của người Kitô hữu
Hiển nhiên
là những dấu dấu chỉ của thời đại chỉ trở nên có ý nghĩa trong vận hành của
niềm Tin; và đối với người Kitô hữu, nguyên lý chính yếu hướng dẫn việc đọc ý
nghĩa dấu chỉ thời đại chỉ có thể là tác động của Thần Khí, Đấng “sẽ dẫn anh
em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13; X. MV 11). Do đó, thái độ của người
Kitô hữu, trước hết chính là thái độ “dễ
dạy”, lắng nghe tiếng nói của Thần Khí. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể xác
định một vài tiêu chuẩn cụ thể như sau :
* Luôn qui chiếu vào “Dấu Chỉ Của Mọi Dấu Chỉ”
Trong niềm tin, người Kitô hữu
sống trong thời đại hiện nay như thời đại Cánh Chung, nghĩa là thời đại Thiên
Chúa hoàn tất lịch sử nhân loại trong biến cố đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Dấu
Chỉ giữa mọi dấu chỉ, bởi vì Ngài là
Đấng nói với chúng ta về Thiên Chúa mà không một ai đã nói như thế bao
giờ; Ngài là tiêu chuẩn để chúng ta có thể nhận định điều gì có ý nghĩa nhất
trong đời sống chúng ta, điều đối với chúng ta có giá trị nhất, đầy sức sống
nhất tràn đầy tình yêu và sự thật nhất; Ngài trao cho ban một ý nghĩa mới và
một tầm mức mới vào những gì đã có ý nghĩa trong đời sống hiện tại.
Dù minh nhiên đề cập đến đức Giêsu
hay không, ý nghĩa chính của bản văn Công đồng luôn qui chiếu vào Đức Giêsu,
nhờ đó, Giáo Hội mới nắm bắt được tất cả ý nghĩa của những dấu chỉ đích thực và
khám phá ra điều lịch sử đang hướng đến.
* Là Thân Mình Chúa Kitô, Giáo Hội cũng là dấu chỉ thời
đại
Giáo Hội là Dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện và tác
động trong lòng thế giới (X. MV 45). Dó đó sự hiện diện và hoạt động của Giáo
Hội, dù luôn có những bất toàn, nhưng vẫn biểu lộ như một bí tích Nước Trời,
biểu lộ quyền năng của Chúa Thánh Thần trong dòng lịch sử của Gíao Hội. Thế
giới được mời gọi để nhận ra tất cả những điều đó trong cộng đoàn các tín hữu,
trong Giáo Hội; bởi vì nơi Giáo Hội, Đức Giêsu Kitô trở nên Đấng tuyên phán như
một dấu chỉ và cũng làm cho các dấu chỉ khác nói lên ý nghĩa cứu độ. Do đó,
trong Giáo Hội, chính chúng ta, cùng với và trong mối liên hệ với đức Kitô, lại
cũng trở thành những dấu chỉ sống động cho thời đại của mình.
Thực sự, nền tảng của ý niệm “dấu chỉ thời đại”, luôn
luôn nằm trong vấn đề tương quan giữa Giáo Hội và thế giới.
* Dấu chỉ thời đại là sự hiện diện của Nước Trời trong
dòng lịch sử
Từ ngữ “dấu chỉ thời đại” theo nghĩa mà Vatican II sử
dụng nói lên một sự nối kết giữa diễn tiến lịch sử và nhiệm cục Nước Trời. Dấu
chỉ thời đại chính là sự hiện diện của Nước Trời ngay hiện nay trong lịch sử.
Việc tìm kiếm ý nghĩa dấu chỉ thời đại mời gọi chúng ta bước trên nẻo đường của
một sự thông hiểu sự hiện diện của Nước Trời trong dòng lịch sử. Trong tiến
trình ấy, người tín hữu phải luôn phải tránh hai mối nguy : một đàng là lẫn lộn
giữa Giáo Hội và thế giới; đàng khác là sự tách biệt giữa tiến trình lịch sử
trần thế và thực tại Nước Trời đang đến.
Chắc chắn rằng Nước Trời, trong
sự hoàn hảo của nó, là một thực tại đang đến. Nhưng với Chúa Kitô, Nước Trời
cũng là một thực tại đã đến rồi. Và khi đó, mầu nhiệm đức Kitô đang thể hiện
trong chính thời gian. Lịch sử trở thành thành phần toàn vẹn của Vương Quốc.
“Vương Quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này
và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến” (MV 39)
Như thế, để
có thể phân biệt và giải thích dưới ánh sáng Tin Mừng, phải hiệp thông đồng
thời với Tin Mừng và với thời đại; vừa đón nhận những giá trị Tin Mừng như chất
men cần thiết để biến đổi thế giới vừa hiệp thông với những giá trị của thời
đại, với những trào lưu đang sống động. . .
2.2.4 Khởi sự của việc Loan báo Tin Mừng
Đời sống đức tin và nhiệm cục cứu độ không phải là
một sinh hoạt bên ngoài cuộc sống thực và bên ngoài những biến cố trong dòng
lịch sử. Do đó, nếu không có sự biện phân cần thiết đối với những dấu chỉ thì
cũng không có sự dấn thân chân chính vào dòng lịch sử và không có được một sứ
điệp đối với thế giới (X. MV 1 và 44).
Việc phân định dấu chỉ thời đại không phải là điều
“bên cạnh” việc loan báo Tin Mừng; nhưng là một hoạt động khởi đầu, và với danh
nghĩa này, nó là một phần toàn vẹn của việc loan báo Tin Mừng . . . Chính khi
nhận diện sự kiện lịch sử, người Kitô hữu có thể tìm kiếm những điểm “tiếp xúc”
của Tin Mừng với thời đại. Do đó, việc loan báo Tin Mừng đích thực được khởi
đầu với việc nhận diện những dấu chỉ thời đại; bởi vì loan báo Tin Mừng giả
thiết Người Kitô hữu nhận ra điều gì là quan trọng, là đậm đặc, điều gì đã “có
ý nghĩa” trong đời sống của những con người và những nhóm người thời đại; loan báo
Tin Mừng là cùng với thời đại làm sáng nên một ý nghĩa đã có hoặc làm cho một
điều chưa có ý nghĩa trở nên “có ý nghĩa” trong Đức Giêsu Kitô.
Đây là công việc của Thần Khí, nhằm để nhận định đâu
là cách thức ánh sáng của Tin Mừng có thể soi sáng cho một nhân loại đang tiến
triển và đang hình thành bộ mặt của mình.
* Trách nhiệm đọc dấu chỉ thời đại
Công đồng cho thấy Hiến chế Mục vụ số 4 và số 44 nói
rõ trách nhiệm đọc các dấu chỉ thời đại là bổn phận của toàn thể Dân Chúa (X.
MV 4; MV 11; MV 44…). Trong Dân Chúa, các tín hữu “sống giữa trần thế” có một
chỗ đứng không thể thay thế, bởi vì họ sống với những người khác, họ đứng ở
giữa điểm liên kết của cấu trúc thế giới hiện tại với sự hiển trị của Nước
Trời. Công đồng cũng lưu ý đặc biệt đến vai trò của các chủ chăn và các nhà
thần học.
Như thế, toàn thể Giáo Hội, mọi người, mỗi thành
phần, tùy theo sự khác biệt về tác vụ và trách nhiệm của mình, có trách nhiệm
phải tìm kiếm không ngừng và phân biệt được những dấu chỉ của thời đại để làm
cho chúng vang lên như một lời mời gọi, như một cột mốc chỉ đường đối với lịch
sử trần thế.
2.2.3 Những nguy cơ cần phải tránh
* Thái độ dễ dãi
Việc đọc ý
nghĩa của những sự kiện lịch sử chẳng những tùy thuộc vào ý nghĩa khách quan
của biến cố, nhưng còn lệ thuộc cả những giá trị chủ quan của người đón nhận;
vì thế, việc đọc ý nghĩa khó tránh được tính cách hàm hồ. Quả thật thế giới bao
gồm nhiều sự hàm hồ : cái xấu trộn lẫn với cái tốt; cái hoàn hảo hơn trộn lẫn
với các xấu hơn. Ngay Giáo Hội, được Thần Khí hướng dẫn, cũng không thoát khỏi
những lỗi lầm, những trệch hướng và cả những thái độ không có tính chất Tin
Mừng; trong Giáo Hội vẫn luôn có những con người mang thương tích tội lỗi.
Công đồng nhìn nhận nhiều nơi,
đặc biệt trong Vui Mừng và Hy Vọng, rằng có những tảng đá chờ đợi để xây dựng
Vương quốc của Thiên Chúa, nhưng những tảng đá ấy có thể trở nên những “tảng đá
vấp phạm” :
“Bởi vì những giá trị ấy, trong tầm mức chúng là những ân
ban của Thiên Chúa, là những điều tốt; nhưng không phải hiếm khi sự hư hoại của
trái tim con người làm chúng trệch hướng khỏi trật tự được ghi khắc: Chính vì
thế mà chúng cần được thanh lọc” (MV 11)
Do đó, cần phải hết sức cảnh giác đối với thái độ dễ
dãi, hoặc “linh thiêng hoá” quá mau; hoặc dựa vào một công thức cố định; hoặc
áp dụng một tiến trình pháp lý “tự động”. Không phải một trào lưu đang nổi bật
luôn luôn là đúng và cũng chẳng phải dễ dàng coi những biện pháp quản trị của
Giáo quyền là ý nghĩa căn bản của dấu chỉ thời đại. “Qui luật” giải thích dấu
chỉ thời đại là qui luật của niềm Tin, trong sự hướng dẫn kỳ diệu của Thần Khí,
nhằm biện phân một cách cụ thể những dấu chỉ đích thực trong mỗi tình huống,
mỗi nhóm người, mỗi thời đại của lịch sử dựa theo ánh sáng Tin Mừng.
* Thái độ “siêu lịch sử”
Phải công nhận rằng, từ lâu trong Giáo Hội, vẫn có
một não trạng “siêu lịch sử” chi phối suy tư thần học và cung cách sống đạo.
Khuynh hướng ấy giả thuyết rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa và đạt được ơn cứu độ
của Ngài diễn ra hoàn toàn trong một nơi huyền nhiệm nào đó của tâm hồn, một
tầm hồn không bị nhiễm bẩn do những thực tại của không gian và thời gian. Do
đó, người ta nỗ lực thoát khỏi những biến động của thời cuộc, nhìn những biến
cố lịch sử xung quanh mình như một thế giới đi song song hoặc bên ngoài đời
sống thiêng liêng. Suy tư thần học trong những thập niên cuối thế kỷ XX, nhờ
vào các nhà thần học như Newmann, Teilhard de Chardin, Congar, Chenu, Danielou,
Rahner, de Lubac, Shcillebeeckx ..., luôn ý thức rằng chiều kích thời gian thấm
sâu vào đời sống tinh thần của con người và tạo nên tính chất thiết yếu của mọi
kinh nghiệm nhân sinh cũng như kinh nghiệm đức Tin. Kinh nghiệm đức Tin chính
là nhận ra “nơi chốn” thực hiện nhiệm cục cứu độ, kinh nghiệm ấy được thực hiện
trong chính lịch sử. Theo nghĩa này, không có đức Tin, không có ơn cứu độ,
không có thần học nào ở ngoài lịch sử; bởi vì đức Tin là sự trả lời đối với một
biến cố, ơn cứu độ cũng chính là một biến cố và thần học chỉ có thể hiện hữu
khi dựa vào những sự kiện, từ Abraham cho đến đức Giêsu Kitô, và đến Giáo Hội,
một Giáo Hội vốn sống trong không gian và thời gian. Làm thần học không phải
chỉ là mở cuốn Denzinger, nhưng còn là suy tư một cách chân chính trên những
chất liệu cuộc sống, dựa trên ánh sáng của mạc khải.
Thần học
nẩy sinh trong lịch sử, được đọc trong lịch sử và hướng về lịch sử, bởi vì
Thiên Chúa đã trở nên Lời và nên một biến cố lịch sử. Kitô giáo không phải là
một hệ thống các tư tưởng, nhưng là “nhiệm cục cứu độ”. Chúng ta không thể hiểu
được thế giới nếu loại bỏ thời gian và những đặc tính riêng biệt, cụ thể của
thế giới. Chính đường nét ấy thể hiện tính mới mẻ riêng biệt của mặc khải Do
Thái – Kitô giáo, so với những quan niệm Đông phương cũng như Hy Lạp.
Cuộc sống trong dòng lịch sử không phải là những
chướng ngại cho sự hiểu biết chân lý, nhưng đó là nơi chốn duy nhất của mạc
khải và là nơi thực hiện chân lý mạc khải. Theo nghĩa này, mạc khải Thánh Kinh
dẫn dắt người tín hữu vượt qua mọi quan niệm siêu-lịch-sử, cũng như mọi quan
niệm về lịch sử như một chu kỳ tuần hoàn, có tính cách định mệnh và đóng kín.
* Lối nhìn duy ý thức hệ
Lối đọc sự kiện lịch sử từ quan niệm duy ý thức hệ là
lối đọc chỉ sử dụng những khía cạnh thích hợp với một hệ thống tư tưởng tiền
chế. Lối đọc ấy có nguy cơ cắt xén thực tại cụ thể hoặc bóp méo thực tại nhằm
biện minh cho một mục tiêu rõ rệt đã có từ trước. Chúng ta có một vài thí dụ
điển hình :
Trước tiên, đó là quan niệm cho rằng toàn bộ thực tại
tôn giáo là thái độ vong thân, là ảo tưởng, là thuốc phiện của quần chúng. Thái
độ ấy không tôn trọng thực tại của niềm tin trong nhu cầu của nhân loại, không
nhận ra một lối sống không vong thân mà cũng không ảo tưởng của những người tín
hữu đang dấn thân phục vụ nhân loại; không nhận ra, trong một chiều kích lịch
sử rộng lớn, tính tôn giáo là một thực tại trường tồn và sống động trong cuộc
sống nhân sinh.
Thí dụ thứ hai là thái độ giản lược tất cả những ý
tưởng và những hoạt động phát sinh từ trào lưu xã hội chủ nghĩa của Marx thành
một thế lực đối nghịch căn bản, nhuốn màu sắc vô thần, thù hận với Thiên Chúa
và chối từ tình yêu.
Một hiện tượng nữa là thái độ giản lược tất cả những
phân tích về bản năng của Freud vào một thứ giải trừ linh thánh, đề cao nguyên
lý duy nhất của cuộc sống là tính dục, và đi trệch với niềm tin…
Những thái độ “duy ý thức hệ” như thế sẽ làm cho
người ta mất sự cẩn trọng cần thiết, mất tâm hồn trong sáng khi phân tích cơ
cấu ý nghĩa của các biến cố lịch sử.
* Lối nhìn duy luân lý
Khuynh hướng duy luân lý, thật ra, cũng là một thứ
biến thể của thái độ duy ý thức hệ. Khuynh hướng duy luân lý cũng nhận định sự
kiện không theo văn mạch lịch sử xác định của chúng, nhưng theo tiêu chuẩn của
những giá trị trừu tượng. Thấy độ này không khám phá ra những gốc rễ lịch sử,
môi trường kinh tế và văn hoá của các sự kiện. Người ta đã không chịu cố gắng
khám phá sự vật trong bản chất phức tạp của chúng, nhưng luôn lấy một nhãn quan
luân lý cứng nhắc để phán xét mọi sự.
3. Sống đức Tin trong dòng lịch sử hôm nay
Việc xuất hiện từ ngữ “dấu chỉ thời đại” trong các
bản văn Công đồng cũng như trong thần học hiện đại tạo nên một ảnh hưởng rộng
rãi về điều người ta gọi là ý thức về lịch sử tính. Chiều kích lịch sử trở nên
một phạm trù nền tảng và phổ biến, hiện diện trong mọi quan niệm về mạc khải,
về niềm tin, về Giáo Hội, về ơn cứu độ và về thần học. Chúng ta ghi nhận một
vài nét biến chuyển.
3.1 Truyền thống Do thái - Kitô giáo và việc đọc dấu chỉ
Niềm Tin Do
Thái Kitô giáo luôn luôn xác tín về tác động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử,
đó là một Thiên Chúa của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa đã dính dáng vào lịch sử
của một Dân để qua đó, đi vào lịch sử của cả nhân loại. Thiên Chúa đã can thiệp
vào diễn tiến lịch sử của Dân Chúa và lịch sử nhân loại bằng quyền năng và tình
yêu lớn lao của Ngài, được soi dẫn bằng những “dấu chỉ” trong dòng lịch sử ấy.
Nẻo đường chân chính đưa con người tiếp xúc với Thiên Chúa không phải là xuất
thần, nhưng là một sự trung tín từng ngày với những dấu chỉ của Thiên Chúa được
biểu lộ trong dòng cuộc sống. Đời sống đức Tin như thế trở nên một lịch sử
nghĩa tình và có khả năng dẫn dắt người tín hữu đi vào nhiệm cục cứu độ của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự can thiệp và dẫn
dắt của Thiên Chúa không phải là một sự cưỡng chế mà bằng một “lời mời gọi”
Ngài không luôn bẻ quặt chiều hướng lịch sử nhưng muốn được nhìn nhận và được
đón nhận một cách tự do trong lòng tin. Chính vì thế, Ngài ban những dấu chỉ và
chính bản thân Ngài trở thành “Dấu chỉ” mời gọi lời đáp trả của nhân loại.
Do đó, vận mạng của con người
không phải được đúc khuôn từ trong ý định của Thiên Chúa, nhưng chính là hành
trình đáp lại một ơn ban, là thể hiện mình như được Thiên Chúa mời gọi để tiến
vào sự hiệp nhất trong tình yêu với chính Ngài. Hồng ân tuyệt diệu của Thiên
Chúa sẽ trở thành “vô nghĩa” đối với con người, nếu con người từ chối chính ý
nghĩa của niềm Tin.
Như thế,
cùng với Thiên Chúa, con người cũng được coi như kẻ tác tạo nên lịch sử đích
thực, chứ không phải chỉ là một dụng cụ thuần túy trong tay một số phận vô ngã
từ trên cao, cũng không phải là một trò chơi may rủi như một sự “tổng hoà của
những mối quan hệ” cũẫ hội loài người..
Dưới ánh sáng mạc khải, định mệnh duy nhất của con
người nằm trong một tiếng gọi phổ quát của ơn cứu độ, thể hiện một sự tôn trọng
sâu xa đối với sự độc lập tự do của con người trong lịch sử của mình. Con người
xây dựng nên lịch sử của mình trong một sự tự lập thực sự và hữu hiệu, ngay cả
khi lịch sử ấy gắn liền với hoạt động quan phòng của Thiên Chúa. Điều đó cũng
có nghĩa là ý nghĩa của lịch sử được tác tạo nên từ những ai làm ra chúng, đó
là con người và Thiên Chúa[7].
Hơn nữa, lịch sử đó không phải là một vòng tròn khép kín gồm các biến cố lập đi
lập lại trong một chu kỳ qui hồi, trong một qui luật cố định. Lịch sử là một
nẻo đường mở đối với lựa chọn của con người, lựa chọn ý nghĩa hoặc không ý
nghĩa, trong một chuỗi các biến cố; những biến cố này là hoa trái của sự quan
phòng nhiệm mầu tối cao và đáng kính trọng.
Khởi từ Vatican II, có một nỗ lực triển khai trong
chiều hướng thần học lịch sử và cụ thể để đưa Giáo Hội thoát khỏi một lối nhìn
siêu lịch sử và suy diễn mọi sự từ một nguyên lý trừu tượng; để mở ra cho Giáo
Hội sự hiểu biết đa dạng, xuyên qua không gian và thời gian, qua những nền văn
hoá và văn minh. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa con người và Thiên Chúa, dưới ánh
sáng đức Tin, là ý nghĩa đích thực của tất cả lịch sử và do đó, trở nên “lịch
sử cứu độ” hay “nhiệm cục cứu độ”. Chân lý cứu độ không còn là một hệ thống các
ý tưởng soi sáng chúng ta từ trên cao, nhưng là một lịch sử hướng tới tương lai
đầy tràn ý nghĩa mà con người không ngừng khám phá, xây dựng, thông hiểu và tác
tạo nên.
3.2 Thái độ trân trọng thực tại trần gian
Để đọc được những dấu chỉ thời đại, trước tiên phải
hoà mình vào những diễn tiến lịch sử, nhận ra những trào lưu lớn xuyên suốt
lịch sử, cũng như những nỗ lực cụ thể mong muốn biến đổi dòng lịch sử ấy. Nẻo
đường ấy giả thiết thái độ trân trọng thực tại như nó là, thực tại trong những
gốc rễ trần thế của chúng; với những nguyên nhân thực và những chiều kích mà
chúng bao hàm.
Cách thức đọc dấu chỉ của người Kitô hữu về lịch sử
là thái độ muốn khám phá sự phát triển nội tại của cuộc sống con người và hoàn
thành nó như một lời đáp đối với thực tại của hồng ân Thiên Chúa. Thực tại trần
thế không phải là chuyện phù phiếm, không phải là chuyện bên lề, không phải là
duyên cớ làm xa rời Thiên Chúa. Ngược lại, cần trân trọng “thực tại tính” để có
thể đọc và giải thích chúng trong ánh sáng cứu độ. Người tín hữu cần phải sống
trọn hành trình cuộc đời mình, phải sử dụng hết những dụng cụ có thể của con
người để đọc dấu chỉ, phải cẩn thận nhìn nhận các thực tại hiển nhiên của lịch
sử, phải nghiên cứu với tất cả phương tiện của các khoa học nhân văn. Nói cách
khác, việc đọc của người Kitô hữu không thể chối từ, hoặc đi ngược lại những dữ
kiện thực tế. Do đó, người ta khám phá tầm quan trọng của những khoa học nhân
văn và những hiểu biết về văn hoá trong suy tư thần học cũng như trong đời sống
đức Tin.
Khi đặt mình trong một thái độ lắng nghe, thái độ
đồng hành, thái độ có thiện cảm với nhân loại, người ta mới có khả năng biện phận ý nghĩa đích thực
của các dấu chỉ. Điều đó không có nghĩa là nói vâng với mọi chuyện, hoặc coi
như mọi chuyện không có gì quan trọng, không có gì nguy hiểm. Một mối thiện cảm
đích thực cũng bao hàm thái độ dám thể hiện vai trò ngôn sứ để tố cáo những sai
lạc và dám đi ngược lại những gì mà đám đông quần chúng đang theo đuổi.
3.3 Thái độ khiêm tốn và đối thoại
Từ Công đồng, người ta thấy triển khai một thái độ
nhạy cảm lớn đối với tầm quan trọng của việc lắng nghe, đón nhận và liên đới
với những người người bên cạnh chúng ta, trong đời sống, trong hành động, cũng
như trong ý muốn kiên định nhằm tìm kiếm nẻo đường thăng tiến đích thực cho
lịch sử nhân loại.
Giáo Hội không muốn đặt mình ở vị trí là “thầy” thiên
hạ; nhưng còn muốn lắng nghe, muốn thâu nhận những giá trị đích thực của các
nền văn hoá cũng như các trào lưu nhân bản. Với một thái độ khiêm tốn hơn, Giáo
hội muốn mở rộng lòng kính trọng tất cả những gì khác biệt với mình, muốn chia
sẻ ưu tư với con người, với các dân tộc, các chủng tộc, các nền văn hoá, các
nền văn minh, các tầng lớp xã hội, các nhóm người khác nhau.
Như thế, nẻo đường phát triển của Nước Trời không còn
là con đường độc đạo, con đường một chiều, nhưng mở rộng đối với những gì khác
biệt. Dĩ nhiên, thái độ ấy luôn đặt nền trên niềm tin tưởng vào đức Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại và toàn thể lịch sử vụ trụ; nẻo đường ấy
không thể hướng tới một chân trời nào khác hơn là sự thành toàn của Nước Trời.
3.4 Sống với Chúa trong một cuộc phiêu lưu
Thiên Chúa sáng tạo con người như một thụ tạo
có “cứu cánh” nơi chính mình chứ không phải là một phương tiện hay một dụng cụ
:
“Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa
dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực
hiến dâng” (MV 24)
Do đó, con
người được mời gọi chứ không bị “sỏ mũi”, con người cần sáng suốt để lắng nghe
chứ không bị “bịt mắt”, con người được tự do thực hiện vận mạng của mình chứ
không phải là rập khuôn theo một công thức.
Với nhãn quan lịch sử, đời sống Kitô hữu trở thành
một hành trình cùng với Chúa, hành trình trong sự dẫn dắt của Thần Khí Chúa để cùng
khám phá và sáng tạo, cùng quyết định và nhập cuộc trong dòng lịch sử. Đó đích
thực là một cuộc “phiêu lưu” với Chúa chứ không phải là một bài tập để tìm một
đáp số có sẵn, không phải là một thử thách vô nghĩa chỉ nhằm tới một phần
thưởng hoàn toàn xa lạ với cuộc sống hiện tại.
Trong cuộc phiêu lưu này, con người thể hiện được một
sự công chính mới, bằng thái độ lắng nghe và suy niệm như đức Maria, để tự nguyện đáp lại một cách
sáng tạo lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa trong đức Giêsu Kitô. Đó là một
cuộc phiêu lưu luôn rộng mở với những diễn tiến trong dòng lịch sử chứ không
phải đóng khung trong một qui luật tất định tiền chế.
3.5 Vài dấu chỉ thời đại tiêu biểu của thời đại
Công đồng
cho chúng ta một vài dấu chỉ tiêu biểu của thời đại như : khát vọng hiệp nhất
(X. HN 4); vai trò của người giáo dân (X. LM 9); tình liên đới giữa các dân tộc
(X. TĐ 14); quyền tự do tôn giáo (X. TD 15); lòng nhiệt thành với phụng vụ (X.
PV 43); . . .
Cùng với
những nỗ lực của Công đồng, người ta còn có thể kể ra một số hiện tượng tiêu
biểu có thể được coi như những dấu chỉ thời đại như :
- Trào lưu xã hội hoá; trào lưu trần tục hoá; những tính
chất văn hoá mới trong một xã hội công nghiệp mới
- Cổ võ phẩm giá phụ nữ; giải phóng những nhóm thiểu số;
ủng hộ tầng lớp thợ thuyền; đấu tranh cho một sự công bằng trong mức độ toàn
cầu . . .
- Khủng hoảng quyền bính; phê bình chủ trương “tập
trung”, trong lãnh vực thế tục cũng như lãnh vực tôn giáo
- Đòi hỏi lời nói phải đi đôi với hành động; nhu cầu của
đích thực tính và thái độ thành thật trong mọi lãnh vực; đòi hỏi một sự trong
sáng Tin Mừng trong tất cả những gì mang danh Kitô; từ chối một thứ tôn giáo
tách biệt với anh em . . .
- Xuất hiện những yếu tố quan trọng của khoa phân tâm;
tầm quan trọng của những phân tích xã hội Mác xít; nhu cầu đối thoại giữa Kitô
giáo và Mác . . .
- Nguy cơ ô nhiễm môi trường; thái độ tôn trọng lợi ích
chung của toàn nhân loại. . .
- Khát vọng hoà bình; nhu cầu đối thoại; trào lưu đại
kết; quan niệm bạo lực như một sự dữ tự thân…
- Sự trở lại của nhu cầu chiêm niệm và những lợi ích của
đời sống thần bí, theo nghĩa của những truyền thống tâm linh lớn của Đông và
Tây phương.
Kết luận
Với Công đồng Vatican II nói chung và trong văn mạch
của ý niệm “dấu chỉ thời đại”, chúng ta có thể thấy một giá trị mới xuất hiện
trong tâm thức của Giáo Hội : giá trị trần thế. Cuộc sống trần thế, cuộc sống
thật của con người, không còn là một điều gì đi song song và bên ngoài vận hành
của niềm Tin. Chính thái độ trân trọng cuộc sống trần thế đưa người Kitô hữu trở
lại một cuộc sống “hiện sinh” đầy tràn ý nghĩa, đặt người người Kitô hữu vào
hành trình tìm kiếm Nước Trời thông qua cuộc sống và bao hàm những thái độ “có
ý nghĩa” đối với dòng lịch sử trần thế.
Đức Giêsu đã hoàn thành sứ vụ trần thế của Ngài không
phải chỉ như một “kho ân phúc” để hoá giải tội lỗi trên bình diện pháp lý,
nhưng Ngài đã gieo Ánh sáng Tin Mừng vào trần gian, Ngài trung tín thể hiện
trọn vẹn những giá trị Tin Mừng ấy cho đến cùng, và Ngài Phục Sinh để cùng các
môn đệ tiếp tục loan báo Tin Mừng ấy cho toàn thể nhân loại :
“Đức Giêsu đến gần nói với các ông : ‘Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy
bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em
mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20)
Như nắm men phải được vùi vào đấu bột (X. Lc 13,
20-21), người Kitô hữu cũng dấn thân vào trần gian với men Tin Mừng, với sứ vụ
đem những giá trị Tin Mừng của Bài Giảng Trên Núi, những giá trị Tin Mừng đầy
tính chất cứu độ đối với lịch sử nhân loại, vào lịch sử trần gian để hướng lịch
sử ấy đi đến điểm hoàn tất trong ngày Quang Lâm.
Nguyễn Trọng Viễn O.P.
[1]
Tổng hợp từ đề mục “Signes des Temps” trong Dictionaire de Théologie
Chrétienne, Les Grand Thèmes de la Foi, Édition francaise dirigée par Joseph
Doré, Desclée 1979; Théo, Nouvelle Encyclopédie catholique, Droguet
Ardant/Fayard 1989; Dictionaire de la Vie Spirituelle, sous la direction de
Stefano De Fiores et Tullo Goffi, Les Éditions du Cerf, Paris 1987; Dictionaire
de Théologie fondamentale, Édition Francaise dirigée par René Latourelle, Les
Éditons du Cerf, Paris 1992. . .
[2]
Xc. G. Gennari, Signes des Temps, trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Sđd,
trang 1031, chú thích 7.
[3]
“Vox temporis, Vox Dei”.
[4]
Từ ngữ “dấu chỉ thời đại” không được dùng trong nguyên bản la tinh.
[5]
Trong tiếng Hy Lạp là “Sêmeia”
[6]
Xc. G. Gennari, Signes des Temps; trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Les
Éditons du Cerf , Paris
1987, trang 1030, chú thích 4.
[7]
Xc. G. Gennari, Signes des Temps, trong Dictionaire de la Vie Spirituelle,
Sđd, trang 1032-1033.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Click to see the code!
To insert emoticon you must added at least one space before the code.